Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

(TIỂU LUẬN) hợp ĐỒNG và bồi THƯỜNG THIỆT hại NGOÀI hợp ĐỒNG bài thảo luận thứ năm vấn đề 1 bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.81 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGỒI HỢP ĐỒNG
Bài thảo luận thứ năm
LỚP: 122 – AUF45
Nhóm 3
Danh sách các sinh viên thực hiện:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Nguyễn Lê Trâm Anh – 2053801012020
Trần Hồ Trâm Anh – 2053801014014
Trần Dương Thiên Đồng – 2053801014041
Lê Nguyễn Hữu Khoa – 2053801014109
Bùi Nguyễn Nam Phương – 2053801011197
Trần Thị Minh Thư – 2053801015130
Liễu Hồng Thanh – 205301014237


Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra
1.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật Việt


Nam: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh
do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại nên phải bồi thường thiệt hại đã
gây ra cho phía bên kia.
Theo pháp luật Việt Nam, cụ thể từ Điều 360 đến Điều 363 BLDS 2015 quy định căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là:
- Thứ nhất là phải có hành vi vi phạm nghĩa vụ.
- Thứ hai là phải có thiệt hại xảy ra.
- Thứ ba là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra.
Những thay đổi của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
- Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ là một trong những
nội dung được bổ sung một cách cơ bản so với quy định tại BLDS 2005. Thay vì chỉ quy
định chung trong một điều luật (Điều 307 BLDS 2005), BLDS 2015 dành 4 điều luật để
quy định về nội dung này (từ Điều 360 đến Điều 363 BLDS 2015).
 Từ quy định tại những điều này có thể thấy một số nội dung mới phát triển. Căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường được ghi nhận đầy đủ và rõ ràng hơn.
Thứ hai, so với BLDS 2005 thì tại Điều 360 BLDS 2015 thì khơng cịn quy định "lỗi"
của người có hành vi vi phạm là căn cứ, điều kiện bắt buộc để làm phát sinh trách nhiệm
dân sự.
1.2. Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn
không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã hội đủ
chưa? Vì sao?
Trong tình huống trên, để xác định có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn khơng thì cần phải xác định: việc núm vú cũng như các vết mổ của bà Nguyễn
xảy ra vấn đề cần xem xét liệu đó là biến chứng do thể trạng cá nhân hay lỗi chủ quan
của bác sĩ khi thực hiện thao tác.
Trường hợp 1, nếu tình trạng của bà Nguyễn là do cơ thể phản ứng sau khi thực hiện
phẫu thuật thì khơng thể kết luận ở đây bà Nguyễn đã bị xâm phạm về sức khỏe. Do đó,
trong tình huống trên, khơng có xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn.


1


Trong trường hợp này căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn chưa hội đủ. Bởi vì:
- Thứ nhất, đã có thiệt hại xảy ra: bà Nguyễn đã bị mất núm vú phải.
- Thứ hai, có hành vi vi phạm nghĩa vụ của ông Lại là không đúng: bởi ông Lại đã làm
theo đúng thỏa thuận giữa hai bên. Nhưng do cơ thể phản ứng sau khi thực hiện phẫu
thuật của bà Nguyễn nên việc phẫu thuật núm vú đã có sự đồng ý của bà Nguyễn thì ơng
Lại mới có thể phẫu thuật tiếp cho bà.
- Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra: vì yếu
tố thứ hai đã khơng thỏa mãn nên khơng thể có mối quan hệ giữa hành vi và thiệt hại
 Vì vậy, khơng hội tụ đủ các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn.
Trường hợp 2, đây là lỗi chủ quan của bác sĩ khi thực hiện thao tác thì kết luận ở đây
bà Nguyễn đã bị xâm phạm về sức khỏe. Do đó, trong tình huống trên, có xâm phạm tới
yếu tố nhân thân của bà Nguyễn.
Trong trường hợp này căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn hội đủ. Vì:
- Thứ nhất, đã có thiệt hại xảy ra: bà Nguyễn đã bị mất núm vú phải.
- Thứ hai, có hành vi vi phạm nghĩa vụ của ơng Lại: bà Nguyễn đã thỏa thuận phẩu
thuật ngực với 4 yêu cầu: lấy túi ngực ra, thâu nhỏ ngực lại, bỏ túi nhỏ vào, khơng được
đụng chạm đến núm vú. Ơng Lại đã đụng đến núm vú phải của bà Nguyễn khiến nó bị
sưng lên, đau nhứt và đen như than. Ông Lại đã vi phạm yêu cầu của bà Nguyễn.
- Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra: trong
lúc phẩu thuật ông Lại đã đụng đến núm vú của bà Nguyễn, kết quả là bà đã bị mất núm
vú phải.
 Vì vậy, đã hội tụ đủ các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn.
1.3 Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp

đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Dựa vào khoản 2 Điều 361 BLDS năm 2015 quy định: “Thiệt hại về vật chất là tổn
thất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút”
Như vậy để xác định những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp đồng gây ra được
bồi thường thì cần phải xác định những căn cứ sau:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý nên trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng chỉ được phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ

2


trong hợp đồng và áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm đó. Hành vi vi phạm hợp
đồng có thể là hành động hoặc khơng hành động.
- Có thiệt hại thực tế xảy ra: Thiệt hại được coi là yếu tố bắt buộc và tiền đề để quyết
định có phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không. Thiệt hại trong vi phạm
hợp đồng được hiểu là thiệt hại về vật chất. Có thể là thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp và
việc xác định thiệt hại là vơ cùng quan trọng.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra: giữa hai
yếu tố này phải có mối liên hệ nội tại, tất yếu trong đó hành vi vi phạm trên thực tế phải
là nguyên nhân gây ra hậu quả. Nếu hành vi vi phạm hợp cùa một bên gây ra mà do
nguyên nhân khác thì sẽ khơng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.4 BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do
vi phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo nhóm em, BLDS năm 2015 cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần
phát sinh do vi phạm hợp đồng vì theo Điều 361 Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ tại khoản
1 “Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại vật chất và thiệt hại về tinh thần” và
theo điều 419 Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng tại khoản 3 “Theo yêu cầu
của người có quyền, Tồ án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh
thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tồ án quyết định căn cứ vào nội dung vụ

việc”.
1.5 Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh
thần khơng? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo BLDS 2015 tại khoản 3 Điều 361 ” Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần
do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân
thân khác của một chủ thể” và khoản 3 Điều 419 “Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về
tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các
lợi ích nhân thân khác của một chủ thể” mà trong tình huống trên rõ ràng ông Lại đã vi
phạm yêu cầu của bà Nguyễn được ghi trong hợp đồng phẫu thuật thẩm mỹ, làm mất
núm vú phải của bà Nguyễn, bị hở vết mổ bằng ngón tay thấy cả túi nước bên trong, phải
tiến hành mổ may lại, ảnh hưởng đến sức khoẻ, thân thể của bà Nguyễn. Vì thế bà
Nguyễn sẽ được bồi thường tổn thất về tinh thần nếu có yêu cầu.

Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng
2.1 Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
Điều 422. Thực hiện hợp đồng có thoả thuận phạt vi phạm
3


“1. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm
nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận.
3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi
phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải
bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải
bồi thường tồn bộ thiệt hại.
Trong trường hợp các bên khơng có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm.”
Điều 418. Thỏa thuận phạt vi phạm
“1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm

nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định
khác.
3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm
mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi
thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa
phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ
phải chịu phạt vi phạm.”
Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng là:
Thứ nhất, về mức phạt ở khoản 2 Điều 422 BLDS 2005 quy định “Mức phạt vi phạm
do các bên thỏa thuận” còn BLDS 2015 khoản 2 Điều 418 theo hướng “Mức phạt vi
phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”. Luật liên
quan ở đây cụ thể là: Luật xây dựng, Luật thương mại có quy định về mức phạt tối đa
(tức các bên khơng hồn toàn tự do thỏa thuận về mức phạt).
Thứ hai, tại khoản 3 Điều 422 BLDS 2005, đoạn “nếu khơng có thỏa thuận trước về
mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại” BLDS 2015 phần in
nghiêng đã được bỏ đi vì đây là vấn đề bồi thường thiệt hại và đã có quy định khác điều
chỉnh (Điều 13 và Điều 360 BLDS 2015).
Đối với vụ việc thứ nhất
Tóm tắt bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011.
Cơng ty Tân Việt và Công ty Tường Long đã ký Hợp đồng số 01-10 / TL - TV ngày
01/10/2010 và phụ lục hợp đồng ngày 07/10/2010 để mua vải thành phẩm. Nội dung
thanh tốn ngay sau khi ký hợp đồng, Cơng ty Tân Việt thanh toán trước 30% đơn hàng
gọi là tiền đặt cọc, thanh toán 40% giá trị đơn hàng ngay sau khi bên Công ty Tường
4


Long giao hồn tất và 30% cịn lại thanh tốn trong vịng 30 ngày kể từ ngày thanh tốn
cuối cùng. Ngày 19/10/2010 Cơng ty Tân Việt đã thanh tốn 30%, ngày 12/11/2010 Công

ty Tường Long giao lô hàng mẫu. Sau đó Cơng ty Tường Long có cơng văn gửi cho Công
ty Tân Việt yêu cầu tăng giá nhưng Công ty Tân Việt không đồng ý và đã gửi công văn
phản hồi. Ngày 3/12/2010 Công ty Tường Long thông báo hủy bỏ hợp đồng. Công ty Tân
Việt yêu cầu Công ty Tường Long thanh toán tiền phạt cọc và phạt hợp đồng là
509.769.640 đồng. Quyết định của Tịa án buộc Cơng ty Tường Long thanh tốn tiền phạt
102.849.604 đồng cho Cơng ty Tân Việt.
2.2 Điểm giống nhau giữa đặt cọc và vi phạm hợp đồng?
Điểm giống nhau:
- Về đối tượng thực hiện: Là khoản tiền mà một bên tham gia hợp đồng, thỏa thuận
buộc phải nộp cho còn lại của hợp đồng, thảo thuận trên.
- Về hình thức: Đều phải lập thành văn bản.
- Về hậu quả pháp lý: Bên vi phạm phải chịu mất 1 khoản tiền (mức phạt vi phạm hoặc
phạt cọc) mà không căn cứ vào thiệt hại thực tế.
2.3 Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội dung
của phạt vi phạm hợp đồng?
Khoản tiền trả trước 30% được Tịa án xác định là tiền đặt cọc.
Vì thế dựa vào phần xét thấy của bản án cho thấy: “…Do vậy số tiền thanh toán đoạt 1
là 30% giá trị đơn hàng (406.920.000 đồng) được xác định là tiền đặt cọc.” Tòa án dựa
trên khoản 3, Điều 4 Hợp đồng số 01-10/TL - TV quy định sai khi ký hợp đồng, bên mua
(Cơng ty Tân Việt) phải thanh tốn trước cho bên bán (Công ty Tường Long) 30% giá trị
đơn hàng gọi là tiền đặt cọc.
2.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả
trước 30%?
Ban đầu, Tòa án thừa nhận khoản tiền trả trước 30% ban đầu là tiền đặt cọc để đảm
bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Sau đó, Tòa án nhận định rằng bị đơn đã thực hiện lần
giao hàng thứ nhất và nguyên đơn cũng đã chấp nhận lần giao hàng này. Vì vập Hợp
đồng đã được thực hiện và phần tiền cọc phải được trả lại cho nguyên đơn hoặc được trừ
để thực hiện nghĩa vụ trả tiền, tức lúc này khoản tiền này khơng cịn là tiền cọc mà là tiền
thanh toán một phần giá trị hợp đồng.
Tòa án cũng đã căn cứ vào các quy định tại khoản 2 Điều 358 BLDS 2005 tương

đương với khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 quy định về đặt cọc: “ Trường hợp hợp đồng
được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để
5


thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì
tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực
hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương
giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Nghĩa là bị đơn chỉ bị phạt cọc
khi bị đơn từ chối thực hiện hợp đồng. Ở đây hợp đồng đã được thực hiện nên không thể
áp dụng các điều kiện có trong quy định của Điều luật trên.
Đối với vụ việc thứ hai
Tóm tắt Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.
Ngun đơn: Cơng ty TNHH Yến Sào Sài Gịn
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Ngọc Hùng, giám đốc công ty.
Bị đơn: Công ty cổ phần Yến Việt
Người đại diện theo pháp luật: Bà Đặng Phạm Minh Loan, giám đốc cơng ty.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ơng Vũ Hồng Lương
- Ơng Võ Thái Lâm
Nội dung:
Tháng 10/2010, Công ty Yến Sào và Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Yến Việt
(gọi tắt là Công ty Yến Việt). ký hợp đồng nguyên tác 02/HĐNT về việc đồng ý cho công
ty Yến Sào phân phối độc quyền ra phía Bắc các sản phẩm từ yến mang nhãn hiệu Yến
Việt trong thời hạn mười năm. Tại điều 11 của Hợp đồng, hai bên thỏa thuận “Nếu trong
quá trình thực hiện hợp đồng, bên nào vi phạm các điều đã cam kết trong hợp đồng thì
bên vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bên kia số tiền 10.000.000.000 đồng.”
Công ty Yến Sào đã nhập 3 lô hàng của công ty Yến Việt. Tuynhiên, công ty Yến Việt đã
thành lập chi nhánh và các cửa hàng phân phối tại Hà Nội mà không trao đổi với công ty

Yến Sào, và đã vi phạm Hợp đồng số 02 và gây thiệt hại cho công ty Yến Sào. Nên công
ty Yến Sào khởi kiện, buộc công ty Yến Việt bồi thường 10.000.000 .000 đồng, bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng 5.050.300.000 đồng, hồn trả 145.478.000 đồng và buộc
cơng ty Yến Việt chấm dứt hoạt động phân phối các sản phẩm từ yến tại thị trường phía
Bắc. Sau đó, Cơng ty Yến Việt có đơn phản tố u cầu Cơng ty Yến Sào trả số tiền
635.522.000 đồng và 447.660.150 đồng tiền lãi trả chậm, yêu cầu công ty Yến Sào chấm
dứt vi phạm ngừng phân phối sản phẩm.
Quyết định của Tòa án
- Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 11/2020/KM-KDTM ngày
9/6/2020 của Chánh án TANDTC.

6


- Hủy quyết định giám đốc thẩm số 12/2019/KDTM-GĐT, hủy bản án kinh doanh

thương mại phúc thẩm số 01/2017/DSPT, hủy bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
06/KDTM-ST.
- Giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét
xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.
2.5 Cho biết điểm giống và khác nhau giữa thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng và thoả
thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Điểm giống nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại:
- Phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại đều được áp dụng đối với các hợp
đồng có hiệu lực. Cơ sở áp dụng: phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên thực tế và phải
có lỗi của bên vi phạm.
- Đều là trách nhiệm pháp lý áp dụng với các chủ thể hợp đồng, bảo vệ quyền và lợi
ích của bên bị vi phạm
- Đều là các quy định của pháp luật nhằm ngăn ngừa sự vi phạm hợp đồng.
Điềm khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại:


Điều kiện áp
dụng

Mục đích

Giới hạn áp dụng


7

Nghĩa vụ của các
bên

Tính phổ biến

Phương thức

2.6 Theo Tồ án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của
Toà án trong Quyết định số 10 là thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng hay thoả thuận
về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?
Theo Tồ án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của Toà án
trong Quyết định số 10 là thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
Bồi thường thiệt hại vẫn phát sinh dù khơng có thỏa thuận giữa các bên và khi hội tụ đủ
các yếu tố như: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra.
Theo đó tồ án phúc thẩm xác định cơng ty Yến Việt không bị phạm quy định tại điều
1 hợp đồng số 02/HDNT. Buộc Công ty TNHH Yến Sào Sài Gịn phải trả cho Cơng ty cổ
phần Yến Việt số tiền 854.777.000 đồng (trong đó tiền mua hàng cịn thiếu nợ
635.522.000 đồng; trả lãi đối với số tiền 635.522.000 đồng tính từ tháng 02/2011 đến

tháng 12/2014 số tiền 219.255.000
2.7 Theo Toà giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thoả thuận được nêu tại mục 4
phần Nhận định của Toà án trong Quyết định số 10 là thoả thuận phạt vi phạm hợp
đồng hay thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?


8


Theo Toà giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thoả thuận được nêu tại mục 4 phần
Nhận định của Toà án trong Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 là thỏa
thuận phạt vi phạm hợp đồng.
Bởi vì: Tại Điều 11 Hợp đồng nguyên tắc số 02, hai bên đã thỏa thuận: “...nếu trong
quá trình thực hiện Hợp đồng, bên nào vi phạm các điều kiện đã cam kết trong Hợp đồng
thì bên vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bên kia số tiền là 10.000.000.000
đồng. Tòa án căn cứ vào điều 300, 301, 302, 303, 304 Luật Thương Mại 2005 thì phạt vi
phạm hợp đồng là việc các bên thỏa thuận phải trả một khoản tiền phạt được xác định
trước , nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm . Tuy nhiên với
số tiền 10.000.000.000 đồng đã quá mức phạt tối đa so với Điều 301 Luật Thương Mại
2005 (mức phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm). Có thể thấy
đã có sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó xác định nếu 1 bên vi phạm
nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm trong trường hợp này số tiền là
10.000.000.000 đồng. Và đã xác định các bên có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại gồm
đủ các yếu tố: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm hợp
đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm gây ra và khoản
lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm.
2.8 Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng thẩm
phán?
Hướng xác định nêu trên của Hội đồng thẩm phán là thuyết phục, bởi vì:
Vi phạm hợp đồng là vấn đề không ai mong muốn, tuy nhiên đây lại là điều không thể

tránh khỏi khi giao kết hợp đồng trên thực tế. Tịa án đã xác định được mục đích của các
bên về mức bồi thường 10.000.000.000 là phạt vi phạm hợp đồng, tuy nhiên thỏa thuận
này được tòa giám đốc thẩm cho rằng các bên thỏa thuận đã vi phạm quy định về thỏa
thuận mức phạt vi phạm tại điều 301 luật thương mại 2005. Nếu xác minh bồi thường
thiệt hại thì cần phải chứng minh có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế, hành
vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại và bên yêu cầu bồi thường
thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản
lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm. Ở tịa
án sơ thẩm và ủy ban thẩm phán cấp cao đã yêu cầu bồi thường mà chưa làm rõ thiệt hại
do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra.

Vấn đề 3: Sự kiện bất khả kháng

9


3.1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các bên
có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu rõ cơ
sở khi trả lời.
Một sự kiện được coi là sự kiện bất khả kháng khi thoả mãn ba điều kiện: Sự kiện
khách quan, xảy ra ngồi ý chí của bên vi phạm, bên vi phạm không thể lường trước
được; bên vi phạm không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết
và khả năng cho phép.
CSPL: Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015.
Nhưng theo Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 có quy định về trách nhiệm dân sự do vi
phạm nghĩa vụ như sau:“Trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thực hiện đúng nghĩa vụ do
sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Theo đó, các bên trong hợp đồng khơng
thể thỏa thuận về một số những sự kiện bất khả kháng có thể xảy ra trong q trình thực
hiện hợp đồng vì sự kiện bất khả kháng là khơng thể lường trước được. Ví dụ cụ thể như

tắc biên, bị giam ở hải quan, …là trường hợp của sự kiện bất khả kháng đáp ứng đủ ba
điều kiện tại Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 và có thể được miễn trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
Hay Khoản 2 Điều 584 BLDS 2015 có quy định như sau:“Người gây thiệt hại khơng
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp phát sinh thiệt hại là sự kiện
bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có sự thoả
thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
 Vậy qua hai điều khoản trên có thể kết luận rằng các bên có thể thoả thuận với nhau về
trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
3.2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do
sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
Hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự kiện bất
khả kháng trong BLDS:
- Khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra thì bên có nghĩa vụ được miễn trách nhiệm nếu
nghĩa vụ không được thực hiện đầy đủ hoặc không thực hiện đúng do sự kiện bất khả
kháng gây ra.
- Được kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng.
- Ngoài ra, nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng dẫn
đến việc thực hiện hợp đồng sẽ khơng có lợi cho các bên thì các bên có thể chấm dứt việc
thực hiện hợp đồng.

10


- Trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện

bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ khi có thoả thuận khác hoặc
pháp luật quy định.
 Hệ quả pháp lý trong hợp đồng không thực hiện được do sự kiện bất khả kháng trong
Luật Thương mại thì theo Điều 294 Luật Thương mại thì khi có sự kiện bất khả kháng

xảy ra thì người vi phạm được miễn trách nhiệm.
3.3 Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng khơng? Phân tích các điều
kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
Theo quan điểm của nhóm em, số hàng trên hư hỏng do sự kiện bất khả kháng hoặc
khơng thì còn tùy vào các trường hợp sau:
o Trường hợp thứ nhất: Biết về thơng tin của cơn gió
Thực tế, khi các tàu vận chuyển hàng trên đường thuỷ đều tiên tiến về mặt kĩ thuật,
máy móc (cụ thể hơn là có bảng thủy triều), do đó trước khi ra bắt đầu khởi hành chuyến
tàu, tàu trưởng hoặc người lái tàu hồn tồn có đủ điều kiện để lường trước được mức độ
gió, bằng cách xem dự báo thời tiết. Tuy gió là một hiện tượng tự nhiên, con người khơng
có chức năng kiểm sốt, điều khiển nó nhưng vẫn có thể dự đốn được. Ngày nay, báo
đài, truyền thơng đã phổ biến trên cả nước, cho nên bên vận chuyển phải chủ động tìm
hiểu việc này. Nhóm cho rằng, việc làm này cũng là một việc làm hết sức quan trọng và
bắt buộc phải thực hiện nhiều lần trước khi khởi hành chuyến tàu. Vậy thì, đây là sự kiện
xảy ra có thể nằm trong sự lường trước được của bên vận chuyển. Do có thể lường trước
được nên có thể chuẩn bị được các biện pháp cần thiết để bảo đảm số hàng trên, hoặc nếu
dù chuẩn bị nhưng vẫn số hàng đó vẫn bị hư hỏng thì đó là rủi ro trong q trình thực
hiện cơng việc.
 Chính vì vậy, nhóm cho rằng đối với trường hợp này thì số hàng trên hư hỏng khơng
phải do sự kiện bất khả kháng.
o Trường hợp thứ hai: Không biết về thơng tin của cơn gió.
Đây là trường hợp vẫn có thể xảy ra trên thực tế. Mặc dù, các nhà khí tượng học đều
có thể dự đốn được các cơn gió, bão, nhưng vẫn có một số trường hợp xảy ra ngồi dự
kiến các nhà khí tượng học. Vì vậy, việc tàu của của anh Văn không lường trước được và
không thể chuẩn bị mọi biện pháp cần thiết để vượt qua cơn gió, dẫn đến số hàng bị hư
hỏng.
 Đối với trường hợp này thì theo nhóm cho rằng đã hội tủ 3 yếu tố để cho rằng đây là
sự kiện bất khả kháng. Vì:
- Gió là hiện tượng tác động của thế giới khách quan nên con người khơng thể chuẩn
đốn chính xác được.


11


- Đây là hiện tượng tác động từ thế giới khách quan nên con người khơng thể lường

trước hồn tồn được.
- Bởi vì khơng thể dự đốn trước được nên anh Văn khơng thể nào chuẩn bị đề phịng
chống lại cơn gió này, mặc dù trong tình huống khơng nói rõ về việc anh Văn có cố gắng
bảo vệ hàng hóa khơng nhưng sẽ khơng ai muốn hàng hóa của mình bị thiệt hại. Đây là
giao dịch mang mục đích kinh doanh, cho nên việc hàng hóa bị hư hỏng sẽ phải bồi
thường lại hàng hóa chứ khơng hề có lợi trong kinh doanh. Do đó có thể cho rằng anh
Văn đã cố gắng trong việc bảo vệ hàng hóa.
3.4 Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường cho
anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào các quy định sau:
Tại khoản 2 Điều 351 BLDS 2015, cụ thể quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ
khơng thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm
dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”
Tại khoản 3 Điều 541 BLDS 2015 quy định: “3. Trương hợp bất khả kháng dẫn đến
tải sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên
vận chuyển khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác.”
Ngồi ra tại khoản 1 Điều 22 Nghị định số 87/2009/NĐ-CP của Chính phủ về vận tải
đa phương thức có quy định là: “Người kinh doanh vận tải đa phương thức không phải
chịu trách nhiệm về tổn thất do mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm nếu chứng
minh được việc gây nên mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm trong quá trình vận
chuyển thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Nguyên nhân bất khả kháng…”
 Theo đó, nếu giữa anh Văn và anh Bình khơng có thoả thuận về việc bồi thường do sự
kiện bất khả kháng thì anh Văn khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường cho anh Bình về

việc hàng bị hư hỏng. Nếu giữa anh Văn và anh Bình có thoả thuận về việc bồi thường do
sự kiện bất khả kháng thì anh Văn có phải bồi thường cho anh Bình về việc hàng bị hư
hỏng hay không phụ thuộc vào thoả thuận của hai bên.
3.5 Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường
cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được u cầu Cơng ty bảo hiểm
thanh tốn khoản tiền này khơng? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản và thực tiễn
xét xử.
Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có thỏa thuận bồi thường cho
anh Bình giá trị hàng hóa hư hỏng thì anh Văn có quyền u cầu cơng ty bảo hiểm thanh
toán khoản tiền này.
12


Tại BLDS 2005 có quy định về hợp đồng bảo hiểm cho trường hợp này, cụ thể là Điều
580 BLDS 2005:
“Điều 580. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
1. Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba theo thoả thuận
hoặc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên mua
bảo hiểm hoặc cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối với thiệt hại mà
bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức bảo hiểm đã thoả thuận hoặc
theo quy định của pháp luật.
2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã bồi thường thiệt hại cho người thứ ba thì có
quyền u cầu bên bảo hiểm phải hồn trả khoản tiền mà mình đã trả cho người thứ ba,
nhưng không vượt quá mức trả bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật đã
quy định.”
Nhưng đến BLDS 2015 quy định này khơng cịn và chỉ quy định về những loại hợp
đồng mang tính đặc trưng và đại diện. Sở dĩ rút quy định về hợp đồng bảo hiểm vì hoạt
động kinh doanh bảo hiểm là có điều kiện và đã được điều chỉnh bởi luật chuyên ngành
(Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo
hiểm, đặc biệt các Nghị định, Thông tư hướng dẫn rất chi tiết) nên nếu đưa vào Bộ luật

Dân sự sẽ rất phức tạp.
Theo đó trong trường hợp này có thể căn cứ vào khoản 1 Điều 53 Luật kinh doanh bảo
hiểm số 24/2000/QH10: “1. Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phát sinh nếu
người thứ ba yêu cầu người được bảo hiểm bồi thường thiệt hại do lỗi của người đó gây
ra cho người thứ ba trong thời hạn bảo hiểm.”
Tuy vậy thực tiễn xét xử có 2 quan điểm trái ngược nhau. Cụ thể được nêu tại hai bản
án sau:
Bản án số 110/2006/DSPT ngày 5/5/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Tóm tắt bản án:
Anh Lê Văn Khen nhận chở thuê hàng bằng đường thủy. Anh Khen có mua bảo hiểm
thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên
đường vận chuyển, tàu bị gió lốc nhấn chìm và gây thiệt hại đến tài sản hàng hóa. Trong
hợp đồng nhận chuyển hàng, anh Khen thỏa thuận chịu trách nhiệm trường hợp này và đã
bồi thường cho chủ hàng anh chở thuê số tiền 40.950.000 đồng. Nay anh yêu cầu công
tuy Bảo Việt Trà Vinh phải bồi hoàn lại cho anh mà anh thay Công ty bồi thường cho các
chủ hàng anh chở thuê. Tại bán án này, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh khẳng định việc
gây thiệt hại cho các chủ hàng là do hiện tượng bất khả kháng. Nhưng theo Tòa, anh
Khen tự nguyện nhận bồi thường (trái với quy định của pháp luật) nên anh phải tự chịu
trách nhiệm.
Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/5/2003 của Toà dân sự TANDTC
13


Tóm tắt bản án:
Ơng Khóm nhận chuyển 2.600 con vịt cho ơng Điền và ơng Trình bằng tàu của mình.
Ơng Khóm tham gia bảo hiểm dân sự của chủ tàu và trong hợp đồng có nêu rõ điều kiện
bảo hiểm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì Bảo Việt
nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên chở trên tàu,
thuyền được bảo hiểm. Trên đường vận chuyển, do mưa gió to, nước chảy mạnh, tàu va
vào chân cầu bị chìm làm tổn thất trị giá đến 79.100.000 đồng số tiền vịt. Vì ơng Khóm

thỏa thuận trong hợp đồng với ơng Trình ơng Điền nên đã bồi thường số tiền trên. Nay
ơng Khóm u cầu Bảo Việt hồn trả ông số tiền nói trên. Về vụ việc trên, theo Tịa vì
các bên có nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm nói trên và theo Điều 546 BLDS 2005 vẫn
cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ơng
Khóm và ơng Trình, ơng Điền là khơng trái pháp luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo
Việt An Giang; Cơng ty Bảo Việt phải có trách nhiệm bảo hiểm cho ơng Khóm.
 Do vậy, để uy tín trong các quan hệ tương tự như trên, tốt hơn hết các bên nên nêu rõ
trong hợp đồng bảo hiểm là có hay khơng bảo hiểm trong trường hợp thiệt hại do sự kiện
bất khả kháng.

Vấn đề 4: Thực hiện hợp đồng khi hồn cảnh thay đổi cơ bản
Tóm tắt Bản án số 133/2021/DS-PT ngày 08/07/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau.
Nguyên đơn: Anh Phan Văn T và Chị Nguyễn Hồng N.
Bị đơn: Công ty TNHH Đầu tư và phát triển Thanh M.
Ngày 01/8/2018 vợ chồng anh Phan Văn T và chị Nguyễn Hồng N ký hợp đồng với
Công ty do chị Trần Thị Thúy A là Giám đốc, cho Công ty thuê căn nhà làm Trung tâm
giảng dạy tiếng anh và tốn tính nhanh, thời hạn th là 3 năm từ ngày 1/10/2018 đến
30/9/2021 và có giá thuê trong hợp đồng. Sau 1 thời gian hoạt động do diễn biến tình
hình dịch Covid nên phía bị đơn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà, phía
nguyên đơn cho rằng có dịch bệnh Covid-19 nhưng bị đơn chưa tận dụng hết khả năng để
khắc phục mà mục đích chuyển đến địa điểm mới tiếp tục kinh doanh cho nên không xem
là bất khả kháng. Theo như bị đơn, thì do dịch bệnh nên khơng có học sinh đi học, Công
ty giải thể cho nên ngày 26/02/2020 gửi Thông báo chấm dứt thuê nhà trước 03 tháng, bị
đơn xác nhận mình thực hiện đúng khoản 9.7 Điều 9 Hợp đồng. Tuy nhiên, lý do chấm
dứt nguyên đơn không chấp nhận. Việc ký hợp đồng được lập thành văn bản và có cơng
chứng chứng thực. Hội đồng xét xử nhận thấy, dịch Covid-19 xảy ra thì các đương sự
14



không lường trước được, trên thực tế dịch bệnh đã gây ra hậu quả hết sức nặng nề, làm
ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh từ đó dẫn đến
ảnh hưởng đến thu nhập của mọi người là sự thật xảy ra mà cụ thể trong vụ án này đã ảnh
hưởng đến nguyên đơn, bị đơn. Hiện tại nhà của nguyên đơn vẫn chưa có người th mà
ngun đơn cịn phải đóng tiền vay Ngân hàng; về phía bị đơn, sau khi cả nước thực hiện
Chỉ thị 16 vào năm 2020 thì số học sinh đến lớp bị hạn chế dẫn đến doanh thu thấp nhưng
phải chi trả lương nhân viên và các chi phí khác.
4.1 Điểm giống và khác nhau giữa sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi khi
thực hiện hợp đồng (về sự tồn tại và hệ quả pháp lý của hai trường hợp này).
Sự kiện bất khả kháng được quy định trong Điều 156 BLDS 2015.
Hoàn cảnh thay đổi khi thực hiện hợp đồng được quy định trong Điều 420 BLDS
2015.
o

Giống nhau:

- Đều là sự kiện xảy ra một cách khách quan và con người không thể lường trước

được.
- Không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng

cho phép.
- Đều gây ra thiệt hại.
o

Khác nhau:
Sự kiện bất khả kháng
Về định nghĩa:
Một sự kiện được xem sự kiện bất khả
kháng nếu hôi tu đu 03 yêu tô:

- khach quan
- không thê lương trươc
- không thê khăc phuc.

15


- Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu

như các bên biết trước thì hợp đồng đã
khơng được giao kết hoặc được giao kết
nhưng với nội dung hoàn toàn khác
- Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà
khơng có sự thay đổi nội dung hợp đồng
sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên
- Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng
mọi biện pháp cần thiết trong khả năng
cho phép, phù hợp với tính chất của hợp
đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu
mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.
Về hệ quả pháp lý:
- Sự kiện bất khả

kháng hoặc trở
ngại khách quan
làm cho chủ thể có
quyền khởi kiện,
quyền yêu cầu
không thể khởi
kiện, yêu cầu trong

phạm vi thời hiệu.
- Trường hợp bên
có nghĩa vụ khơng
thực hiện đúng
nghĩa vụ do sự kiện
bất khả kháng thì
khơng phải chịu
trách nhiệm dân sự,
trừ trường hợp có
thoả thuận khác
hoặc pháp luật có
quy định khác.
(Khoản 2 Điều 351
BLDS 2015)

- Yếu

tố ‘khơng
thể lường trước
được’ có phạm vi
áp dụng rộng hơn,
không bị giới hạn ở
sự kiện bất ngờ, mà
bao gồm bất kỳ sự
kiện nào xảy ra
không được các
bên dự liệu tại thời
điểm giao kết hợp
đồng.
- Hoàn cảnh thay

đổi phải lớn đến
mức tác động đến
cơ sở nền tảng giao
kết hợp đồng của
các bên.
- Việc tiếp tục thực
hiện hợp đồng sẽ
gây thiệt hại
nghiêm trọng cho
một bên.
+Hoàn cảnh thay
đổi cơ bản không
phải là cơ sở để


được hoãn thực
hiện nghĩa vụ
hoặc miễn trừ
trách nhiệm của
bên
bị
ảnh
hưởng.
- Khi hồn cảnh
thay đổi cơ bản,
bên
bị
ảnh
hưởng chỉ được
quyền u cầu

bên cịn lại đàm
phán lại hợp
đồng hoặc yêu
cầu Tòa án sửa
đổi hoặc chấm
16

dứt hợp đồng.
Tuy nhiên, bên
nhận được đề
nghị đàm phán
lại hợp đồng
khơng có nghĩa
vụ phải đàm
phán hoặc phải
chấp nhận bất kỳ
đề nghị nào từ
bên
bị
ảnh
hưởng.
- Trong quá trình
đàm phán sửa
đổi, chấm


dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc,
các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa
vụ của mình theo hợp đồng chứ không
chấm dứt việc thực hiện nghĩa vụ, trừ

trường hợp có thỏa thuận khác.
- Nếu tại sự kiện bất khả kháng, bên bị
ảnh hưởng phải chứng minh rằng mình
“khơng thể khắc phục” được. Cịn đối với
khái niệm “hồn cảnh thay đổi cơ bản” thì
bên bị ảnh hưởng vẫn có thể khắc phục
được, tức là vẫn có thể thực hiện hợp
đồng. Tuy nhiên, việc thực hiện hợp đồng
sẽ gây bất lợi (về mặt kinh tế) đáng kể cho
bên có nghĩa vụ.

4.2 Trong vụ việc nêu trên, theo Tòa án, việc chấm dứt hợp đồng là do sự kiện bất khả
kháng hay do hồn cảnh thay đổi cơ bản? Vì sao?
Theo Toà án, việc chấm dứt hợp đồng là do hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
Căn cứ vào đoạn trong phần Nhận định của Tịa án: “Qua xem xét tồn diện chứng cứ,
Hội đồng xét xử nhận thấy, dịch Covid-19 xảy ra thì các đương sự khơng lường trước
được, trên thực tế dịch bệnh đã gây ra hậu quả hết sức nặng nề, làm ảnh hưởng đến cuộc
sống bình thường, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh từ đó dẫn đến ảnh hưởng đến thu
nhập của mọi người là sự thật xảy ra mà cụ thể trong vụ án này đã ảnh hưởng đến nguyên
đơn, bị đơn. Hiện tại nhà của nguyên đơn vẫn chưa có người thuê mà nguyên đơn cịn
phải đóng tiền vay Ngân hàng; về phía bị đơn, sau khi cả nước thực hiện Chỉ thị 16 vào
năm 2020 thì số học sinh đến lớp bị hạn chế dẫn đến doanh thu thấp nhưng phải chi trả
lương nhân viên và các chi phí khác...; Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn cung cấp chứng
cứ bị đơn vẫn tiếp tục kinh doanh sau khi chấm dứt thuê nhà, đó là bị đơn vẫn nộp thuế
hàng tháng, có phiếu thu tiền học phí, tuy vậy hồ sơ khơng thể hiện thu nhập của bị đơn
từ hoạt động kinh doanh. Trong trường hợp này, quá trình thực hiện hợp đồng khi hồn
cảnh thay đổi cơ bản thì các bên có thể thương lượng với nhau, tại khoản 2 Điều 420 Bộ
luật dân sự quy định: “Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh
hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời gian hợp lý”.


17


- Dịch Covid-19 không đươc xem la “sư kiên bât kha khang” vì yếu tố thứ ‘khơng thể

lường trước’ có thể khơng cịn vì dịch Covid-19 đã xảy ra từ đầu năm 2020 và kéo dài
gần hai năm; và yêu tô ‘không thê khăc phuc đươc’ cân phai xem xet tưng trương hơp,
hoan canh cu thê tùy thuộc vào các hành động và biện pháp khắc phục mà một bên đã
thực hiện.
- Trường hợp trên là hoàn cảnh thay đổi cơ bản vì hợp đồng thuê nhà được ký kết

trước thời điểm xuất hiện dịch Covid-19. Cụ thể trong bản án là ngày 01/8/2018 vợ
chồng nguyên đơn ký hợp đồng với Công ty do chị Trần Thị Thúy A là Giám đốc cho
Công ty thuê căn nhà làm Trung tâm giảng dạy tiếng anh và tốn tính nhanh, thời hạn
th là 3 năm từ ngày 1/10/2018 đến 30/9/2021.

4.3 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án (đặc biệt là liên
quan đến hoàn cảnh thay đổi cơ bản).
Hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý vì:
Dịch Covid-19 xảy ra đã gây ra hậu quả hết sức nặng nề, làm ảnh hưởng đến cuộc
sống bình thường, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh từ đó dẫn đến ảnh hưởng đến thu
nhập của mọi người là sự thật xảy ra mà cụ thể trong vụ án này đã ảnh hưởng đến nguyên
đơn, bị đơn.
Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 420 BLDS 2015 quy định: “Việc tiếp tục thực hiện
hợp đồng mà khơng có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho
một bên”. Nếu tiếp tục hợp đồng thì bên phía bị đơn sẽ phải chịu thiệt hại nghiêm trọng
vì số lượng học sinh giảm đi mà còn phải chi trả thêm các chi phí khác.
Việc Tịa giải quyết theo hướng hồn cảnh thay đổi cơ bản thì các bên có thể thương
lượng với nhau, tại khoản 2 Điều 420 BLDS 2015 quy định: “Trong trường hợp hoàn
cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại

hợp đồng trong một thời gian hợp lý”. Các bên có thể thỏa thuận để có một hợp đồng hợp
lý hơn.

18



×