Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận CCLLCT , một số quan điểm của mác ăng ghen về văn hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.6 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Sự tiến bộ của loài người với những phát minh, phát kiến vĩ đại, nhân loại đã
thực sự hưng thịnh và phát triển. Việc hiểu biết cặn kẽ quy luật vận động và phát
triển của các ngành các lĩnh vực trong xã hội là vô cùng cần thiết và cấp bách. Lĩnh
vực văn hóa đã có nhiều giới, nhiều ngành nghiên cứu dưới nhiều góc nhìn, cách
tiếp cận khác nhau bởi văn hoá bao trùm lên nhiều lĩnh vực ngay cả kinh tế, xã hội,
chính trị, an ninh quốc phòng; nhưng xét cho cùng sự phân chia này chỉ mang tính
tương đối. Văn hóa là một lĩnh vực khá phong phú; nó nằm sâu trong bộ óc của con
người và chỉ được thể hiện thông qua các hoạt động sáng tạo, ngôn ngữ, chữ viết và
những hoạt động lao động nghệ thuật. Trong bối cảnh đó, đã có rất nhiều quan
niệm về văn hoá với các cách tiếp cận khác nhau được đưa ra và các cuộc tranh
luận, các cơng trình nghiên cứu về văn hố vẫn đang tiếp tục diễn ra với xu thế
ngày càng mạnh mẽ, đa dạng.
Đối với chủ nghĩa Mác, mặc dù không để lại những tác phẩm chuyên biệt, độc
lập về văn hóa nhưng trong hệ thống các tác phẩm đồ sộ của mình. Mác và Ăng
ghen đã có những tư tưởng hết sức sâu sắc về văn hố. Đó là cơ sở cho thế giới
quan và phương pháp luận trong nghiên cứu văn hố đối với những người mác xít
trong giai đoạn hiện nay. Do đó, tìm hiểu các quan điểm của Mác và ăng ghen về
văn hố có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Trong khuôn khổ của tiểu luận, em xin đề cập đến nội dung “Một số quan
điểm của Mác- Ăng ghen về văn hoá”.

1


PHẦN NỘI DUNG
1. Quan điểm của Mác và Ăng ghen về nguồn gốc của văn hoá:
Văn hoá bắt nguồn từ động từ “colere” trong tiếng Latinh sau chuyển thành
“cultura”, có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Văn hoá ở đây được hiểu theo nghĩa là sự
vun trồng tinh thần, trí tuệ. Văn hố xuất hiện từ bao giờ? Có nguồn gốc ở đâu? Trả
lời câu hỏi đó đã có rất nhiều quan niệm khác nhau, chính điều đó đã tạo nên sự


phong phú đa dạng xung quanh khái niệm này. Mặc dù không trực tiếp đề cập đến
nhưng trong các tác phẩm của Mác và ăng ghen đã thể hiện rất sâu sắc nhưng tư
tưởng về văn hoá trong mối quan hệ giữa văn hố và con người. Nói đến văn hố là
nói đến con người, văn hố xuất hiện cùng với loài người. Theo quan điểm của Mác
và ăng ghen, văn hố có nguồn gốc từ lao động - nhân tố cơ bản quyết định sự phân
biệt, là dấu hiệu chính đáng dấu bước chuyển từ vượn thành người. ăng ghen trong
tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” đã cho rằng: “Các nhà kinh tế chính trị
khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như
vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là khu cung cấp những vật liệu cho lao động biến
đổi thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vơ cùng lớn lao hơn thế nữa.
Lao động là điều kiện cơ bản, đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế
đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo
ra bản thân con người” [3-64]. ở một đoạn khác, ăng ghen cũng nói “Lao động xã
hội là nguồn gốc của mọi của cải và văn hoá” [2-26].
Chúng ta đều biết, lao động, trước hết là hoạt động của con người. Động vật
cũng có hoạt động nhưng hoạt động của con người khác căn bản về chất với hoạt
động của chúng. Con vật đồng nhất trực tiếp với hoạt động sinh sống của nó. Nó
khơng tự phân biệt nó với hoạt động sinh sống của nó. Cịn con người thì làm cho
bản thân hoạt động sinh sống của mình trở thành đối tượng của ý chí và ý thức của
mình. Hoạt động sinh sống của con người là hoạt động sinh sống có ý thức. Lịch sử
nhân loại đã cho thấy: khi hoạt động sinh sống của con người cịn hồn tồn phụ
thuộc vào những điều kiện tự nhiên và tự nhiên chưa được lao động của con người
2


cải tạo, con người đã thần thánh hoá những điều kiện tự nhiên đó, tơn sùng chúng,
khi đó chưa có văn hoá. Chỉ nhờ vào sự phát triển tiếp theo trong tiến trình lịch sử
của mình, con người mới ngày càng nhận thức được rằng nhiều cái trong đời sống
của họ phụ thuộc vào chính họ, vào sức mạnh sáng tạo của họ và khái niệm văn hoá
đã ra đời cùng với q trình nhận thức đó. Mác đã chỉ ra rằng hình thức đầu tiên, cơ

bản nhất trong hoạt động đời sống của con người là hoạt động lao động sản xuất,
hoạt động đó đã “sáng tạo ra con người”, tức là sáng tạo ra văn hố.
Vai trị của lao động trong quá trình chuyển biến vượn thành người, cho sự
xuất hiện của văn hoá đã được ăng ghen phân tích cụ thể trong tác phẩm “Biện
chứng của tự nhiên”.
Lao động đã biến đổi các thuộc tính tự nhiên, hình thành thuộc tính xã hội
như: ngơn ngữ, ý thức, tư duy, có sự giao tiếp xã hội, biết định hướng giá trị...Đây
là những tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của văn hố.
Có nguồn gốc từ thế giới động vật, con người trong buổi bình minh của nhân
loại vẫn còn mang đậm dấu ấn những thuộc tính tự nhiên của tổ tiên mình. Rõ ràng
là con người hiện đại ngày nay về mặt sinh học đã có những thay đổi to lớn so với
thời ăn lơng ở lỗ. Đó là kết quả của một q trình lâu dài và thơng qua q trình lao
động sản xuất của con người trong nhiều thế hệ, nhiều thời đại kế tiếp nhau. Vươn
người là hình thức phát triển cao của động vật, do hoàn cảnh và điều kiện sinh sống
thay đổi, phải di chuyển trên mặt đất để kiếm sống. Hai chi trước có thể tự do thực
hiện kiếm ăn và lợi dụng những vật tự nhiên để chống kẻ thù, do sự phân công giữa
chân và tay rõ hơn, tay được giải phóng, đồng thời sự đi thẳng được cố định và tay
có thể lao động tốt hơn.
Ăng ghen đã nói về q trình này “Nhưng bước quyết định đã được hoàn
thành: bàn tay đã được giải phóng, từ đấy nó có thể đạt được ngày càng nhiều sự
khéo léo mới, và sự mềm mại hơn đã đạt được đó được di truyền lại và cứ tăng lên
mãi từ thế hệ này sang thế hệ khác”.

3


Như vậy, bàn tay khơng những là khí quan của lao động, mà còn là sản phẩm
của lao động nữa. Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích ứng được với những động tác
ngày càng mới, nhờ sự di truyền của sự phát triển đặc biệt đã đạt được bằng cách
đó của các cơ, các gân và sau những khoảng thời gian dài hơn cả của xương nữa, và

cuối cùng nhờ áp dụng sự tinh luyện phức tạp hơn mà bàn tay con người mới đạt
được trình độ hồn thiện rất cao khiến nó có thể như một sức mạnh thần kỳ, sáng
tạo ra các bức tranh của Raphaen, các pho tượng của Tovanxen ...là cả một quá
trình phát triển lâu dài của đời sống con người đánh dấu mỗi chặng đường tiến lên
của con người mới đạt được trình độ hồn thiện rất cao khiến nó có thể như một
sức mạnh thần kỳ, sáng tạo ra các bức tranh của Raphaen, các pho tượng của
Tovanxen và các điệu nhạc của Paganini” [3-64].
Qua đó, có thể nhận thấy từ bàn tay vượn người đến bàn tay con người được
giải phóng biết chế tạo ra công cụ đến bàn tay sáng tạo đầy tài năng, từ những hình
vẽ thơ sơ, đơn giản trên các vách hay trên các sản phẩm của lao động đến các cơng
trình nghệ thuật của Raphaen, Tovanxen...là cả một quá trình phát triển lâu dài của
đời sống con người đánh dấu mỗi chặng đường tiến lên của con người. Bàn tay là
sản phẩm của lao động và bàn tay cũng là công cụ kỳ diệu để lao động và sáng tạo
nên mọi giá trị văn hoá. Cùng với sự phát triển của bàn tay thì đầu óc cũng phát
triển, ý thức xuất hiện. Từ đó sự hiểu biết ngày càng tăng một cách nhanh chóng về
các quy luật tự nhiên dẫn đến những phương tiện dùng để tác động trở lại vào giới
tự nhiên cũng ngày càng tăng. Đó là cội nguồn cho những giá trị vật chất, giá trị
tinh thần mà con người tạo nên trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại.
Khơng chỉ có đơi bàn tay, đơi chân người được giải phóng mà rất nhiều thuộc
tính tự nhiên khác của con người cũng dần dần mất đi những yếu tố hoang dã và
vươn lên bồi đắp cho mình một tính người đầy đủ.
Mác đã đem ra so sánh con mắt người tri giác và hưởng thụ khác với con mắt
thô lỗ, không phải con mắt người, lỗ tai con người tri giác và hưởng thụ khác với lỗ
tai thô lỗ, cái cảm giác của con người xã hội khác với cảm giác của con người phi
4


xã hội. Sự thay đổi về chất của các giác quan đó là kết quả của một q trình lao
động lâu dài. Mác lí giải về điều này “Chỉ có thông qua sự phong phú, đã được
phát triển về mặt vật chất, của bản chất con người, thì sự phong phú về tính cảm

giác chủ quan của con người mới phát triển và một phần thậm chí lần đầu tiên mới
được sinh sản ra: lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức,
nói tóm lại là những cảm giác có khả năng về những sự hưởng thụ có tính chất
người và sự khẳng định mình như những lực lượng bản chất của con người. Vì
khơng những năm giác quan bên ngoài mà cả những cảm giác gọi là tinh thần,
những cảm giác thực tiễn (ý chí, tình u và...)- nói tóm lại, cảm giác của con
người, tính nhân loại của cảm giác - chỉ nảy sinh nhờ có sự tồn tại của đối tượng
tương ứng, thơng qua bản tính đã nhân loại hố” [4-176]. Các giác quan của con
người không chỉ dừng lại ở những chức năng sinh lý trực tiếp (giới hạn mà con vật
không thể vượt qua) là trung chuyển những thông tin từ cơ thể với mơi trường và
ngược lại mà cịn phát triển nhiều năng lực mới, nhân sức mạnh của con người vốn
là động vật yếu đuối. “Mắt chim đại bàng nhìn thấy xa hơn mắt người rất nhiều,
nhưng mắt người nhận thấy trong sự vật được nhiều hơn mắt đại bàng rất nhiều”
[3-646]. Chính q trình lao động, khi con người vận dụng những sức mạnh sẵn có
trong thân thể, cánh tay và chân, đầu và bàn tay để chiếm hữu những vật chất đó
phục vụ cho cuộc sống của mình, con người đã làm thay đổi tự nhiên và “đồng thời
cũng thay đổi bản tính của chính mình và phát triển những năng khiếu tiềm tàng
trong bản thân mình”. Nhờ có điều đó, con người ngày càng đi sâu vào khám phá
thế giới xung quanh mình và sáng tạo ra một thiên nhiên thứ hai, đó là văn hố.
Mác đi đến kết luận: “Sự hình thành năm giác quan là cơng việc của tồn bộ lịch
sử tồn thế giới diễn ra từ trước đến nay cảm giác bị nhu cầu thực tiễn thơ lậu cầm
tù chỉ có một ý nghĩa hạn hẹp. Từ thế giới con người nguyên thuỷ, mông muội, dã
man, con người trở nên “phong phú và toàn diện, sâu sắc trong tất cả các cảm
giác và tri giác của nó” [4-176].

5


Sự biến đổi các thuộc tính tự nhiên của con người trong q trình lao động có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc sáng tạo ra các giá trị vật chất và giá trị tinh

thần. Bàn tay con người được giải phóng, biết chế tạo và sử dụng cơng cụ lao động
đã nối dài, nhân đôi sức mạnh của họ. “Con người nhân đơi mình khơng chỉ về mặt
trí tuệ như xảy ra trong ý thức nữa, mà còn nhân đơi mình một cách hiện thực, một
cách tích cực” [4-137]. Các giác quan của con người ngày càng phát triển tinh tế
hơn, nhạy bén hơn, hình thành nên năng lực tư duy và cảm xúc thẩm mỹ...Các giác
quan còn thể hiện kết quả trực tiếp của những tiến bộ xã hội qua những bước tiến
của lồi người, nó cũng là những khí quan năng động góp phần cụ thể vào việc làm
phong phú con người và sự phát triển xã hội. Đây chính là những tiền đề cho hoạt
động sáng tạo của con người.
Lao động ngoài việc biến đổi hàng loạt bản tính tự nhiên của con người cịn
hình thành những thuộc tính xã hội của con người như ngơn ngữ, ý thức, tư
duy...Bởi vì trong lao động mà con người có nhu cầu liên kết với nhau, cần phải nói
với nhau một cái gì đấy. “Nhu cầu đó đã tự nó đã tạo ra cho nó một khí quan, cái
cuống họng chưa phát triển của loài vượn, nhờ uốn giọng mà biến đổi, dần dần
nhưng chắc chắn để có thể thích ứng được với một lối phát âm ngày càng phát
triển thêm mãi và các khí quan của mồm cũng dần dần luyện tập được cách phát ra
những âm vận kế tiếp nhau” [3-645]. Như vậy, nguôn ngữ bắt nguồn từ lao động và
phát triển cùng lao động..Là công cụ của tư duy (chức năng phản ánh hiện thực) và
công cụ giao tiếp xã hội (chức năng truyền đạt và bảo quản lưu giữ thông tin), ngôn
ngữ được Mác gọi là “hiện thực trực tiếp của tư tưởng”. Nhờ có ngơn ngữ con
người phát triển tư duy so sánh, phân biệt được các nội dung khác nhau. Từ đó con
người sáng tạo ra các biểu tượng. Nhờ có khả năng biểu trưng hơn lời nói, tinh thần
của con người (như âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc...) gắn với dạng nói. Những dấu
hiệu ấy được hiện thực hố thành những biểu tượng văn hố. Do đó có thể nói ngơn
ngữ cũng chính là hệ thống biểu tượng ở trình độ cao. Với ngơn ngữ, con người có

6


thể sử dụng thơng tin, tích luỹ thơng tin, truyền đạt thông tin cho cộng đồng và cho

các thế hệ sau. Ngôn ngữ là cánh cửa để giúp con người đi vào các nền văn hoá.
Lao động của con người bắt đầu cùng với việc chế tạo ra công cụ. Đó là hoạt
động đầu tiên của con người và được coi là hoạt động văn hố. Nhưng lao động
khơng chỉ dừng lại ở đó, cùng với sự vận động của xã hội lồi người, lao động cũng
có những bước phát triển nhất định. Sự phát triển đó đánh dấu bởi các cuộc phân
công lao động lớn trong lịch sử. Chăn nuôi và trồng trọt, nông nghiệp và thương
nghiệp, lao động chân tay và lao động trí óc...Sự phân cơng lao động “chỉ trở
thành sự phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia thành lao động
vật chất và lao động tinh thần” [1-45]. Chính sự phân công này làm cho hoạt động
của con người ngày càng phong phú và đa dạng. Con người không chỉ sản xuất ra
những giá trị vật chất mà cịn có những giá trị tinh thần. ăng ghen đã nói: “Việc
phát triển lực lượng sản xuất, mở rộng buôn bán, phát triển nhà nước và pháp luật,
xây dựng nghệ thuật và khoa học chỉ có thể thực hiện được nhờ một sự phân công
lao động tăng lên. Sự phân công này tất nhiên phải dựa trên nền tảng một sự phân
công lao động giữa quần chúng làm công việc chân tay đơn giản, và một số ít
người có đặc quyền làm cơng việc lãnh đạo, thương nghiệp, công việc nhà nước và
sau này những công việc nghệ thuật và khoa học” [3-255].
Nhờ có lao động, càng ngày con người càng thốt khỏi sự phụ thuộc vào tự
nhiên, sức mạnh của con người được nhân lên và từ đó tầm với của con người là vô
tận. Sự phát triển của con người thông qua q trình lao động đó làm cho “Lồi
người đã có đủ khả năng hồn thành những cơng việc ngày càng phức tạp hơn, có
đủ khả năng tự đề ra và đạt được mục đích ngày càng cao hơn. Từ thế hệ này sang
thế hệ khác, chính lao động càng ngày càng nhiều vẻ hơn, hồn thiện hơn, có nhiều
mặt hơn. Thêm vào nghề săn bắn và chăn ni thì cịn có nơng nghiệp và tiếp theo
đó lại có thêm nghề kéo chỉ, dệt vải, nghề làm kim khí, nghề làm đồ gốm, nghề
hàng hải. Cuối cùng, nghệ thuật và khoa học ra đời bên cạnh công nghiệp và
thương nghiệp, các bộ lạc biến thành các dân tộc và quốc gia, pháp luật và chính
7



trị phát triển, song song với những cái đó cũng phát triển sự phản ánh một cách ảo
tưởng tồn tại của con người vào trong đầu óc của con người: Tôn giáo” [3-651].
Như vậy, từ một hoạt động ban đầu: chế tạo công cụ lao động được coi là hoạt
động văn hố thì sự phát triển của đời sống con người làm cho các hoạt động càng
phong phú thêm. Trong đó có rất nhiều hoạt động trong lĩnh vực tinh thần, hướng
tới các giá trị chân, thiện, mỹ...hay nói cách khác là hoạt động văn hố. Đó là kết
quả của sự phát triển trong lao động của con người cả chiều dài lịch sử nhân loại.
Từ những quan điểm trên đây của Mác và ăng ghen về lao động, có thể rút ra
những kết luận:
Trong quá trình lao động nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính
bản thân mình, con người đã nhận thấy sức mạnh sản xuất xã hội của lao động con
người và họ ngày càng ý thức được khả năng sáng tạo đích thực của chính mình.
Bằng sự tồn tại của mình trong thế giới, con người đã xác định ranh giới phân biệt
nó với phương thức hoạt động sinh tồn của lồi vật, ranh giới đó là văn hố.
Văn hố thể hiện sự giải phóng của con người khỏi thế giới tự nhiên và thế
giới thần thánh. Nó ghi nhận lĩnh vực hiện thực được quy định khơng phải bởi tính
thiết yếu tự nhiên và tiên định của Thượng đế, mà bởi hoạt động sáng tạo của con
người với tư cách là một thực thể độc lập có ý thức, cả năng lực tư duy và khả năng
sáng tạo. Thế giới văn hố - thế giới hồn tồn do con người tạo ra và với nghĩa đó
con người được coi là chủ thể của văn hoá.
Trong hoạt động lao động của mình, mà qua đó, con người khơng chỉ tạo ra
những phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình, mà qua đó, nó cịn tạo ra cả đời
sống xã hội, các quan hệ xã hội và tạo ra chính con người với tư cách là thực thể xã
hội, thực thể có ý thức. Bằng hoạt động lao động sản xuất, con người tạo ra những
vật phẩm hữu ích cho cuộc sống của mình và tạo ra cả hình thức xã hội của những
vật phẩm đó - những hình thức mà nhờ đó các vật phẩm do con người tạo ra mang
ý nghĩa và nội dung của con người. ý nghĩa văn hoá của những vật phẩm do hoạt
động lao động sản xuất của con người tạo ra không chỉ đơn giản chứa đựng ở tính
8



hữu ích của các vật phẩm đó, mà quan trọng hơn ở cái hình thức mà chúng nhận
được trong quá trình lao động của con người - “hình thức con người”. Hình thức
khiến cho các vật phẩm được tạo ra bởi hoạt động lao động sản xuất của con người
trở thành các vật thể văn hoá được C.Mác coi là khả năng trở thành “vật mang”
quan hệ xã hội mà qua đó, mỗi người tồn tại vì người khác, xã hội tồn tại vì con
người. Nó hàm chứa những nỗ lực, kinh nghiệm, sở thích, quan niệm của nhiều thế
hệ người, trình độ phát triển xã hội của họ. Do vậy, qua hình thức văn hố của vật
thể, chúng ta có thể đánh giá về con người đã tạo ra những vật thể đó, về tính chất
của thời đại đã sản sinh ra chúng, về trình độ phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ
của con người trong mỗi thời đại lịch sử nào đó. ở phương diện này con người xuất
hiện với tư cách mang vác giá trị văn hoá.
Hoạt động của con người bao gồm cả hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động
sản xuất và tái sản xuất ra con người với tư cách là một thực thể xã hội. Những hoạt
động này nhằm tạo ra một hệ thống những giá trị mang tính định hướng cho sự phát
triển của ý thức con người và cho lối ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội.
Với hệ thống những giá trị định hướng này, mỗi nền văn hoá được coi như là một
hệ thống những biểu tượng bao hàm trong đó các khn mẫu ứng xử xã hội của con
người. Những hoạt động của con người nhằm tạo ra một hệ thống những thể chế
mà qua đó những giá trị mang tính định hướng được giữ gìn, lưu truyền và phổ
biến trong cộng đồng xã hội, trở thành tài sản của mỗi người và của cộng đồng
người. Qua đó con người được tái sinh khơng chỉ đơn giản với tư cách là thực thể
sống, còn với tư cách là thực thể xã hội. Trong hoạt động sản xuất vật chất, con
người gián tiếp tạo ra chính mình, cịn trong hoạt động sản xuất tinh thần, con
người gián tiếp tạo ra mình với tư cách là một thực thể xã hội, phát triển ý thức con
người, mở rộng khn khổ giao tiếp xã hội, hình thành nhu cầu mới và các phương
tiện đáp ứng chúng. Như vậy, bằng các phương thức hoạt động, con người tạo ra
nền văn hố của mình nhưng đồng thời con người cũng là sản phẩm của chính nền
văn hố ấy.
9



Từ những điều trình bày trên có thể khái qt lại: Theo quan điểm của Mácăng ghen thì nguồn gốc văn hố chính là lao động, lao đọng đã sáng tạo ra con
người, lao động đã sáng tạo ra văn hố. Do đó, giữa con người và văn hố có mối
quan hệ biện chứng với nhau, trong đó con người là chủ thể văn hoá, sản phẩm của
văn hoá vừa là đại diện mang vác các giá trị văn hoá.
2. Quan điểm của Mác-Ăng ghen về bản chất văn hoá:
Trong các sản phẩm của mình Mác và ăng ghen khơng dành riêng một tác
phẩm để trình bày hệ thống quan điểm của các ơng về văn hố, văn hố khơng
được thể hiện như một lĩnh vực nghiên cứu riêng. Nhưng toàn bộ tư tưởng của
Mác-ăng ghen về vấn đề này được thể hiện rất sâu sắc thông qua hệ thống các quan
điểm duy vật biện chứng của Mác về con người và xã hội, trong đó bản chất của
văn hố được thể hiện trong mối quan hệ biện chứng với bản chất của con người và
xã hội.
Cũng như nguồn gốc con người, đi tìm câu trả lời bản chất của con người là
gì? Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại có rất nhiều cách giải thích khác nhau.
E.laklin cho rằng con người khác một con vật ở chỗ con người biết sử dụng công
cụ lao động. Arixtốt gọi con người lao động là một “động vật có tính xã hội”,
Pascal nhấn mạnh đặc điểm và sức mạnh của con người là ở chỗ con người biết suy
nghĩ. Các nhận định trên đây đều đúng khi nêu lên một khía cạnh về bản chất của
con người. Nhưng những nhận định đó đều phiến diện, khơng nói lên được nguồn
gốc của những đặc điểm ấy và mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
C.Mác nhìn vấn đề bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể, xem xét
bản chất con người không phải một cách chung chung, trừu tượng mà trong tính
hiện thực cụ thể của nó, trong q trình phát triển của nó. Chủ nghĩa Mác đã coi
vấn đề con người là trung tâm của mọi khoa học xã hội và nhân văn, nó xuất phát
từ con người và trở lại con người. Theo quan điểm của Mác-ăng ghen, con người là
sự thống nhất biện chứng giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Con người trước hết
phải là một “thực thể tự nhiên”, là con người “sinh học” với tư cách là một bộ
10



phận của giới tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên và chịu sự quy định của những
quy luật tự nhiên. Mác nói: “Tự nhiên là thân thể vơ cơ của con người”. Nhưng cái
quy định bản chất của con người, cái tạo nên sự khác biệt về chất có tính tộc loại để
phân biệt con người với con vật chính là ở chỗ mặt xã hội của con người. Trong
“Luận cương về Phơbách”, Mác viết: “..bản chất con người không phải là cái trừu
tượng, cố hữu của cả nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [1-11].
Con người có tính xã hội trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của con
người là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con người khơng
thể tách rời khỏi xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con người khác
con vật. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó cịn hoạt động
của con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Trong nhiều tác phẩm
của mình, Mác đã bàn đến “tính xã hội” của con người trong các hoạt động sống
của họ như là những tiền đề đầu tiên của sự tồn tại và sáng tạo. Như vậy, cái làm
nên bản chất con người, cái tạo nên sự khác biệt giữa con người với con vật là các
“hoạt động sống” của con người. Mác viết: “Súc vật cố nhiên cũng sản xuất. Nó
xây dựng tổ, chỗ ở của nó như con ong, con hải ly, con kiến...Nhưng con vật chỉ là
sản xuất cái mà bản thân nó hoặc con nó tiếp cần đến, nó sản xuất một cách phiến
diện, trong khi con người sản xuất một cách toàn diện, con vật chỉ sản xuất vì bị
chi phối bởi nhu cầu thể xác trực tiếp, còn con người sản xuất ngay cả khi nhu cầu
thể xác ràng buộc, và chỉ khi khơng bị nhu cầu đó ràng buộc thì con người mới sản
xuất theo ý nghĩa chân chính của từ đó, con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó cịn
con người thì tái sản xuất ra tồn bộ giới tự nhiên” [3-137]. Qua đó, chúng ta thấy
con vật cũng hoạt động theo nghĩa nào đó. Nhưng sự khác biệt về chất giữa hoạt
động của con người với hoạt động của con vật là ở chỗ con vật chỉ hoạt động theo
nhu cầu giống lồi của nó như là phương thức của tồn tại cịn con người thì có thể
sản xuất theo thước đo của bất kỳ giống loài nào và ở đâu cũng có thể áp dụng
thước đo cho đối tượng, tạo nên sự khác biệt bản chất của phương thức tồn tại. Mác

11


gọi những hoạt động sống của con người (trong đó Mác nhấn mạnh hoạt động sản
xuất vật chất là những hoạt động có tính tộc loại của con người trong sự tồn tại phổ
biến của nó, làm mở ra những “lực lượng bản chất con người”. Lực lượng bản chất
người: một phẩm chất đặc biệt mà Mác coi chỉ có ở con người là năng lực lao động
sáng tạo mang tính chất xã hội. Văn hố được biểu hiện ra như trình độ người của
chính bản thân con người, là “lực lượng bản chất người”. Mác nói “Chúng ta thấy
rằng lịch sử của cơng nghiệp và sự tồn tại có tính đối tượng đã hình thành của
cơng nghiệp là quyển sách mở ra những lực lượng bản chất của con người...” [4177] Từ chỗ cho rằng, hoạt động của con người mở ra những lực lượng bản chất
người, Mác cũng khẳng định bản chất hoạt động của con người là “nhào nặn vật
chất theo quy luật của cái đẹp” [4-137]. Nhào nặn vật chất theo quy luật của cái
đẹp đó là năng lực bản chất riêng có của con người gắn với mọi năng lực bản chất
người - đó chính là văn hoá.
Trong đời sống hiện thực, con người bằng hoạt động nhào nặn vật chất theo
quy luật của cái đẹp đã chuyển bản chất của mình vào những đối tượng do chính
mình tạo ra tạo nên một “thiên nhiên thứ hai” với tư cách là sự “đối tượng hoá”,
“khách thể hố” chính bản chất của con người, mà trong đó con người có thể “đối
lập một cách tự do với sản phẩm của mình”. Nhờ sự sản xuất đó, giới tự nhiên biểu
hiện ra là tác phẩm của con người và thực tại của nó. “Thiên nhiên thứ hai” do con
người sáng tạo ra bằng lao động sáng tạo và tri thức của mình, kết tinh những giá
trị tinh thần của mình - đó cũng chính là văn hố.
Xuất phát từ quan niệm về bản chất của con người về phương thức xác định
bản chất của sự “tồn tại người” của chủ nghĩa Mác như trên chúng ta có thể thấy
rằng nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành và phát triển con người thì
văn hố là cái nơi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quy định sự tồn tại của con người với
tư cách là một thực thể sinh vật thì văn hố là phương thức bộc lộ, phát huy những
năng lực bản chất người gắn với hoạt động sống của con người. Nói cách khác, văn
hố là sự kết tinh năng lực bản chất người trong thế giới các sản phẩm do chính

12


hoạt động con người tạo ra, là cái quy định bản chất con người với tư cách một
“sinh vật có tính lồi” - là “một thực thể xã hội”.
Từ những quan điểm về bản chất văn hoá của chủ nghĩa Mác chúng ta có thể
rút ra nhận xét:
Văn hố gắn liền với sự biểu hiện của phương thức tồn tại người trong tất cả
mọi hoạt động của con người như hoạt động thực tiễn, hoạt động nhuận thức, hoạt
động giao tiếp và cả những hoạt động có tính chất thể chất của con người...Như vậy
là văn hố có mặt trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, quan hệ giao tiếp,
ứng xử, đạo đức, lối sống và cả ở trong mọi khía cạnh, mọi sự tồn tại vơ cùng
phong phú, đa dạng của lĩnh vực tư duy con người. Nếu văn hoá là cái gắn với
phương thức của sự tồn tại người thì có thể nói một cách bao qt: Tất cả những gì
có quan hệ với con người (con người với tư cách là con người cá nhân và con
người xã hội) và mọi cách thức tồn tại của nó đều có liên quan đến văn hố.
Văn hoá bao gồm các giá trị được kết tinh trong “thiên nhiên thứ hai” - với tư
cách là sản phẩm của hoạt động “mang tính tộc loại” của con người. Cho nên, xét
theo phương diện rộng khái niệm “văn hoá” và giá trị gần như trùng hợp, có thể
nói giá trị, đó là sự thật của văn hố và thực chất nó mang tính xã hội.
Đã có nhiều chức năng của văn hoá được đề cập đến trong nghiên cứu lâu nay
như chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ...Nhưng xuất
phát từ cơ sở lý luận về bản chất văn hố của Mác ta có thể nêu lên luận điểm có
tính chất khái qt về chức năng của văn hoá: chức năng của văn hoá là nhằm tạo
ra được những khả năng, những điều kiện và môi trường tối ưu nhất, phù hợp nhất
cho sự bộc lộ và phát huy những năng lực bản chất người, làm cho con người trở
thành tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn, trở thành “người” hơn trong mỗi giai đoạn phát
triển lịch sử của mình. Chức năng của văn hố đã được Mác và ăng ghen khái quát
trong luận điểm: Mỗi bước mà con người tiến đến văn hoá là mỗi bước con người
tiến đến tự do.


13


3. Quan điểm của Mác và Ăng ghen về vai trị của văn hố:
Thời gian gần đây, khi những nhân tố hợp lý trong các học thuyết phương Tây
về vai trị của văn hố đối với sự phát triển được tiếp nhận ở nước ta ở một mức độ
nào đó thì có một số người cho rằng: với Mác và ăng ghen, vài trò quyết định sự
vận động và phát triển xã hội chỉ huy duy nhất thuộc về nhân tố kinh tế, việc coi
văn hoá là cơ sở, là nền tảng của sự phát triển xã hội là cách nhìn riêng của những
trào lưu tư tưởng ngồi mác xít, trong quan điểm của chủ nghĩa Mác-ăng ghen văn
hoá chưa bao giờ đóng vai trị cái quy định các q trình xã hội.
Đúng là cách nhìn văn hố như là cơ sở, nền tảng của sự phát triển là quan
điểm có xuất xứ từ phương Tây, từ những học thuyết ngồi mác xít. Theo quan
điểm này thì văn hố là những tính quy định nằm sâu trong cấu trúc của mỗi xã hội.
Nó có khả năng quy định chiều hướng vận động của các cộng đồng. Do vậy, nó là
cơ sở, là nền tảng mà trên đó các nhân tố khác của đời sống xã hội được triển khai,
được thực hiện trong sự chi phối của nó, tạo thành sự vận động và phát triển của xã
hội.
Chúng ta thử tìm hiểu xem Mác và ăng ghen quan niệm như thế nào về vai trị
của văn hố?
Trước hết, Mác và ăng ghen đã phủ nhận quan điểm cho rằng, các ông khkơng
nhận thấy vai trị to lớn của các nhân tố tinh thần đối với sự phát triển xã hội, luôn
luôn nhìn nhận các nhân tố tinh thần như là cái hoàn toàn thụ động, chỉ thấy nhân
tố kinh tế là duy nhất có vai trị quyết định. Trong thư gửi F. Mehring ngày 14
tháng 7 năm 1893, F. ăng ghen có viết: “Có cái quan điểm lạ lùng của các nhà tư
tưởng cho rằng: vì chúng tơi khơng thừa nhận là các lĩnh vực tư tưởng khác nhau
đóng một vai trị trong lịch sử, đều có một sự phát triển độc lập, nên chúng tôi
cũng phủ nhận luôn cả tác động của chúng đối với lịch sử. Nó như thế là xuất phát
từ quan điểm tầm thường, không biện chứng về nguyên nhân và kết quả, coi đó là

hai cực đối lập nhau một cách cứng nhắc, là hoàn toàn khơng thấy được sự tác
động qua lại. Những người đó thường hầu như cố ý quên rằng mọi nhân tố lịch sử
14


một khi được những nhân tố khác, xét đến cùng một nguyên nhân kinh tế, làm nảy
sinh nhân tố lịch sử đó cũng có thể tác động trở lại đến mơi trường của nó, và
thậm chí đến cả ngun nhân sinh ra nó” [5-778]. Rõ ràng là với F. ăng ghen thì
tính triệt để trong quan niệm duy vật về lịch sử hồn tồn khơng có nghĩa là phủ
nhận vai trò của các nhân tố tư tưởng và sự phát triển độc lập của chúng.
“Theo quan điểm duy vật lịch sử - F.ăng ghen viết trong thư gửi J. Bloch ngày
21 tháng 9 năm 1890 - nhân tố quyết định lịch sử, xét đến cùng, là sự sản xuất và
tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả Mác lẫn tơi chưa bao giờ khẳng định gì hơn
thế. Do đó, nếu có ai xuyên tạc câu đó khiến cho nó có nghĩa là nhân tố kinh tế là
nhân tố quyết định duy nhất thì như vậy là họ đã biến câu đó thành một câu trống
rỗng, trừu tượng, vơ nghĩa...Mác và tôi, một phần nào, phải chịu trách nhiệm về
việc những anh em trẻ đôi khi nhấn mạnh quá mức vào kinh tế. Đối với kẻ thù,
chúng tôi nhấn mạnh nguyên lý chủ yếu mà họ phủ nhận, và chúng tơi cũng ít có
thời giờ, có địa điểm và cơ hội để mang một vị trí xứng đáng cho những nhân tố
khác tham gia vào sự tác động qua lại ấy” [5-726].
Như vậy, Các Mác và ăng ghen không hề phủ nhận vai trò độc lập của các
“lĩnh vực tư tưởng”, của các “nhân tố tinh thần”. Theo các ông, sự sản xuất và tái
sản xuất ra đời sống xã hội, xét đến cùng là nhân tố quyết định đối với lịch sử,
nghĩa là đối với cả các lĩnh vực của văn hố tinh thần nói chung. Tuy nhiên, vấn đề
là ở chỗ, mối quan hệ nhân quả xét đến cùng, nghĩa là khi giải thích sự vật bằng
nguyên nhân cuối cùng sinh ra sự vận động của nó thì lúc đó nhân tố kinh tế mới
đóng vai trị cái quyết định. Tách rời khỏi điều kiện xem xét này, vai trị quyết định
khơng cịn thuộc về nhân tố kinh tế nữa.
Trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong các q trình xã hội cụ thể mà ở đó
người ta cần phải xác định như nguyên nhân trực tiếp với sự vận động của chúng

thì việc xem xét sự vật đến nguyên nhân tận cùng nó chưa chắc đã phải là cần thiét.
Với những trường hợp này, vai trò của nhân tố tư tưởng, của văn hoá tinh thần được
thể hiện ra là cái ít nhiều độc lập so với các nguyên nhân kinh tế.
15


Ăng ghen trong rất nhiều tác phẩm đã lưu ý rằng mặc dù nhân tố kinh tế đóng
vai trị là cơ sở của lịch sử, song mọi nhân tố khác của kiến trúc thượng tầng như
“lý luận chính trị, pháp lý, triết học, những quan điểm tôn giáo...cũng đều ảnh
hưởng đến quá trình của những cuộc đấu tranh lịch sử và trong nhiều trường hợp
lại chiếm ưu thế trong việc quyết định hình thức của những cuộc đấu tranh đó”.
Ăng ghen chỉ rõ, đối với những lĩnh vực “lơ lửng trên khơng trung” như tơn
giáo, triết học...thì tuy cũng “là kết quả của sự phát triển kinh tế” song “triết học
của mỗi thời đại phải có một tư tưởng nào đó do các triết học trước đó truyền lại,
làm xuất phát điểm”. Do vậy, trong những lĩnh vực đó “ưu thế cuối cùng của sự
phát triển kinh tế cũng tồn tại...nhưng tồn tại trong những điều kiện do bản thân
từng lĩnh vực đó quy định”. ở đó, nhân tố kinh tế chỉ “quy định một cách gián
tiếp” đối với “hình thức biến đổi và phát triển của chất liệu tư tưởng có sẵn”. Đó
là lẽ giải thích tại sao các nước lạc hậu về kinh tế ở châu Âu thế kỷ XVIII (như
Phap so với Anh, Anh và Pháp so với Đức) lại có thể vẫn là những nước “đi đầu
trong triết học”.
Cuối cùng Ăng ghen đi đến nhận định “mặc dù nhu cầu kinh tế là động lực
chính, ngày càng lớn mạnh của sự hiểu biết ngày càng nhiều về thiên nhiên, nhưng
chúng ta sẽ chỉ là thông thái rởm nếu cố đi tìm những nguyên nhân kinh tế cho tất
cả những điều ngu ngốc nguyên thuỷ đó” [5-728].
Nhưng tư tưởng trên đây của Mác và Ăng ghen trong việc đánh giá vai trò của
các nhân tố tư tưởng - tinh thần nói lên rằng, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
ngay cả những lúc nhấn mạnh vai trị của nhân tố vật chất cũng khơng hề đánh giá
thấp hoặc phủ nhận vai trò độc lập của nhân tố tinh thần. Nhân tố đó ln ln cả
“ảnh hưởng”, “tác động” đến “mơi trường” xung quanh nó, thậm chí ngay cả

“nguyên nhân đã sinh ra nó”. Trong sự tác động và ảnh hưởng ấy, nhân tố tinh
thần có khả năng “quyết định hình thức của những cuộc đấu tranh xã hội”.
Chủ nghĩa Mác thừa nhận văn hố có vai trị là tính quy định của sự phát triển
xã hội, khơng những thế quan điểm Mác xít muốn tìm kiếm nguyên nhân sâu xa
16


hơn, nguyên nhân cuối cùng của sự vận động xã hội, quy định ngay cả đối với sự
vận động của các nhân tố văn hố. Đó chính là việc phát huy “năng lực bản chất”
của con người nhằm hoàn thiện con người, hồn thiện xã hội. Đó là việc giải
phóng khhỏi áp bức, bất cơng, khỏi sự tha hố để con người được bình đẳng, tự do
phát huy những năng lực sáng tạo của bản thân.

17


KẾT LUẬN
Quan điểm của C. Mác và Ph.ăng Ănghen về văn hoá là mối quan hệ giữa con
người và văn hố. Q trình phát triển của lồi người từ động vật thơng qua q
trình lao động, từ thế giới mơng muội, đã man bước sang kỷ nguyên văn minh cũng
đánh dấu sự xuất hiện của văn hoá. Con người đã tự tạo cho mình ranh giới với lồi
vật bằng văn hố. Lao động nói riêng, hoạt động nói chung của con người là nguồn
gốc của văn hoá. Cùng với sự phát triển của lao động, bàn tay con người và các khí
quan khác cũng phát triển, bộ óc con người cũng phát triển theo, ngôn ngữ, ý
thức...ra đời. Đây là những tiền đề quan trọng cho những hoạt động sáng tạo của
con người. Với những hoạt động này, năng lực sáng tạo của con người đã tạo nên
những sản phẩm hết sức kỳ diệu. Đó là những giá trị vật chất, giá trị tinh thần, hay
nói cách khác là văn hoá và con người đã trở thành chủ thể của thế giới văn hố đó.
“Trong tính hiện thực của nó con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội”,
con người là thực thể song trùng “cái tự nhiên” và “cái xã hội”. Từ một cơ thể sinh

học, một động vật nhỏ bé trở thành con người phải thông qua xã hội, các quan hệ
xã hội. Con người mới sinh ra phải tiếp nhận ảnh hưởng của môi trường tự nhiên,
môi trường xã hội: nhà nước và pháp luật, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, phong
tục và các dạng sinh hoạt tinh thần khác thơng qua q trình giáo dục. Từ đó hình
thành nên nhân cách, một con người theo đúng nghĩa của nó, có khả năng lao động
sáng tạo. Con người chính là sản phẩm của văn hoá. ở mỗi thời đại, do quy định
của điều kiện lịch sử mà con người in dấu ấn của mình lên giới tự nhiên có khác
nhau và sáng tạo ra những giá trị khác nhau. Những giá trị đó mang trong mình và
phản ánh trình độ người của thời đại đó. Và như thế con người đã mang trên mình
những giá trị văn hố do chính mình tạo ra.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 3, NXB CTQG, Hà Nội 1995.
2. C.Mác và Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 19, NXB CTQG, Hà Nội 1995.
3. C.Mác và Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 20, NXB CTQG, Hà Nội 1994.
4. C.Mác và Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 42, NXB CTQG, Hà Nội 1994.
5. C.Mác và Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 6, NXB ST, Hà Nội 1980.
6. Văn hóa học, NXB KHXH, Hà Nội 2000.

19


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................2
1. Quan điểm của Mác và Ăng ghen về nguồn gốc của văn hoá:..........................2

2. Quan điểm của Mác-Ăng ghen về bản chất văn hoá:.......................................10
3. Quan điểm của Mác và Ăng ghen về vai trò của văn hoá:...............................14
KẾT LUẬN..............................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................19

20



×