Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân biệt chuẩn bị xét xử sơ thẩm với chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo qui định của luật tố tụng hành chính năm 2015 sửa đổi 2019 và đánh giá về tính hợp lí của các qui định này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.96 KB, 16 trang )

Đề bài : Phân biệt chuẩn bị xét xử sơ thẩm với chuẩn bị xét xử
phúc thẩm theo qui định của Luật tố tụng hành chính năm 2015 sửa
đổi 2019 và đánh giá về tính hợp lí của các qui định này
MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp đổi mới và dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã
hội, các hoạt động tranh giải quyết tranh chấp hành chính nói chung và
hoạt động xét xử hành chính nói riêng đã chứng minh được vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể trong xã hội trước các quyết định hành chính, hành vi hành chính
do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Xét xử vụ án hành
chính được đảm bảo theo nguyên tắc đảm bảo sơ thẩm, phúc thẩm.
Trước đó, hoạt động chuẩn bị cho việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm bao
gồm: thu thập các chứng cứ, tài liệu, xác minh và nghiên cứu chứng
cứ,.... rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hoạt
động xét xử sau này. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu “hoạt
động chuẩn bị xét xử sơ thẩm, phúc thẩm theo qui định pháp luật và
đánh giá tính hợp lí của các qui định pháp luật” đáp ứng được nhu
cầu cấp thiết, tính thời sự; có ý nghĩa khoa học, lí luận và thực tiễn cao
trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam.
NỘI DUNG
I.CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ
PHÚC THẨM THEO QUI ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH
CHÍNH.
Các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử được qui định
trong Chương X BLTTHC 2015 sửa đổi, bổ sung 2019. Thời hạn của
giai đoạn chuẩn bị xét xử được qui định tại Điều 130 Luật TTHC.
Ở giai đoạn này, tịa án có thẩm quyền phải giải quyết những công
việc như sau:
a) Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án :
Trên cơ sở báo cáo thụ lý vụ án của Thẩm phán được phân công
thụ lý vụ án, Chánh án Tịa án quyết định phân cơng Thẩm phán giải


quyết vụ án bảo đảm đúng nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu
nhiên.Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh


án Tịa án quyết định phân cơng Thẩm phán giải quyết vụ án. Đối với
vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài thì Chánh án Tịa
án phân công Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử theo đúng thời
hạn quy định của Luật này.Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm
phán được phân cơng khơng thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì
Chánh án Tịa án phân cơng Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ;
trường hợp đang xét xử mà khơng có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án
phải được xét xử lại từ đầu và thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát
cùng cấp. ( Điều
127 BLTTHC 2015 )
b) Lập hồ sơ vụ án :
Sau khi được phân công thụ lý vụ án, Thẩm phán cần lập hồ sơ vụ
án bao gồm : đơn và tài liệu, chứng cứ của đương sự, người tham gia
tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập liên quan đến vụ
án; văn bản tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án
hành chính. Các giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ vụ án hành chính phải
được đánh số bút lục, sắp xếp theo thứ tự ngày, tháng, năm và phải
được lưu giữ, quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật. (Điều 132
Luật Tố tụng hành chính 2015)
c) Xác minh, thu thập chứng cứ :
Khác với các vụ án ở trong các lĩnh vực khác, hoạt động xác minh
thu thập chứng cứ chủ yếu do Thẩm phán được phân cơng giải quyết
vụ án hành chính tiến hành. Đây là hoạt động cần thiết, có ý nghĩa bắt
buộc đối với các chủ thể tiến hành tố tụng hành chính nói chung và
đặc biệt là với thẩm phán nói riêng. Đương nhiên khi tham gia tố tụng,
đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho

mình những Tịa án vẫn có nhiệm vụ xem xét lại mọi tình tiết của vụ
án và khi cần thiết có thể thu thập chứng cứ để đảm bảo cho việc giải
quyết vụ án càng thêm chính xác (Điều 132 Luật Tố tụng hành chính
2015) . Trong trường hợp đương sự không cung cấp chứng cứ hoặc
cung cấp chứng cứ khơng đầy đủ thì Tịa án có quyền thu thập chứng
cứ để giải quyết vụ án theo đúng thời hạn, đúng pháp luật, phù hơp với
thực tế khách quan ( khoản 2,3 Điều 131 Luật Tố tụng hành chính ).
Bên cạnh việc thu thập chứng cứ, Tòa án cần phải xác minh tài liệu đó
có thuộc tính chứng cứ hay khơng, có hợp pháp khơng, có mang tính
2
2


khách quan không. Tài liệu đáp ứng đủ những nhu cầu trên mới có thể
đảm bảo cho Tịa án giải quyết vụ án hành chính một cách đúng đắn,
khách quan nhất.
d) Tố chức đối thoại :
Theo Điều 20 Luật TTHC năm 2015 về đối thoại trong tố tụng
hành chính quy định “Tịa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo
điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải
quyết vụ án theo quy định của Luật này”. Tuy nhiên, không phải trong
trường hợp nào Tịa án cũng có trách nhiệm tiến hành đối thoại, bởi lẽ
có những vụ án hành chính khơng tiến hành đối thoại khi giải
quyết(khoản 1 Điều 134 LTTHC) .Những vụ án khiếu kiện về danh
sách cử tri, Luật TTHC năm 2015 quy định không phải tổ chức đối
thoại là phù hợp vì xuất phát từ yêu cầu giải quyết khiếu kiện này phải
được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời; bởi lẽ mục đích chính
của người khởi kiện đối với vụ việc này là để có tên trong danh sách
cử tri hoặc tên phải được ghi đúng trong danh sách cử tri, nếu như việc
giải quyết vụ án hành chính trải qua thủ tục đối thoại sẽ kéo dài thêm

thời gian giải quyết vụ án hành chính có thể dẫn đến trường hợp sau
khi Tòa án xét xử xong tuyên chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện
cũng khơng cịn ý nghĩa vì hoạt động bầu cử đã qua đi.
Về các nguyên tắc đối thoại được qui định tại khoản 2 Điều
134 :”Bảo đảm công khai, dân chủ, tơn trọng ý kiến của đương
sự,,....” Vì bản chất của thủ tục đối thoại là nhằm tạo ra sự thống nhất
giữa các bên đương sự đối với vụ án hành chính mà Tịa án đang giải
quyết nên kết quả của đối thoại phải thể hiện ý chí tự quyết của các
bên tham gia đối thoại. Do đó, trong q trình tổ chức đối thoại, Thẩm
phán chỉ hướng dẫn, giúp đỡ các bên đương sự có nhận thức đúng đắn
về tính hợp pháp của đối tượng đang tranh chấp để họ lựa chọn một
hành động phù hợp với ý chí của mình.Bên cạnh việc nắm rõ quy định
của pháp luật, Thẩm phán cần phải có sự hiểu biết nhất định về quy
phạm đạo đức, phong tục, tập quán nhằm ngăn chặn các bên có những
thỏa thuận trái với đạo đức xã hội.
e) Đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án hoặc quyết định
đưa ra xét xử. ( Điều 141, 143, 146 Luật TTHC 2015)
3
3


• Trong q trình giải quyết vụ án hành chính, tùy theo tính chất, nội
dung vụ án mà thời gian để tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ có
thể bị kéo dài; đồng thời để việc giải quyết vụ án hành chính được
tồn diện, đúng pháp luật cần triệu tập được đầy đủ những người có
liên quan đến vụ án. Do đó, trong một số trường hợp Tịa án có thể
ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Việc
tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính chỉ mang tính chất tạm thời,
khi căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính khơng cịn, Tịa
án sẽ tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính có thể bị đương
sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
• Đình chỉ phiên tịa xét xử vụ án hành chính trước khi mở phiên tịa dó
Thẩm phán được phân cơng làm chủ tọa phiên tịa quyết định, khi có
một trong các căn cứ theo pháp luật theo điều 143 Luật TTHC.
Tại phiên tịa, khi có căn cứ, Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ
án có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành
chính.Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày Thẩm phán ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, Tịa án phải gửi quyết định
đó cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
• Quyết định xét xử vụ án hành chính.
2. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hành chính.
Khái niệm chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ở đây là
tổng hợp tất cả các việc mà Tòa án cấp phúc thẩm phải tiến hành khi
nhận được kháng cáo, kháng nghị của đương sự ( hoặc kháng nghị của
Viện Kiểm Sát ) và toàn bộ hồ sơ vụ án từ cấp sơ thẩm gửi lên.Trong
thời hạn 60 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công
làm Chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định:tạm đình chỉ
xét xử phúc thẩm vụ án; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; đưa vụ án ra
xét xử phúc thẩm(khoản 1 Điều 221 Luật TTHC). Đối với vụ án phức
tạp hoặc do trở ngại khách quan thì chánh án Tịa án phúc thẩm có thể
kéo dài thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm nhưng không quá 30
ngày(theo khoản 2 Điều 221 Luật TTHC ).
Sau khi nhận toàn bộ hồ sơ vụ án do cấp sơ thẩm gửi lên, tòa án
cấp phúc thẩm cần nghiên cứu kĩ hồ sơ vụ án , kiểm tra thật cụ thể đối
4
4


với kháng cáo, kháng nghị và nội dung của vụ án. Việc kiểm tra bao

gồm kiểm tra về thủ tục tố tụng và nội dung cụ thể của kháng cáo,
kháng nghị của vụ án.
• Đối với kháng cáo, kkháng nghị:
Kiểm tra về thủ tục tố tụng: Kiểm tra thời hạn kháng cáo, kháng
nghị; Kiểm tra tư cách chủ thể kháng cáo, kháng nghị; Kiểm tra hình
thức kháng cáo, kháng nghị; Kiểm tra nội dung kháng cáo, kháng
nghị.Điều 220 qui định về thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm:”Tòa án
cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần bản án, quyết định của Tịa án
cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến nội dung
kháng cáo, kháng nghị.”
• Đối với thủ tục tố tụng:
- Về thủ tục tố tụng:
+ Kiểm tra căn cứ thụ lý vụ án như: thời hạn khởi kiện, chủ thể có
quyền khởi kiện.
+ Kiểm tra về thẩm quyền, bao gồm thẩm quyền về loại việc hoặc
thẩm quyền theo cấp.
+ Kiểm tra viẹc xác định tư cách của những người tham gia tố
tụng tại tòa sơ thẩm. Đặc biệt cần lưu ý xem co bị bỏ xót người
tham gia tố tụng hay khơng.
- Về nội dụng:
+ Kiểm tra tính chính xác hay khách quan của bản án hay quyết
định sơ thẩm có phù hợp với các văn bản hiện hành và các tài
liệu, chứng cứ đã thu thập hay khơng...
+ Kiểm tra xem có cần bổ sung thêm vào chứng cứ, tài liệu hay
khơng.
• Đặc biệt: Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, tòa án chỉ có thể
đưa ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và hủy bản án sơ thẩm khi
người khởi kiện rút lại đơn khởi kiện và người bị kiện đồng ý việc rút
đơn này( điểm c khoản 1 Điều 229 LTTHC) . Ngoài ra, nếu vẫn trong
thời hiệu khởi kiện vụ án, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại.

Nếu khơng thuộc trường hợp nêu trên, tịa án cấp phúc thẩm vẫn
phải phiên tòa phúc thẩm hoặc phiên họp phúc thẩm và nếu kết quả
xét xử cho thấy đúng có một trong có TH quy định tại Điều 229
5
5


LTTHC thì hủy bản án sơ thẩm hay quyết định sơ thẩm giải quyết vụ
án.
II.ĐÁNH GIÁ VỀ TÍNH HỢP LÍ CỦA CÁC ĐIỀU LUẬT
• Về giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm :
- Về thời thu thập, xác minh chứng cứ: Điểm trừ của Điều luật này hiện
hữu tại nhiều trường hợp do sự thiếu thiện trí của người bị kiện do
pháp luật TTHC chỉ quy định mang tính chung chung, hình thức về
quyền, nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ.
Nếu họ không thực hiện nghĩa vụ này, cố tình khơng tìm kiếm và
thơng báo về việc thu thập chứng cứ thì họ cũng không phải chịu bất
cứ hậu quả nào bởi luật chưa có chế tài và biện pháp xử lí. Do đó, qui
định này dù tiến bộ những vẫn mang tính hình thức, khơng có biện
pháp cụ thể đảm bảo tính khả thi.
- Phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đôi
thoại: ( Điều 136,137,138,139 LTTHC 2015) là những qui định mới
được thêm vào trong Luật, theo đó Thẩm phán có nhiệm vụ tổ chức
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai,.. chứng cứ. Đây là điểm
mới đáng lưu ý là thủ tục bắt buộc trừ TH không phải đối thoại nhằm
tạo cơ sở để các đương sự có cơ hội đối thoại một cách bình đẳng với
nhau, góp phần giải quyết vụ án được nhanh chóng và dễ dàng. Tuuy
nhiên, vẫn chưa qui định triệt để trách nhiệm phải tham gia của các
bên đương sự ( Điều 135 Luật TTHC ) mà khơng có bất cứ kết quả
pháp lý nào, đây cũng là một điểm trừ vì điều luật này gián tiếp làm

suy giảm quyền công dân của bên đương sự, khiến cho phiên họp gặp
nhiều vướng mắc, trở ngại vì người bị kiện có thể viện đủ lí do để
vắng mặt, và do đó đối thoại khơng thực hiện được tạo tâm lí bất bình,
bức xúc cho người khởi kiện , ý nghĩa của việc đối thoại khơng đạt
được.
• Về giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm:
- Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo; bổ sung chứng cứ mới: Khoản 1,2
Điều 188, Luật TTHC có quy định “Trước khi mở phiên tồ hoặc tại
phiên tồ phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung
kháng cáo nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu,
nếu thời hạn kháng cáo đã hết…”. Người kháng cáo cần lưu ý quy
6
6


định này để đảm bảo cho việc chuẩn bị nội dung kháng cáo và hạn chế
tối đa việc thay đổi bổ sung quá nhiều lần nội dung kháng cáo. Nếu
bất đắc dĩ cần thiết phải thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu thì nên thực
hiện trước thời hạn kháng cáo.
- Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án (khoản 1,3 Điều 229
LTTHC)cịn chưa chặt chẽ: Theo đó, trong khi khoản 2 Điều 229 Luật
TTHC luận giải cho căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm tại điểm c
khoản 1 Điều 229 “người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện
kiểm sát rút tồn bộ kháng nghị” thì bản thân khoản 3 Điều 229 đưa
nội dung về “trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo
hoặc Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị” lại khơng có điểm tương
xứng nêu ở các điểm tại khoản 1 Điều 229. Chính vì điểm thiếu sót bất
cân xứng này đã cho chúng ta thấy khoản 3 có phần “lạc lõng” khơng
hài hịa, kết nối với các điểm ở khoản 1, làm cho việc nghiên cứu
khoản 3 Điều 229 có phần “hẫng hụt” trong tư duy logic vấn đề. Chính

vì vậy dưới phương diện về tư duy kỹ thuật xây dựng pháp luật, tác
giả cho rằng, dù đây không phải là hạn chế quá lớn của Luật TTHC
nhưng cũng cần phải cân chỉnh cho phù hợp, bảo đảm quy định căn cứ
đình chỉ xét xử phúc thẩm có sự tập trung, logic và phải dễ hiểu, dễ
nghiên cứu và áp dụng.

KẾT LUẬN
Có thể nói, giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính là giai
đoạn quan trọng nhất trong q trình giải quyết, xử lý một vụ án hành
chính. Qua nhiều sửa đổi, với những Luật TTHC 2005, 2010, 2015 sửa
đổi 2019, các nhà lập pháp đã bổ sung, chỉnh sửa những qui định pháp
luật ngày càng chặt chẽ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân, tổ chức trong quản lí hành chính nhà nước, đề cao trách nhiệm
của nền hành chính quốc gia và hệ thống tư pháp nhà nước pháp
quyền. Với mục đích góp phần hồn thiện pháp luật về giai đoạn
chuẩn bị xét xử sở thẩm, phúc thẩm trong q trình giải quyết vụ án
hành chính, bài tiểu luận nghiên cứu một cách có hệ thống và làm sáng
tỏ các vấn đề lí luận về giai đoạn chuẩn bị , dựa theo thực trạng pháp
luật và thực tiễn xét xử, từ đó đề xuất thêm nững biện pháp nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật tố tụng hành chính.
7
7


DANH MỤC TÀI LIỆU
1.Giáo trình Luật Tố tụng hành chính ,nxb. Bộ Công an, Đại học Luật
Hà Nội, 2014.
2.Luật Tố tụng hành chính 2010.
3.Luật Tố tụng hành chính 2015, sửa đổi bổ sung 2019.
4.Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam,Đại học luật

Hà Nội, Nguyễn Thị Hà
5. />%C2%A0-dinh-chi-xet-xu-phuc-tham-vu-an-hanh%C2%A0chinh
6. />
MỤC LỤC

Đề bài : Phân biệt chuẩn bị xét xử sơ thẩm với chuẩn bị xét xử
phúc thẩm theo qui định của Luật tố tụng hành chính năm 2015 sửa
đổi 2019 và đánh giá về tính hợp lí của các qui định này
MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp đổi mới và dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã
hội, các hoạt động tranh giải quyết tranh chấp hành chính nói chung và
hoạt động xét xử hành chính nói riêng đã chứng minh được vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể trong xã hội trước các quyết định hành chính, hành vi hành chính
do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Xét xử vụ án hành
chính được đảm bảo theo nguyên tắc đảm bảo sơ thẩm, phúc thẩm.
Trước đó, hoạt động chuẩn bị cho việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm bao
8
8


gồm: thu thập các chứng cứ, tài liệu, xác minh và nghiên cứu chứng
cứ,.... rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hoạt
động xét xử sau này. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu “hoạt
động chuẩn bị xét xử sơ thẩm, phúc thẩm theo qui định pháp luật và
đánh giá tính hợp lí của các qui định pháp luật” đáp ứng được nhu
cầu cấp thiết, tính thời sự; có ý nghĩa khoa học, lí luận và thực tiễn cao
trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam.
NỘI DUNG
I.CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ

PHÚC THẨM THEO QUI ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH
CHÍNH.
Các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử được qui định
trong Chương X BLTTHC 2015 sửa đổi, bổ sung 2019. Thời hạn của
giai đoạn chuẩn bị xét xử được qui định tại Điều 130 Luật TTHC.
Ở giai đoạn này, tịa án có thẩm quyền phải giải quyết những công
việc như sau:
a) Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án :
Trên cơ sở báo cáo thụ lý vụ án của Thẩm phán được phân công
thụ lý vụ án, Chánh án Tịa án quyết định phân cơng Thẩm phán giải
quyết vụ án bảo đảm đúng nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu
nhiên.Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh
án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án. Đối với
vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài thì Chánh án Tịa
án phân cơng Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử theo đúng thời
hạn quy định của Luật này.Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm
phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì
Chánh án Tịa án phân cơng Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ;
trường hợp đang xét xử mà khơng có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án
phải được xét xử lại từ đầu và thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát
cùng cấp. ( Điều
127 BLTTHC 2015 )
f) Lập hồ sơ vụ án :

9
9


Sau khi được phân công thụ lý vụ án, Thẩm phán cần lập hồ sơ vụ
án bao gồm : đơn và tài liệu, chứng cứ của đương sự, người tham gia

tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập liên quan đến vụ
án; văn bản tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án
hành chính. Các giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ vụ án hành chính phải
được đánh số bút lục, sắp xếp theo thứ tự ngày, tháng, năm và phải
được lưu giữ, quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật. (Điều 132
Luật Tố tụng hành chính 2015)
g) Xác minh, thu thập chứng cứ :
Khác với các vụ án ở trong các lĩnh vực khác, hoạt động xác minh
thu thập chứng cứ chủ yếu do Thẩm phán được phân cơng giải quyết
vụ án hành chính tiến hành. Đây là hoạt động cần thiết, có ý nghĩa bắt
buộc đối với các chủ thể tiến hành tố tụng hành chính nói chung và
đặc biệt là với thẩm phán nói riêng. Đương nhiên khi tham gia tố tụng,
đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho
mình những Tịa án vẫn có nhiệm vụ xem xét lại mọi tình tiết của vụ
án và khi cần thiết có thể thu thập chứng cứ để đảm bảo cho việc giải
quyết vụ án càng thêm chính xác (Điều 132 Luật Tố tụng hành chính
2015) . Trong trường hợp đương sự không cung cấp chứng cứ hoặc
cung cấp chứng cứ không đầy đủ thì Tịa án có quyền thu thập chứng
cứ để giải quyết vụ án theo đúng thời hạn, đúng pháp luật, phù hơp với
thực tế khách quan ( khoản 2,3 Điều 131 Luật Tố tụng hành chính ).
Bên cạnh việc thu thập chứng cứ, Tòa án cần phải xác minh tài liệu đó
có thuộc tính chứng cứ hay khơng, có hợp pháp khơng, có mang tính
khách quan khơng. Tài liệu đáp ứng đủ những nhu cầu trên mới có thể
đảm bảo cho Tòa án giải quyết vụ án hành chính một cách đúng đắn,
khách quan nhất.
h) Tố chức đối thoại :
Theo Điều 20 Luật TTHC năm 2015 về đối thoại trong tố tụng
hành chính quy định “Tịa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo
điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải
quyết vụ án theo quy định của Luật này”. Tuy nhiên, khơng phải trong

trường hợp nào Tịa án cũng có trách nhiệm tiến hành đối thoại, bởi lẽ
có những vụ án hành chính khơng tiến hành đối thoại khi giải
quyết(khoản 1 Điều 134 LTTHC) .Những vụ án khiếu kiện về danh
10
10


sách cử tri, Luật TTHC năm 2015 quy định không phải tổ chức đối
thoại là phù hợp vì xuất phát từ yêu cầu giải quyết khiếu kiện này phải
được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời; bởi lẽ mục đích chính
của người khởi kiện đối với vụ việc này là để có tên trong danh sách
cử tri hoặc tên phải được ghi đúng trong danh sách cử tri, nếu như việc
giải quyết vụ án hành chính trải qua thủ tục đối thoại sẽ kéo dài thêm
thời gian giải quyết vụ án hành chính có thể dẫn đến trường hợp sau
khi Tòa án xét xử xong tuyên chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện
cũng khơng cịn ý nghĩa vì hoạt động bầu cử đã qua đi.
Về các nguyên tắc đối thoại được qui định tại khoản 2 Điều
134 :”Bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương
sự,,....” Vì bản chất của thủ tục đối thoại là nhằm tạo ra sự thống nhất
giữa các bên đương sự đối với vụ án hành chính mà Tịa án đang giải
quyết nên kết quả của đối thoại phải thể hiện ý chí tự quyết của các
bên tham gia đối thoại. Do đó, trong q trình tổ chức đối thoại, Thẩm
phán chỉ hướng dẫn, giúp đỡ các bên đương sự có nhận thức đúng đắn
về tính hợp pháp của đối tượng đang tranh chấp để họ lựa chọn một
hành động phù hợp với ý chí của mình.Bên cạnh việc nắm rõ quy định
của pháp luật, Thẩm phán cần phải có sự hiểu biết nhất định về quy
phạm đạo đức, phong tục, tập quán nhằm ngăn chặn các bên có những
thỏa thuận trái với đạo đức xã hội.
i) Đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án hoặc quyết định
đưa ra xét xử. ( Điều 141, 143, 146 Luật TTHC 2015)

• Trong q trình giải quyết vụ án hành chính, tùy theo tính chất, nội
dung vụ án mà thời gian để tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ có
thể bị kéo dài; đồng thời để việc giải quyết vụ án hành chính được
tồn diện, đúng pháp luật cần triệu tập được đầy đủ những người có
liên quan đến vụ án. Do đó, trong một số trường hợp Tịa án có thể
ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Việc
tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính chỉ mang tính chất tạm thời,
khi căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính khơng cịn, Tòa
án sẽ tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính có thể bị đương
sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
11
11


• Đình chỉ phiên tịa xét xử vụ án hành chính trước khi mở phiên tịa dó
Thẩm phán được phân cơng làm chủ tọa phiên tịa quyết định, khi có
một trong các căn cứ theo pháp luật theo điều 143 Luật TTHC.
Tại phiên tịa, khi có căn cứ, Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ
án có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành
chính.Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày Thẩm phán ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, Tịa án phải gửi quyết định
đó cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
• Quyết định xét xử vụ án hành chính.
2. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hành chính.
Khái niệm chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ở đây là
tổng hợp tất cả các việc mà Tòa án cấp phúc thẩm phải tiến hành khi
nhận được kháng cáo, kháng nghị của đương sự ( hoặc kháng nghị của
Viện Kiểm Sát ) và toàn bộ hồ sơ vụ án từ cấp sơ thẩm gửi lên.Trong
thời hạn 60 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân cơng

làm Chủ tọa phiên tịa phải ra một trong các quyết định:tạm đình chỉ
xét xử phúc thẩm vụ án; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; đưa vụ án ra
xét xử phúc thẩm(khoản 1 Điều 221 Luật TTHC). Đối với vụ án phức
tạp hoặc do trở ngại khách quan thì chánh án Tịa án phúc thẩm có thể
kéo dài thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm nhưng không quá 30
ngày(theo khoản 2 Điều 221 Luật TTHC ).
Sau khi nhận toàn bộ hồ sơ vụ án do cấp sơ thẩm gửi lên, tòa án
cấp phúc thẩm cần nghiên cứu kĩ hồ sơ vụ án , kiểm tra thật cụ thể đối
với kháng cáo, kháng nghị và nội dung của vụ án. Việc kiểm tra bao
gồm kiểm tra về thủ tục tố tụng và nội dung cụ thể của kháng cáo,
kháng nghị của vụ án.
• Đối với kháng cáo, kkháng nghị:
Kiểm tra về thủ tục tố tụng: Kiểm tra thời hạn kháng cáo, kháng
nghị; Kiểm tra tư cách chủ thể kháng cáo, kháng nghị; Kiểm tra hình
thức kháng cáo, kháng nghị; Kiểm tra nội dung kháng cáo, kháng
nghị.Điều 220 qui định về thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm:”Tòa án
cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến nội dung
kháng cáo, kháng nghị.”
12
12


• Đối với thủ tục tố tụng:
- Về thủ tục tố tụng:
+ Kiểm tra căn cứ thụ lý vụ án như: thời hạn khởi kiện, chủ thể có
quyền khởi kiện.
+ Kiểm tra về thẩm quyền, bao gồm thẩm quyền về loại việc hoặc
thẩm quyền theo cấp.
+ Kiểm tra viẹc xác định tư cách của những người tham gia tố

tụng tại tòa sơ thẩm. Đặc biệt cần lưu ý xem co bị bỏ xót người
tham gia tố tụng hay khơng.
- Về nội dụng:
+ Kiểm tra tính chính xác hay khách quan của bản án hay quyết
định sơ thẩm có phù hợp với các văn bản hiện hành và các tài
liệu, chứng cứ đã thu thập hay khơng...
+ Kiểm tra xem có cần bổ sung thêm vào chứng cứ, tài liệu hay
khơng.
• Đặc biệt: Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, tòa án chỉ có thể
đưa ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và hủy bản án sơ thẩm khi
người khởi kiện rút lại đơn khởi kiện và người bị kiện đồng ý việc rút
đơn này( điểm c khoản 1 Điều 229 LTTHC) . Ngoài ra, nếu vẫn trong
thời hiệu khởi kiện vụ án, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại.
Nếu khơng thuộc trường hợp nêu trên, tịa án cấp phúc thẩm vẫn
phải phiên tòa phúc thẩm hoặc phiên họp phúc thẩm và nếu kết quả
xét xử cho thấy đúng có một trong có TH quy định tại Điều 229
LTTHC thì hủy bản án sơ thẩm hay quyết định sơ thẩm giải quyết vụ
án.
II.ĐÁNH GIÁ VỀ TÍNH HỢP LÍ CỦA CÁC ĐIỀU LUẬT
• Về giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm :
- Về thời thu thập, xác minh chứng cứ: Điểm trừ của Điều luật này hiện
hữu tại nhiều trường hợp do sự thiếu thiện trí của người bị kiện do
pháp luật TTHC chỉ quy định mang tính chung chung, hình thức về
quyền, nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ.
Nếu họ không thực hiện nghĩa vụ này, cố tình khơng tìm kiếm và
thơng báo về việc thu thập chứng cứ thì họ cũng không phải chịu bất
cứ hậu quả nào bởi luật chưa có chế tài và biện pháp xử lí. Do đó, qui
13
13



định này dù tiến bộ những vẫn mang tính hình thức, khơng có biện
pháp cụ thể đảm bảo tính khả thi.
- Phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đôi
thoại: ( Điều 136,137,138,139 LTTHC 2015) là những qui định mới
được thêm vào trong Luật, theo đó Thẩm phán có nhiệm vụ tổ chức
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai,.. chứng cứ. Đây là điểm
mới đáng lưu ý là thủ tục bắt buộc trừ TH không phải đối thoại nhằm
tạo cơ sở để các đương sự có cơ hội đối thoại một cách bình đẳng với
nhau, góp phần giải quyết vụ án được nhanh chóng và dễ dàng. Tuuy
nhiên, vẫn chưa qui định triệt để trách nhiệm phải tham gia của các
bên đương sự ( Điều 135 Luật TTHC ) mà khơng có bất cứ kết quả
pháp lý nào, đây cũng là một điểm trừ vì điều luật này gián tiếp làm
suy giảm quyền công dân của bên đương sự, khiến cho phiên họp gặp
nhiều vướng mắc, trở ngại vì người bị kiện có thể viện đủ lí do để
vắng mặt, và do đó đối thoại khơng thực hiện được tạo tâm lí bất bình,
bức xúc cho người khởi kiện , ý nghĩa của việc đối thoại khơng đạt
được.
• Về giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm:
- Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo; bổ sung chứng cứ mới: Khoản 1,2
Điều 188, Luật TTHC có quy định “Trước khi mở phiên tồ hoặc tại
phiên tồ phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung
kháng cáo nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu,
nếu thời hạn kháng cáo đã hết…”. Người kháng cáo cần lưu ý quy
định này để đảm bảo cho việc chuẩn bị nội dung kháng cáo và hạn chế
tối đa việc thay đổi bổ sung quá nhiều lần nội dung kháng cáo. Nếu
bất đắc dĩ cần thiết phải thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu thì nên thực
hiện trước thời hạn kháng cáo.
- Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án (khoản 1,3 Điều 229
LTTHC)còn chưa chặt chẽ: Theo đó, trong khi khoản 2 Điều 229 Luật

TTHC luận giải cho căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm tại điểm c
khoản 1 Điều 229 “người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện
kiểm sát rút tồn bộ kháng nghị” thì bản thân khoản 3 Điều 229 đưa
nội dung về “trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo
hoặc Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị” lại khơng có điểm tương
xứng nêu ở các điểm tại khoản 1 Điều 229. Chính vì điểm thiếu sót bất
14
14


cân xứng này đã cho chúng ta thấy khoản 3 có phần “lạc lõng” khơng
hài hịa, kết nối với các điểm ở khoản 1, làm cho việc nghiên cứu
khoản 3 Điều 229 có phần “hẫng hụt” trong tư duy logic vấn đề. Chính
vì vậy dưới phương diện về tư duy kỹ thuật xây dựng pháp luật, tác
giả cho rằng, dù đây không phải là hạn chế quá lớn của Luật TTHC
nhưng cũng cần phải cân chỉnh cho phù hợp, bảo đảm quy định căn cứ
đình chỉ xét xử phúc thẩm có sự tập trung, logic và phải dễ hiểu, dễ
nghiên cứu và áp dụng.

KẾT LUẬN
Có thể nói, giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính là giai
đoạn quan trọng nhất trong quá trình giải quyết, xử lý một vụ án hành
chính. Qua nhiều sửa đổi, với những Luật TTHC 2005, 2010, 2015 sửa
đổi 2019, các nhà lập pháp đã bổ sung, chỉnh sửa những qui định pháp
luật ngày càng chặt chẽ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân, tổ chức trong quản lí hành chính nhà nước, đề cao trách nhiệm
của nền hành chính quốc gia và hệ thống tư pháp nhà nước pháp
quyền. Với mục đích góp phần hồn thiện pháp luật về giai đoạn
chuẩn bị xét xử sở thẩm, phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án
hành chính, bài tiểu luận nghiên cứu một cách có hệ thống và làm sáng

tỏ các vấn đề lí luận về giai đoạn chuẩn bị , dựa theo thực trạng pháp
luật và thực tiễn xét xử, từ đó đề xuất thêm nững biện pháp nhằm hồn
thiện hệ thống pháp luật tố tụng hành chính.

DANH MỤC TÀI LIỆU
1.Giáo trình Luật Tố tụng hành chính ,nxb. Bộ Cơng an, Đại học Luật
Hà Nội, 2014.
2.Luật Tố tụng hành chính 2010.
3.Luật Tố tụng hành chính 2015, sửa đổi bổ sung 2019.
4.Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam,Đại học luật
Hà Nội, Nguyễn Thị Hà

15
15


5. />%C2%A0-dinh-chi-xet-xu-phuc-tham-vu-an-hanh%C2%A0chinh
6. />
MỤC LỤC

16
16



×