Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

(TIỂU LUẬN) môn những quy định chung về luật dân sự bài THẢO LUẬN dân sự lần 5 QUY ĐỊNH CHUNG về THỪA kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.33 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA DÂN SỰ
---  ---

Mơn: Những quy định chung về Luật Dân sự
BÀI THẢO LUẬN DÂN SỰ LẦN 5: QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ

GVHD: Thầy Nguyễn Nhật Thanh
Lớp: 127- DS46B.1 Nhóm 04
DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN
1.
Hà Thị Tuyến
2.
Võ Minh Tiến
3.
Nguyễn Dương Toàn
4.
Lê Nguyễn Thanh Thảo
5.
Lê Đinh Khánh Như
6.
Nguyễn Bảo Quỳnh Như
7.
Trần Lâm Nguyên
8.
Hoàng Thị Tuyết Nhi
9.
Bùi Thị Diễm Phúc
10.Ngơ Trương Minh Q
Niên khóa: 2021 –2022


1


2


3


NỘI DUNG 1: DI SẢN THỪA KẾ.
Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
về vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản”.
Nguyên đơn: ông Phùng Văn T.
Bị đơn: Phùng Văn T.
Nội dung: Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện
tích 131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất cịn lại
của thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng
Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất
cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng khơng ai có ý kiến
phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo
cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con
bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m 2 nêu
trên cho ơng Phùng Văn K. Tịa án cấp phúc thẩm khơng đưa diện tích đất bà
Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ.
Tịa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m 2 (bao gồm cả phần
đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là khơng đúng.
Kết quả: Hủy tồn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 06/2012/DSPT ngày 23/02/2012
của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2011/DS- ST

ngày 04/10/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc về vụ
án “Tranh chấp thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn chị Phùng Thị H1, chị Phùng Thị
N1, chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị P với bị đơn là anh Phùng Văn T và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm chị Phùng Thị N2, chị Phùng Thị H3.

Tóm tắt bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tịa án nhân dân thành
phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc về vụ việc “Tranh chấp thừa kế tài sản.”
Nguyên đơn: Ông Trần Văn Hịa.
Bị đơn: Anh Trần Hồi Nam và chị Trần Thanh Hương.
Nội dung: Ơng Hịa và bà Mai (đã chết 31/01/2017) kết hôn với nhau năm 1980.
Hai ông bà có hai con chung là anh Nam và chị Hương. Ngồi ra khơng có con đẻ
con ni nào khác. Tài sản được tranh chấp ở đây là nhà và đất, cụ thể là phần tài
sản của ơng Hịa và bà Mai gồm: 1 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và một
lán bán hàng, trên diện tích đất 169,5m 2, trong đó có 85.5m 2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng phần đất này không vi phạm vào tranh chấp,
1


hay quy hoạch và được sử dụng liên tục bởi ông Hòa. Theo Hội đồng xét xử, phần
đất này vẫn là tài sản của ơng Hịa, bà Mai. Do các đương sự không thỏa thuận
được với nhau trong việc phân chia tài sản, biết anh Nam có phần đóng góp xây
dựng căn nhà hiện tại, cịn ơng Hịa hiện tại đã có vợ mới, và phần đất tranh chấp
chủ yếu là cho thuê. Vì vậy sau khi xem xét về tình cảm và nhu cầu thực tế, Hội
đồng xét xử quyết định anh Nam sở hữu 1 nhà 3 tầng, sân tường bao quanh, cịn
ơng Hịa được hưởng 300 triệu đồng tiền thuê nhà và lán bán hàng, còn chị Hương
được sở hữu số tiền 30 triệu đồng cho thuê nhà.
Kết quả: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật của ơng
Hịa. Chia cho ơng Hòa 300 triệu đồng số tiền thuê nhà và 1 lán bán hàng, chia cho
anh Nam được quyền sở hữu 1 nhà 3 tầng, sân tường bao loan, chia cho chị Hương
được quyền sở hữu số tiền thuê nhà 30 triệu. Buộc anh Nam có trách nhiệm thanh

tốn chênh lệch về tài sản cho cho ơng Hịa và thanh tốn tiền cho chị Hương.
Câu 1: Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Theo Điều 612 Bộ Luật Dân sự 2015 (viết tắt là BLDS 2015) di sản là tài sản riêng
của người chết để lại hoặc là phần tài sản của người chết trong tài sản chung với
người khác, nhưng khơng phải những gì người quá cố để lại đều là di sản như quần
áo, các giấy tờ gắn liền với nhân thân, những quyền được chuyển giao như quyền
mua hóa giá nhà, quyền sử dụng đất, quyền thuê, mua nhà,...
Theo khoản 1 Điều 615 BLDS 2015 quy định là những người thừa kế có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại nên vì
căn cứ trên nên di sản không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố, nghĩa vụ của
người quá cố sẽ được thực hiện bởi người hưởng thừa kế ví dụ như nghĩa vụ trả nợ
của người quá cố sẽ được người hưởng di sản thừa kế thực hiện trong phạm vi di
sản người quá cố để lại.
Câu 2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế, thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản khơng? Vì sao?
Tr ả lời:
Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế, thay thế bởi một tài sản
mới sau đó thì tài sản mới có được xem là di sản khơng cịn phụ thuộc vào mục
đích, ngun nhân của việc thay thế đó.
2


+ Nguyên nhân khách quan từ những yếu tố nằm ngồi ý chí, kiểm sốt của
con người chẳng hạn như thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt và khi tài sản do người
quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế được thay thế bởi một tài sản có giá trị
tương đương thì tài sản mới được xem là di sản.
+ Nguyên nhân chủ quan từ những người có mục đích chiếm đoạt tồn bộ di
sản thừa kế ban đầu đồng thời thay thế bởi một tài sản khác khi đó tài sản

mới này sẽ khơng được coi là di sản thừa kế. Nếu vì lý do chủ quan mà di
sản thừa kế bị làm hư hỏng hoặc bị bán mà khơng có sự đồng ý của các đồng
thừa kế thì giá trị phần di sản vẫn được coi là di sản thừa kế và người làm
thất thoát di sản có trách nhiệm trả lại phần giá trị làm thất thốt để chia thừa
kế.
Vì vậy khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế, thay thế bởi một
tài sản mới sau đó thì tài sản mới có được xem là di sản khơng cịn phụ thuộc vào
Nguyên nhân khách quan nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Câu 3: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Theo quy định của pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố không cần phải
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới được coi là di sản. Vì theo
Điểm a;b tiểu mục 1.3, mục 1 phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của
Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao ngày 10/8/2004 quy định về việc xác
định quyền sử dụng đất là di sản như sau:
“1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó khơng có một
trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này
nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh,
giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các cơng
trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh
như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật
kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn
quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó
mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:
a) Trong trường hợp đương sự có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy
chứng nhận



3


quyền sử dụng đất, thì Tồ án giải quyết u cầu chia di sản là tài sản gắn liền với
quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.
b) Trong trường hợp đương sự khơng có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của
Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó
khơng vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng
đất, thì Tồ án giải quyết u cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử
dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó
cho đương sự để Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục
giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.”
Như vậy, đất của người quá cố để lại nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nếu có các loại giấy tờ chứng minh được nguồn gốc đất và UBND cấp
có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất là hợp pháp, không vi phạm quy hoạch,
đất được sử dụng lâu dài, không có tranh chấp thì Tịa án vẫn xác định được đây là
di sản thừa kế.
Câu 4: Trong Bản án số 08, Tịa án có coi diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản khơng? Đoạn nào của bản án
có câu trả lời?
Trả lời:
Tịa án coi diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất không phải là di sản. Câu trả lời nằm ở phần “Nhận định của Tịa án”:
“Đối với phần diện tích tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất: Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng
không được coi là di sản thừa kế, cần tiếp tục tạm giao cho ông Hịa có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất.”
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án
số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trả lời:
Về phần diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận trong Bản án số 08, Tòa đã
xử theo hướng công nhận đây là tài sản chung của ơng Hịa bà Mai, chỉ có điều là
đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Hướng xử lý nêu trên của
Tịa là khơng hợp lý.
4


Bởi vì:
Thứ nhất, Tịa án đã xử lí 85.5m2 đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất bằng cách xác định diện tích đất này thuộc diện được cấy giấy chứng
nhận quyền sử dụng sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Nhưng để xác định mảnh
đất có thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay khơng thì phải
căn cứ vào Điều 99 Luật Đất đai 2013. Trong trường hợp này, gia đình ơng Hịa đã
sử dụng 85.5m2 đất mà gia đình ơng khơng thuộc bất cứ trường hợp nào được quy
định trong Điều luật nêu trên nhưng Tòa án đã xác định mảnh đất thuộc diện cấy
giấy chứng nhận quyền sử dụng sau khi thực hiện nghĩa vụ đóng thuế là chưa thỏa
đáng.
Thứ hai, căn cứ vào khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai năm 2013 quy định, để được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì hộ gia đình phải sử dụng ổn định mảnh
đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng từ trước ngày 01/07/2004 và
kèm theo các quy định khác trong Điều luật nhưng gia đình ơng Hòa đã sử dụng
85,5m2 đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng từ năm 2006 kể từ khi
Nhà nước di dời trạm điện tới nơi khác. Mà Tòa án đã xác định mảnh đất thuộc
diện cấp giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, như vậy là khơng
phù hợp theo luật định.
Từ hai lí do trên, nhóm em cho rằng hướng xử lý của Tịa án trong Bản án số 08 về

diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là khơng hợp lí.
Câu 6: Ở án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Ở án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất, nhưng bà Phùng Thị G có
chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K 131m 2 đất, phần đất còn lại là
267,4m2 đất phần di sản của Phùng Văn N 1/2 diện tích đất trong tổng diện
tích đất chung của vợ chồng tức 133,7m2.
Vì số tiền bà G chuyển nhượng đất để lo cho các con và các con của bà đều biết
nhưng không phản đối nên số tiền đó được trừ vào tài sản chung của hai vợ chồng.
Lúc này diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G được hình thành trong thời
gian hôn nhân nên phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng
Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia. Và bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt
1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà là 133,7m2.

5


Câu 7: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ơng Phùng
Văn K có được coi là di sản để chia khơng? Vì sao?
Trả lời:
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông K không được coi
là di sản thừa kế. Vì phần đất tổng 398m 2 là tài sản chung của hai vợ chồng ông
Phùng Văn N và bà Phùng Thị G nhưng bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng quyền
sử dụng đất lại cho ông Phùng Văn K với diện tích là 131m 2 đất. Việc chuyển
nhượng này các con của bà G đều biết nhưng không phản đối và cơ quan nhà nước
cũng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà G với diện tích 267,4m 2 đất
và cho ơng K với diện tích đất là 131m 2. Như vậy phần đất đã chuyển nhượng là
131m2 là tài sản của ông K và khi bà G chết thì phần đất này khơng trở thành di sản
của bà G vì phần đất này đã chuyển nhượng khơng phải tài sản riêng của bà hay tài

sản chung với người khác. Căn cứ vào Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài
sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác”.
Đoạn văn bản trong án lệ thể hiện câu trả lời là: “Năm 1991, bà Phùng Thị G
chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m 2 đất trong tổng diện tích
398m2 của thửa đất trên; phần diện tích cịn lại của thửa đất trên là 267,4m 2. Năm
1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích là
267.4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng
nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các
con của bà G đều biết nhưng khơng ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà G có
lời khai bà G bán đất để lo cho cuộc sống của bà và các con. Nay ông K cũng đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì
vậy có cơ sở xác định các con của bà G đã đồng ý để bà G chuyển nhượng
131m2đất nêu trên cho ơng Phùng Văn K. Tịa án cấp phúc thẩm khơng đưa diện
tích đất của bà G đã bán cho ông K vào khối tài sản để chia là có căn cứ xác định.
Tịa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m 2 (bao gồm phần đất
bà G đã bán cho ông K trước đó) là khối di sản để chia thừa kế là không hợp lý.
Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K.
Trả lời:
Theo nhóm em, hướng giải quyết của Tịa án trong Án lệ số 16/2017/AL về phần
diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K là hợp lý.
Bởi vì:
6


Tịa án đã xác định đúng khi khơng đưa 131m 2 diện tích đất mà bà G đã chuyển
nhượng cho ông K vào phần di sản để chia thừa kế. Vì sau khi ơng N mất và khơng
để lại di chúc, để chăm sóc các con nên bà G đã chuyển nhượng 131m 2 đất cho ông
K, các con của bà G thì đều biết và khơng ai có ý kiến phản đối gì việc này. Hướng

giải quyết của Tịa án đã bảo vệ quyền lợi cho ông K - người sở hữu 131m 2 diện
tích đất có căn cứ pháp luật vì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
G và ơng K là hợp pháp. Ơng K cũng đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nên diện tích đất đã chuyển nhượng khơng cịn trong khối di sản
để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên được chuyển nhượng là ông K.
Lúc này, ông K có quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng là 131m 2 diện tích đất căn
cứ theo Điều 223 BLDS 2015 về việc xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng như
sau: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho
vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có
quyền sở hữu tài sản đó.”
Câu 9: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để
chia khơng? Vì sao?
Trả lời:
Nếu bà G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của các con mà dùng tiền đó cho
cá nhân bà thì chỉ ½ số tiền đó được xem là di sản để chia.
Căn cứ theo Điều 612 BLDS 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”. Vì
131m2 đất đem bán là tài sản chung của vợ chồng nên bà G chỉ có thể định đoạt ½
số tiền nhận được sau khi chuyển nhượng đất và ½ số tiền này sẽ trở thành di sản
để chia sau khi bà G mất, ½ số tiền cịn lại là di sản của ơng N, đó là tài sản của
ơng N sau khi chết nên số tiền đó được coi như là di sản ông N để lại.
Câu 10: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong
diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì Sao?
Trả lời:
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là 152,8m2 đất.

7



Vì theo quy định của pháp luật thì di sản của bà Phùng Thị G là diện tích đất trong
tổng diện tích đất chung của vợ chồng tức 133,7m 2.(đã chuyển nhượng cho ông
Phùng Văn K 131m2 đất trong tổng diện tích 398m2 đất chung của hai vợ chồng).
Theo khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 khi người chết không để lại di chúc thì di chúc
sẽ được chia theo pháp luật cho những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế
thứ nhất.Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn
ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Mà khi ông Phùng Văn N chết thì khơng để
lại di chúc nên phần di sản của ông là 133,7m 2 đất được chia làm 7 phần đều nhau
cho 7 người gồm: bà Phùng Thị G, anh Phùng Văn T, chị Phùng Thị N1, Phùng Thị
N2, Phùng Thị H2, Phùng Thị P, Phùng Thị H1. Vậy mỗi người sẽ được 19,1m 2
đất.
Đồng thời bà Phùng Thị G có quyền định đoạt 1/2 diện tích đất chung của vợ
chồng là 267,4m2 đất tức 133,4m2 đất, cộng với phần đất được chia theo pháp luật
từ di sản chồng bà là 19,1m2 đất. Tổng phần đất bà có trước khi mất là 152,8m 2 đất.
Nên ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích
đất trên là 152,8m2 đất.
Câu 11: Việc Tịa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây là nội dung của Án lệ số 16 khơng?
Vì sao?
Trả lời:
Việc Tịa án xác định phần cịn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2 là
khơng thuyết phục. Vì di sản lúc này của ông N (đã trừ đi phần đất bán cho ông K)
là 267m2 : 2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất. Căn cứ theo
điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 là bà G và 6 người con nên phần đất mà bà
G nhận được là 133,5m2 : 7=19,07m2. Vậy tổng di sản mà bà G đã để lại (trừ đi
phần đất mà bà G đã cho chị H1 trong di chúc) là 133,5m 2 + 19,07m2 - 90m2 =
62,57m2.
Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16. Vì Án lệ này chỉ có nội dung xoay

quanh việc cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa
kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.

8


Câu 12: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m 2 được chia cho 5 kỷ phần cịn
lại” có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng?
Vì sao?
Trả lời:
Việc Tịa án quyết định “còn lại 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần cịn lại” là thuyết
phục.
Bởi vì:
Thứ nhất, bà G để lại di chúc nhưng chỉ định đoạt một phần tài sản là 90m 2 đất cho
chị H1 và không hề nhắc đến 5 người con còn lại cùng với 43,5m 2 đất. Áp dụng
điểm a khoản 2 Điều 650 BLDS 2015 thì 5 người con cịn lại sẽ được chia 43,5m 2
theo pháp luật.
Thứ hai, 5 người con còn lại đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 nên được hưởng phần di sản bằng nhau
tương ứng là 5 kỷ phần.
Án lệ số 16 có nội dung là việc cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng giữa bà G và
ông K. Còn về quyết định của Tòa án nêu trên là nói về việc chia thừa kế tài sản,
nên thiết nghĩ đây không phải là nội dung của Án lệ số 16.

NỘI DUNG 2: QUẢN LÝ DI SẢN.
Tóm tắt Bản án 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn
La về vụ việc “Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế.”
Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến H.
Bị đơn: Anh Phạm Tiến N.
Bố mẹ của nguyên đơn Phạm Tiến H là ơng Phạm Tiến Đ và bà Đồn Thị T khi

cịn sống có tạo dựng một khối tài sản riêng gồm diện tích 311m 2 đất và một ngơi
nhà gỗ 4 gian. Tuy nhiên khi ông Đ và bà T qua đời thì khơng để lại di chúc với
khối di sản thừa kế trên cũng như không trao quyền quản lý di sản thừa kế cho ai.
Anh H được các anh chị em trong gia đình ủy quyền đã tiến hành sửa chữa cũng
như cải tạo lại căn nhà trên đất thì bị anh Phạm Tiến N là cháu của ơng Đ và bà T
ngăn cản với lý do anh là người được ủy quyền trông coi cũng như quản lý khối di
sản từ bố là ơng Phạm Tiến T. Vì vậy anh Phạm Tiến H đã đệ đơn khởi kiện anh
Phạm Tiến N vào ngày 15/8/2019. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST
ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện M.
9


Kết quả: Tòa án đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Tiến H cũng như
buộc anh Phạm Tiến N phải bàn giao lại toàn bộ nhà và đất của ông Đ và bà T mà anh
đang quản lý cho anh H. Nhưng vào ngày 20/11/2019 anh Phạm Tiến N đã kháng cáo
vì khơng khơng nhất trí với Bản án sơ thẩm do xác định sai quan hệ pháp luật; chấp
nhận một phần kháng cáo của bị đơn anh Phạm Tiến N; sửa Bản án dân sự sơ thẩm số
23/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện M.

Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tịa án nhân dân
cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn: Ông Trà Văn Đạm.
Bị đơn: Ông Phạm Văn Sơn Nhỏ.
Nội dung: Ông Trà Văn Đạm sở hữu mảnh đất thửa số 528 diện tích 1.497m 2, nằm
tại tờ bản đồ HTC2 tọa lạc tại đội 3, ấp Hậu Thuận, xã Hậu Thành, huyện Cái Bè,
tỉnh Tiền Giang, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thửa đất này
nằm trong thửa 525 của ơng Phạm Văn Ngót do ơng Phạm Văn Sơn Nhỏ quản lý,
sử dụng. Đây cũng là lối đi thuận tiện nhất cho ơng Đạm, và ngồi lối đi này thì
ơng Đạm khơng cịn lối đi nào khác để đi ra đường cơng cộng. Ơng Nhỏ tự ý thỏa
thuận cho ông Đạm mở một lối đi từ đất của ơng Đạm qua đất của ơng Ngót đến

đường công cộng, mà không thông qua sự đồng ý của người sở hữu đất là bà Chơi.
Ông Đạm đã thực hiện xong thỏa thuận và chịu hồn tồn chi phí. Ông Nhỏ tự
nguyện cho ông Đạm, bà É sử dụng lối đi này đến hết đời. Tuy nhiên không không
đồng ý việc ông Đạm xin mở lối đi mãi mãi, ông Nhỏ tự nguyện trả giá trị tiền
bơm cát cho ông Đạm.
Kết quả: Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã không thu thập đầy đủ dữ
liệu để xem xét giải quyết vụ án là thiếu sót. Việc nhận định ơng Nhỏ có quyền
thỏa thuận cho ông Đạm mở lối đi trên đất là di sản chưa chia là không đúng. Chấp
nhận kháng nghị số 51/QĐ-VKS-DS ngày 10/02/2020. Hủy toàn bộ Bản án Dân sự
phúc thẩm số 22/2018/DS-PT ngày 11/01/2018. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân
tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Câu 1: Trong Bản án số 11, Tịa án xác định ai là người có quyền quản lý di
sản của ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục khơng, vì sao?
Trả lời:

10


Trong bản án số 11, Tòa án xác định anh Phạm Tiến H là người có quyền quản lý
di sản của ông Đ và bà T gồm đất, nhà và tài sản trên đất mang tên bà Đoàn Thị T
số 0010/QSDĐ/323/QĐUB do UBND huyện M cấp ngày 02/4/2004 tại Tiểu khu
C, thị trấn nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. (Có sơ đồ trích đo hiện trạng khu
đất kèm theo). Anh H có các quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản theo quy
định tại các Điều 617, Điều 618 của BLDS 2015 và có quyền yêu cầu Nhà nước có
thẩm quyền bảo vệ quyền quản lý di sản khi bị người khác xâm phạm theo quy
định của pháp luật.
Việc Tòa án xác định như vậy là thuyết phục.
Bởi vì: Anh Phạm Tiến H là một trong những người thừa kế - thuộc hàng thừa kế
thứ nhất. Ngồi ơng Thiện, những người cịn lại theo hàng thừa kế thứ nhất tức là
các đồng thừa kế đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của

ông Đ và bà T. Những người thừa kế cịn lại đều có đủ năng lực hành vi dân sự,
quyết định dựa trên cơ sở tự nguyện, không bị lừa dối, ép buộc, không vi phạm
điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.
Mặt khác anh Phạm Tiến N không thể là người quản lý di sản vì: Theo khoản 1
Điều 616 của BLDS 2015 thì “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong
di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận đề cử ra”. Khi ông Đ và bà T chết,
không để lại bất kỳ di chúc nào về việc giao lại di sản và quyền quản lý di sản cho
ai trong số các con của mình, và những người đồng thừa kế tài sản của ông Đ và bà
T tức là 5 anh chị em còn lại (trừ anh Phạm Tiến H và ơng Thiện) đều có nguyện
vọng là giao cho anh H tu sửa và quản lý ngơi nhà, ơng Thiện khơng có sự nhất trí
bằng văn bản của các đồng thừa kế. Vì vậy việc quản lý di sản của ơng Thiện là
khơng có căn cứ pháp luật, đồng thời ơng Thiện khơng có quyền trao lại cho con là
anh N quyền quản lý di sản.
Chính vì vậy khi Tịa xác định anh Phạm Tiến H là người có quyền quản lý di sản
của ơng Đ bà T là thuyết phục, vừa hợp tình và hợp lý đúng với pháp luật.
Câu 2: Trong Bản án số 11, ơng Thiện trước khi đi chấp hành án có là người
quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
Trả lời:
Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án là người quản lý di sản.
Trước khi ông Thiện đi chấp hành án tức là khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm
2013.
Qua phần Nhận định của Tòa án ở mục [3.3] đã thể hiện rõ: “Năm 2012, sau khi bà
T chết, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, tiếp tục quản lý
di sản của ông bà Đ T.”.
11


Căn cứ vào khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 quy định: “ Người quản lý di sản là
người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.”.
Trong khi đó, khi chết ơng bà Đ T không để lại di chúc đối với khối di sản thừa kế

nêu trên và không giao quyền quản lý di sản cho ai. Các thành viên trong gia đình
tức con cháu của ơng bà Đ T đã thay nhau trông coi, quản lý khối di sản của hai
ông bà. Mặc dù khi chết ông bà Đ T không giao quyền quản lý di sản cho ai nhưng
xét về lý thì ơng Thiện là con trai trưởng trong gia đính nên có trách nhiệm hương
khói cho ơng bà, các anh chị đã đi xây dựng gia đình hết khơng ai trơng nom ngơi
nhà đó.
Bên cạnh đó căn cứ vào khoản 2 Điều 616 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp di
chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được
người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục
quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.
Câu 3: Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền
quản lý di sản có thuyết phục khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Trong bản án số 11, Tòa án giao cho anh H quyền quản lý di sản là thuyết phục vì
theo khoản 1 điều 616 BLDS 2015 thì “Người quản lý di sản là người được chỉ
định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.”. Và trong
trường hợp này thì khi ơng Đ và bà T qua đời đã không để lại di chúc chỉ định
người quản lý và các anh chị em trong gia đình đã thống nhất ủy quyền anh N là
người quản lý di sản thừa kế để tu sửa, cải tạo lại căn nhà, vì vậy Tịa án giao cho
anh H quyền quản lý di sản là thuyết phục
Câu 4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tơn tạo, tu
sửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản
như trong bản án số 11.
Vì: Theo điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 thì người quản lý di sản có nghĩa
vụ phải “bảo quản di sản”; nghĩa là thực hiện các hành vi cất giữ, trông coi theo
đúng các phương thức, phù hợp với từng loại di sản và phải đảm bảo di sản không
bị hư hỏng, mất mát hay giảm giá trị. Vì vậy khi di sản xuống cấp hay có dấu hiệu
12



hư hỏng thì người quản lý có thể sửa chữa, tôn tạo cũng như tu sửa lại tránh việc
hư hỏng hay mất giá trị của di sản. Trong thực tiễn bản án số 11 thì ơng H là người
quản lý cũng đã được các người thừa kế là anh chị em trong gia đình ủy quyền và
cho phép tu sửa, tôn tạo lại căn nhà trên đất là di sản thừa kế của ông Đ và bà T.
Câu 5: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho
con trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản khơng có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản, mà di sản sẽ được giao lại thông qua yêu cầu của những
người thừa kế hoặc là theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản.
Điều đó có nghĩa là nếu thông qua sự thỏa thuận của những người thừa kế, thì
người đang quản lý di sản sẽ có nghĩa vụ giao lại quyền quản lý di sản cho người
khác chứ không phải trực tiếp thực hiện việc giao quyền quản lý. Hoặc giao lại di
sản thông qua hợp đồng với người để lại di sản, có thể là hợp đồng ủy quyền.
Người được ủy quyền sẽ chỉ được thực hiện các quyền trong phạm vi hợp đồng ủy
quyền mà người ủy quyền lập nên (nội dung hợp đồng ủy quyền do bên ủy quyền
tự quyết định). Và các quyền trong phạm vi pháp luật cho phép quy định tại Điều
618 BLDS 2015.
Cơ sở pháp lý là căn cứ theo Điều 562 BLDS 2015, các điểm đ khoản 1, điểm d
khoản 2 Điều 167 BLDS 2015 và Điều 618 BLDS 2015.
Điều 562. Hợp đồng ủy quyền
Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có
nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả
thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Điều 617. Nghĩa vụ của người quản lý di sản
“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này
có nghĩa vụ sau đây:

đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.”
“2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616
của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo
yêu cầu của người thừa kế.”
13


Điều 618. Quyền của người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật
này có quyền sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến
di sản thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh tốn chi phí bảo quản di sản.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616
của Bộ luật này có quyền sau đây:
a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di
sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
3. Trường hợp khơng đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù
lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

Câu 6: Trong Quyết định số 147, Tịa án xác định người quản lý khơng có
quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục
khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý khơng có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là có thuyết phục. Vì thửa đất 525 là tài

sản chung của ông Ngót và bà Chơi, thuộc quyền sở hữu của bà Chơi. Khi ơng
Ngót chết, ơng khơng có để lại di chúc nên ông N chỉ là người quản lý sử dụng và
khơng có quyền định đoạt. Bởi vậy tuy ông N là người quản lý đất nhưng ông
không có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Quá trình quản lý,
sử dụng ông N đã tự ý mở lối đi khi chưa được sự đồng ý của bà Chơi và các đồng
thừa kế khác là vi phạm quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 617 BLDS 2015, và
các Điều 167, khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai 2013.
Cơ sở pháp lý:
Điểm b, khoản 1, Điều 617 BLDS 2015 quy định:
14


Điều 617. Nghĩa vụ của người quản lý di sản
“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này
có nghĩa vụ sau đây:
b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc
định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu khơng được những người thừa kế
đồng ý bằng văn bản;”
Điều 167. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất
1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng
đất theo quy định của Luật này.
2. Nhóm người sử dụng đất mà có chung quyền sử dụng đất thì có các quyền và
nghĩa vụ như sau:
a) Nhóm người sử dụng đất gồm hộ gia đình, cá nhân thì có quyền và nghĩa vụ
như quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân theo quy định của Luật này.
Trường hợp trong nhóm người sử dụng đất có thành viên là tổ chức kinh tế thì có
quyền và nghĩa vụ như quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế theo quy định của

Luật này;
b) Trường hợp nhóm người sử dụng đất mà quyền sử dụng đất phân chia được
theo phần cho từng thành viên trong nhóm, nếu từng thành viên của nhóm
muốn thực hiện quyền đối với phần quyền sử dụng đất của mình thì phải
thực hiện thủ tục tách thửa theo quy định, làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và
được thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định của
Luật này.
Trường hợp quyền sử dụng đất của nhóm người sử dụng đất khơng phân chia được
theo phần thì ủy quyền cho người đại diện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của
nhóm người sử dụng đất.
Điều 168. Thời điểm được thực hiện các quyền của người sử dụng đất
“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận.
Đối với trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp thì người sử dụng
đất được thực hiện quyền sau khi có quyết định giao đất, cho thuê đất; trường hợp
nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền khi có

15


Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Trường hợp người sử dụng đất được chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc được
ghi nợ nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện xong nghĩa vụ tài chính trước khi thực
hiện các quyền.”

NỘI DUNG 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ.
Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và
thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản.

Nguyên đơn: Cấn Xuân V, Cấn Thị N1, Cấn Thị H, Cấn Xuân T, Cấn Thị N2, Cấn
Thị M1, Cấn Văn S ( chết năm 2008, có vợ là bà Nguyễn Thị M và hai con là Cấn
Thùy L, Cấn Hoàng K). Do Cấn Thị N2 đại diện. Bị đơn: Cụ Nguyễn Thị L, ông
Cấn Anh C.
Nội dung: Cụ K và T có 8 người con là: Cấn Xuân V, Cấn Thị N1, Cấn Thị T1, Cấn
Thị H, Cấn Xuân T, Cấn Thị N2, Cấn Thị M1, Cấn Văn S (chết năm 2008, ơng S
có vợ là bà Nguyễn Thị M và hai con là Cấn Thùy L, Cấn Hồng K). Ơng bà K và
T có tạo lập được khối tài sản gồm nhà cấp 4, bếp, nhà tắm và các công trình khác,
cây cối trên diện tích đất 612m 2, thửa số 120, tờ bản đồ số 11, tại thôn T, xã, huyện
Th, thành phố Hà Nội. Năm 1972, cụ T chết. Năm 1973, cụ K kết hôn với cụ
Nguyễn Thị L và có 4 người con gồm các ơng, bà: Cấn Thị C, Cấn Thị M2, Cấn
Thị T2 và Cấn Anh C. Năm 2002, phần đất trên được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đứng tên hộ cụ Cấn Văn K. Cuối năm 2002 cụ K chết, khối tài sản do
cụ L và ông Cấn Anh C quản lý, sử dụng. Tháng 11/2010, các đồng nguyên đơn là
các con của cụ K với cụ T yêu cầu chia tài sản chung của mẹ là cụ T và chia di sản
thừa kế của cụ K để lại theo quy định của pháp luật.
Kết quả: Tòa án cấp sơ thẩm xác định tại thời điểm khởi kiện (tháng 11/2010) là đã
hết thời hiệu để chia thừa kế của cụ T, xác định di sản của cụ T để lại là tài sản
chung chưa chia và tuyên chia cho 08 người con của cụ T. Tòa án cấp phúc thẩm
xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế của cụ T đã hết và không chấp nhận yêu
cầu của các nguyên đơn về việc chia tài sản chung đối với phần di sản của cụ T,
tuyên cho các đồng thừa kế đang quản lý các di sản của cụ T là cụ L và ông C được
16


tiếp tục quản lý, sử dụng và sở hữu. Tòa án nhân dân tối cao hủy toàn bộ Bản án
dân sự phúc thẩm và Bản án phúc thẩm vì cho rằng thời hiệu khởi kiện thừa kế đối
với tài sản của cụ T vẫn còn.
Câu 1: Các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế của Việt Nam.
Trả lời:

Trong thừa kế, pháp luật quy định có các loại thời hiệu sau:
Thời hiệu yêu cầu chia di sản:
- Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động
sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì
di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
- Đối với trường hợp khơng có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản
được giải quyết như sau:
+ Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu tài sản không có căn
cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn 10 năm đối
với động sản, 30 năm đối với bất động sản.
+ Di sản thuộc về Nhà nước, nếu khơng có người chiếm hữu tài sản khơng có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm
đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản.
Thời hiệu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người
khác: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc
bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại: Thời hiệu yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ
thời điểm mở thừa kế.
Câu 2: Pháp luật nước ngồi có áp đặt thời hiệu đối với u cầu chia di sản
khơng?
Trả lời :
Pháp luật nước ngồi đa số khơng có áp đặt thời hiệu đối với u cầu chia di sản.
Bởi lẽ pháp luật nước ngoài rất đề cao quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham
17


gia xoay quanh vấn đề chia di sản. Tuy nhiên vẫn cịn đó 1 số nước có áp đặt thời
hiệu đối với yêu cầu chia di sản như Anh Quốc có thời hiệu là 6 tháng. Ví dụ:
(1) Đối với Campuchia – Quốc gia có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di

sản, cụ thể ở khoản 1 Điều 1248 BLDS Campuchia; “Người thừa kế phải có sự
chấp nhận đơn giản hoặc chấp nhận có giới hạn hoặc từ bỏ quyền từ bỏ quyền
thừa kế trong vòng 3 tháng kể từ ngày biết được việc thừa kế của mình đã phát
sinh. Tuy nhiên thời gian này có thẻ kéo dài theo yêu cầu của người thừa kế.”
(2) Đối với pháp luật Pháp – Quốc gia khơng có sự áp đặt thời hiệu đối với yêu
cầu chia di sản, cụ thể tại Điều 815 BLDS Pháp; “Khơng ai có thể bị buộc phải
chấp nhận trong tình trạng chưa chia và bất cứ lúc nào cũng có thể yêu cầu chia
di sản trừ trường hợp việc này được tạm hoãn theo bản án hoặc theo pháp luật.”
Như vậy, ở nước ngồi khơng phải bất cứ quốc gia nào cũng áp đặt thời hiệu đối
với yêu cầu chia di sản mà phải căn cứ vào tình hình, hồn cảnh, xu hướng phát
triển và chế độ chính trị của quốc gia đó sao cho phù hợp nhất.
Câu 3: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào
của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Trả lời:
Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm 1972, tức là sau khi cụ T mất.
Theo khoản 1 Điều 611 BLDS 2015.
Ở điểm [3] mục “Nhận định của Tịa án” có ghi: “Tại thời điểm các đồng
ngun đơn khởi kiện (tháng 11-2010) cụ K và ông Cấn Văn S đã chết, các
thừa kế của cụ K và ông S được hưởng thừa kế chuyển tiếp đối với di sản mà
cụ K, ơng S được hưởng. Tịa án cấp sơ thẩm xác định tại thời điểm các
đương sự khởi kiện (tháng 11-2010) là đã hết thời hiệu để chia thừa kế của
cụ T.”

Câu 4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?

18


Trả lời:

Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản là khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 và điểm d khoản 1
Điều 688 BLDS 2015.
Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015:
1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động
sản,
10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di
sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp khơng có
người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a. Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều
236 của Bộ luật này;
a. Di sản thuộc về Nhà nước, nếu khơng có người chiếm hữu quy định tại điểm a
khoản này.
Điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS 2015:
1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì
việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:

d. Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.
Hướng giải quyết của Án lệ là hợp lý. Cụ T mất năm 1972, thời điểm mở thừa kế
trước ngày Bộ luật có hiệu lực là ngày 01/01/2017. Nhưng tại thời điểm khởi kiện
là vào 2/11/2010 thì phải áp dụng Điều 645 của BLDS 2005 để giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của các đương sự. Tòa án đã áp dụng hiệu lực
hồi tố vào Án lệ để giải quyết mà cụ thể là Điều 623 BLDS 2015 nhằm kéo dài
thời hiệu khởi kiện để đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự được bảo vệ.
Câu 5: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được cơng bố có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?
Trả lời:

19



Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được
cơng bố có cơ sở văn bản là khơng có cơ sở pháp luật.
Vì khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 chỉ đề cập tới thời hiệu bắt đầu từ thời điểm mở
thừa kế không đề cập đến việc nếu thời điểm mở thừa kế trước ngày ban hành Pháp
lệnh về thừa kế ngày 30/08/1990 thì thời hiệu được tính từ ngày cơng bố Pháp lệnh
(10/09/1990). Nhưng hướng giải quyết của án lệ rất là thuyết phục. Đối với trường
hợp mở thừa kế trước ngày 30/08/1990 thì thời hiệu được tính từ ngày Pháp lệnh
được cơng bố tức ngày 10/09/1990 chứ không phải ngày mở thừa kế (theo khoản 4
Điều 36 Pháp lệnh về thừa kế ngày 30/08/1990) giúp cho kéo dài thời hiệu yêu cầu
chia di sản đúng với tinh thần của Điều 102 Hiến pháp 2013 rằng Tịa án là nơi bảo
vệ cơng lý, việc kéo dài thời hiệu khởi giúp cho Tòa án tham gia nhiều hơn vào các
vụ án tranh chấp thừa kế, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự,
người dân tiếp cận nhiều hơn với công lý.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.
Trả lời:
Án lệ số 26 đã góp phần khẳng định thời hiệu 30 năm trong BLDS 2015 khi người
để lại di sản chết trước ngày 1/1/2017 và đồng thời đã bổ sung cho khiếm khuyết
của BLDS 2015.
Đầu tiên, là thống nhất thừa kế theo pháp luật hay thừa kế theo di chúc đều được
hiểu là giao dịch dân sự.
Thứ hai, đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày ban hành Pháp lệnh thừa kế
(30/08/1990) thì thời hiệu bắt đầu từ ngày công bố án lệ (10/09/1990) chứ không
phải ngày mở thừa kế. Theo GS. Đỗ Văn Đại: “Tranh chấp về u cầu chia di sản
khơng nên có thời hiệu, tuy nhiên hiện nay pháp luật của chúng ta vẫn duy trì về
thời hiệu yêu cầu chia di sản đây là điều không thuyết phục.” Án lệ số 26 đã đi
theo đúng tinh thần của BLDS 2015 và Hiến pháp 2013, đó là tạo điều kiện cho

người dân tiếp cận nhiều hơn với công lý. Việc căn cứ vào thời hiệu chia di sản sẽ
tạo ra những rào cản ngăn Tòa án tham gia giải quyết tranh chấp, khi tranh chấp
không được giải quyết trên cơ sở pháp luật mà vẫn duy trì sẽ có thể dẫn đến bao
lực khơng đáng có. Nên việc Án lệ số 26 đã kéo dài thời hiệu yêu cầu chia di sản là
thuyết phục, cho phép Tòa án được tham gia giải quyết những vụ án vốn bị lãng
quên do thời hiệu, nay được đưa ra công lý và hưởng ứng đúng tinh thần của Điều
102 Hiến pháp 2013 đó là giúp cho người dân tiếp cận nhiều hơn với công lý.
20


NỘI DUNG 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU.
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp
luật về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm
2018 đến nay. Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê
phải thỏa mãn những thông tin theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài
viết để trong dấu ngoặc kép, 3) Tên Tạp chí in nghiêng 4) Số và năm của Tạp
chí, 5) Số trang của bài viết (ví dụ: từ tr.41 đến 51). Các bài viết được liệt kê
theo alphabet tên các tác giả (không nêu chức danh).
Trả lời:
1. Bạch Thị Nhã Nam, “Những bất cập của các quy định pháp luật về quyền lợi
có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản”, Tạp chí Luật học, số 10/2018,
tr. 1725.
2. Cao Thị Kim Trinh, “Bình luận các sai sót trong q trình kê biên, xử lý tài
sản thế chấp để thi hành bản án, quyết định kinh doanh thương mại”, Tạp
chí Nghề
3. Nguyễn Minh Hằng, Nguyễn Thị Thu Hà, “Thẩm quyền giải quyết tranh
chấp về thừa kế tài sản”, Tạp chí Nội chính, số 79(7/2020), tr.24-28.
4. Nguyễn Nhật Huy, “Hạn chế phân chia di sản thừa kế trong Bộ luật Dân sự
năm 2015-Một số bất cập và kiến nghị hồn thiện”, Tạp chí Pháp luật và
thực tiễn, số 40/2019, tr. 51-58.

5. Nguyễn Minh Hằng, “Bình luận về vụ án giải quyết tranh chấp thừa kế theo di
chúc miệng”, Tạp chí Nghề Luật, số 02/2019, tr. 72-77.
6. Nguyễn Thùy Trang, “Bình luận về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại và đảm bảo quyền đòi tài sản từ một vụ án cụ thể”, Tạp chí Nghề
Luật, số 03/2018, tr. 66-71.
7. Phan Thị Hồng, “Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về thừa kế”,
Tạp chí Nghề Luật, số 02/2018, tr. 28-35.
8. Tưởng Duy Lượng, “Bàn về đăng kí biện pháp bảo đảm và xử lý tài sản bảo
đảm”, Tạp chí Kiểm sát, số 14/2018, tr. 08-19.
9. Bùi Ngọc Thanh, “Hoàn thiện các chế tài để công khai, minh bạch tài sản và thu
nhập”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 12/2018, tr. 35-40.


×