Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luận văn thạc sĩ VNU LS pháp luật về nuôi con nuôi có yêu tố nước ngoài của việt nam trong mối tương quan với công ước lahay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.87 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ KIM DUNG

PHÁP LUẬT VỀ NI CON NI CĨ YẾU TỐ
NƢỚC NGỒI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI
TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ KIM DUNG

PHÁP LUẬT VỀ NI CON NI CĨ YẾU TỐ
NƢỚC NGỒI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI
TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Vũ Đức Long


HÀ NỘI - 2013

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu................................................................................... 7
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 8
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 9
5. Những đóng góp, ý nghĩa của Luận văn ...................................................... 9
6. Cơ cấu của luận văn .................................................................................... 9
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI CĨ YẾU
TỐ NƢỚC NGỒI .......................................................................... 11
1.1.

Khái niệm về ni con ni có yếu tố nước ngồi ............................. 11

1.2.

Ngun tắc giải quyết ni con ni có yếu tố nước ngồi ................ 15

1.3.


Điều kiện đối với người nhận con nuôi và người được cho làm con ni .. 21

1.4.

Trình tự, thủ tục giải quyết ni con ni có yếu tố nước ngồi ........ 28

1.5.

Cơ quan quản lý nhà nước về nuôi con ni có yếu tố nước ngồi ........ 34

1.6.

Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi quốc tế .......................................... 35

Chƣơng 2: NHỮNG TIẾN BỘ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM SO VỚI QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƢỚC LAHAY .... 38
2.1.

Khái quát chung về Công ước Lahay ................................................. 38

2.2.

Những khuyế n nghi ̣của Ủy ban Lahay .............................................. 42

2.3.

Nhữ ng điể m tương đồ ng và bấ t câ ̣p của pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam so với
quy đinh
̣ của Công ước Lahay ........................................................... 46


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chƣơng 3: THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ
THỰC THI LUẬT NUÔI CON NUÔI VÀ CAM KẾT CỦA
VIỆT NAM KHI THAM GIA CÔNG ƢỚC LAHAY .................. 57
3.1.

Kết quả thực thi các quy định của pháp luật Việt Nam về nuôi con
nuôi có yế u tố nước ngoài thời gian qua ............................................ 57

3.2.

Những tồn tại, bất cập trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi
quốc tế theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và theo yêu cầu của
Công ước Lahay ................................................................................ 62

3.3.

Những thách thức khi thực thi Công ước Lahay tại Việt Nam ........... 73

3.4.

Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực thi Luật Nuôi
con nuôi và Công ước Lahay ............................................................. 75

KẾT LUẬN .................................................................................................. 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 85
PHỤ LỤC


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ni con ni nói chung, ni con ni quốc tế nói riêng là một vấn đề
xã hội mang tính nhân đạo sâu sắc. Quan hệ nuôi con nuôi quốc tế đã xuất
hiện từ rất lâu trên thế giới do nhu cầu thực tiễn của đời sống xã hội và trong
giai đoạn hiện nay, khi xu hướng hội nhập quốc tế và tồn cầu hóa đang phát
triển mạnh thì hoạt động ni con ni quốc tế cũng ngày càng mở rộng.
Ở Việt Nam, nuôi con nuôi quốc tế bắt đầu xuất hiện từ khoảng những
năm 70 thế kỷ 20 [26]. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam đóng
vai trị khởi xướng cho hoạt động nuôi con nuôi quốc tế với những số liệu
được ghi nhận đầu tiên vào năm 1962 và tăng mạnh vào giai đoạn 1972-1976.
Theo số liệu do tổ chức Dịch vụ xã hội quốc tế (ISS) cung cấp, từ năm 19622001 đã có trên 7.000 trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi tại Mỹ. Từ
năm 2002-2008, đã có 8.357 trẻ em Việt Nam được giải quyết làm con nuôi
tại 8 nước Mỹ, Canada, Pháp, Đan Mạch, Thụy Sỹ, Ailen, Italy và Thụy Điển.
Liên tục trong nhiều năm của giai đoạn này, Việt Nam là Nước gốc xếp thứ 5
hoặc 6 trên thế giới về số lượng trẻ em được giải quyết làm con ni người
nước ngồi và là đối tác lớn thứ nhất hoặc thứ hai về số lượng trẻ em được
nhận làm con nuôi tại một số Nước nhận như Italy, Pháp, Ailen.
Cùng với quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng, các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi quốc tế đã được hình thành, hồn thiện và góp phần quan trọng
vào việc đảm bảo thực hiện quyền của trẻ em là được chăm sóc, ni dưỡng
và giáo dục trong mơi trường gia đình, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế ở cấp
độ chính phủ vì mục đích nhân đạo và bảo vệ lợi ích tốt nhất cho những trẻ
em có hồn cảnh đặc biệt.

1


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Nghị định số 184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định về thủ
tục kết hơn, nhận con ngồi giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân
Việt Nam và người nước ngồi có thể coi là văn bản quy phạm pháp luật đầu
tiên quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết ni con ni quốc tế tại
Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, Nghị định số 184/CP đã
bộc lộ nhiều điểm hạn chế như: hình thức xin con ni quốc tế theo Nghị định
chủ yếu dưới dạng xin đích danh, thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi quốc
tế thuộc về Uỷ ban Nhân dân tỉnh/thành, Sở Tư pháp là cơ quan đầu mối trực
tiếp tiếp nhận, nghiên cứu và giải quyết hồ sơ. Cách quy định như vậy dẫn
đến tình trạng giải quyết mang tính khép kín và khơng thống nhất ở các địa
phương, khó quản lý và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân làm môi giới
giữa người nhận con nuôi và trẻ em được nuôi; các quy định về hồ sơ của
người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi chưa phù hợp với
quy định về hợp pháp hóa lãnh sự thời điểm đó; có những loại giấy tờ đương
sự khơng thể hồn tất vì có sự khác biệt giữa quy định của pháp luật Việt
Nam và hệ thống hành chính của nước nhận. Những khúc mắc về thủ tục đã
dẫn tới thực tế là có người đủ điều kiện nhưng khơng thể nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi. Đồng thời, việc nhận con nuôi trên cơ sở giấy tờ không
trung thực do phải "lách luật" gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự tôn nghiêm
của pháp luật và lợi ích của trẻ em [8].
Trước những bất cập nêu trên, nhiều văn bản quy phạm pháp luật sau
đó đã lần lượt được ban hành nhằm tăng cường quản lý thống nhất, chặt chẽ
và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em trong công tác quản lý nhà nước và giải quyết
ni con ni có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quan hệ ni
con ni có yếu tố nước ngồi đã được luật hóa thơng qua một số điều của
Luật Hơn nhân- Gia đình năm 2000. Ngày 10/7/2002, Chính phủ đã ban hành

Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Hơn nhân và Gia đình về quan hệ hơn nhân gia đình có yếu tố nước ngồi.
Việc ban hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP là một bước cải cách đáng ghi nhận
về lĩnh vực pháp lý trong công tác quản lý và giải quyết nuôi con nuôi quốc tế
tại Việt Nam. Ngày 21/7/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số
69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐCP. Việc thực hiện Nghị định 68/2002/NĐ-CP (đã sửa đổi) đã tạo nên những
chuyển biến đáng kể trong lĩnh vực giải quyết ni con ni quốc tế, góp
phần thiết lập trật tự trong hoạt động của các tổ chức con nuôi quốc tế tại Việt
Nam, kiểm soát chặt chẽ và thống nhất các thủ tục giải quyết nuôi con nuôi
quốc tế, thống nhất đầu mối quản lý và giải quyết nuôi con ni có yếu tố
nước ngồi, cải thiện đáng kể đời sống của trẻ em tại hàng trăm cơ sở ni
dưỡng trên phạm vi tồn quốc. Quan hệ hợp tác của Việt Nam trong lĩnh vực
con nuôi quốc tế được nâng lên một tầm vóc mới và mở rộng nhanh chóng
với 13 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những đối tác lớn như Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Italy, Cộng hòa Ailen, Vương
quốc Tây Ban Nha, Liên bang Thụy Sỹ, Vương quốc Thụy Điển, Canada...
Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, đặc biệt là
trước nhu cầu hợp tác lớn giữa Việt Nam và các nước nhận, việc thực hiện
pháp luật về nuôi con nuôi, đặc biệt là con nuôi quốc tế tiếp tục bộc lộ những
hạn chế, bất cập, cụ thể là: các vấn đề về nuôi con nuôi chưa được quy định
một cách thống nhất trong một đạo luật, bởi vậy có sự chồng chéo, mâu thuẫn
với nhau, làm giảm hiệu lực áp dụng trong thực tiễn. Khung pháp lý về nuôi
con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế đồng thời tồn tại nhưng lại được
quy định tản mạn trong những văn bản pháp luật khác nhau, do vậy chưa có

sự gắn kết giữa ni con ni trong nước và con ni quốc tế. Quy trình, thủ
tục giải quyết nuôi con nuôi theo quy định của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
bộc lộ những kẽ hở cho một số cá, tổ chức làm sai lệch hồ sơ trẻ em vì mục

3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


đích trục lợi, vi phạm ngun tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ và gây ảnh hưởng
xấu đến phương diện nhân đạo của hoạt động này. Do thẩm quyền giải quyết
tập trung quá lớn vào một số cá nhân nên trong hệ thống cơ sở ni dưỡng
gây nên tình trạng nhũng nhiễu, đẩy chi phí đen liên quan đến ni con ni
quốc tế lên mức cao. Q trình cấp phép ồ ạt cho các tổ chức con ni nước
ngồi hoạt động tại Việt Nam gắn liền với yêu cầu hỗ trợ nhân đạo bắt buộc
dẫn đến thực tế cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tại từng trung tâm bảo trợ
xã hội để có thể được giới thiệu nhiều trẻ em. Điều này đi ngược với những
nguyên tắc cơ bản của Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế và pháp luật của nhiều nước là thành viên
Công ước. Nếu tiếp tục giữ cơ chế cũ với nhiều hạn chế như vậy sẽ dẫn đến
sự vi phạm tất yếu các nguyên tắc bảo vệ quyền trẻ em, đồng thời ảnh hưởng
nghiêm trọng đến uy tín của Việt Nam trong mối quan hệ hợp tác với các
nước phát triển khác.
Chính vì vậy, u cầu tiếp tục hồn thiện hệ thống pháp luật về ni
con ni nói chung, đặc biệt là ni con ni quốc tế nói riêng trở nên vô
cùng cấp bách. Cần ban hành một đạo luật riêng về nuôi con nuôi nhằm tạo
khuôn khổ pháp lý thống nhất, ổn định, có giá trị áp dụng lâu dài, nâng cao
trách nhiệm của các ngành, các cấp, cơ quan, tổ chức và xã hội trong việc
chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Việc ban hành Luật Nuôi con nuôi sẽ đáp ứng nhu
cầu thực tiễn ngày càng tăng của quan hệ nuôi con nuôi quốc tế, gắn kết hoạt

động nuôi con nuôi trong nước với nuôi con nuôi quốc tế, bảo vệ lợi ích của
các chủ thể, bao gồm cả trẻ em được nuôi và người nhận con ni theo hướng
tạo dựng mơi trường gia đình ổn định, hài hịa, hạnh phúc và phát triển. Hồn
thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi quốc tế của Việt Nam theo hướng
nội luật hóa những quy phạm quốc tế là việc làm cần thiết nhằm thực thi
những cam kết trước cộng đồng quốc tế về tôn trọng và bảo vệ quyền trẻ em.

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Luật Ni con ni được Quốc hội khóa XII thơng qua ngày
17/6/2010, tại Kỳ họp thứ 7 đã đánh dấu một bước phát triển mới trong công
tác quản lý và giải quyết ni con ni nói chung, ni con ni có yếu tố
nước ngồi nói riêng. Luật Ni con ni đã được xây dựng trên quan điểm
xuyên suốt là bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bảo đảm
việc giải quyết ni con ni trên tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của
những trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt.
Cùng với việc hồn thiện hệ thống pháp luật trong nước, để tạo hành
lang pháp lý ổn định lâu dài cho công tác bảo vệ trẻ em được cho làm con
ni người nước ngồi, thúc đẩy quan hệ hợp tác từ cấp độ song phương sang
đa phương trên tinh thần nhân đạo và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em Việt Nam
có hồn cảnh khó khăn, ngăn ngừa và chống hành vi mua bán trẻ em hoặc lợi
dụng ni con ni vì mục đích trục lợi, ngày 7/12/2010, Việt Nam đã ký
tham gia Công ước về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc
tế (Công ước Lahay). Ngày 18/7/2011, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số
1103/2011/QĐ-CTN phê chuẩn toàn văn Công ước. Theo quy định tại Điều
46, Công ước sẽ có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 1/2/2012.

Công ước Lahay là một trong 34 điều ước quốc tế đa phương quan
trọng thuộc lĩnh vực tư pháp quốc tế được Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế
thông qua ngày 29/5/1993. Đến tháng 7/2012, đã có 86 quốc gia trở thành
thành viên của Công ước [32] và đây là Công ước Lahay về hợp tác tư pháp
quốc tế có số lượng nước thành viên lớn nhất trong hệ thống điều ước của Hội
nghị Lahay cho đến nay. Trong khu vực Đông Nam Á, các quốc gia láng
giềng như Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Philippin đều đã trở thành
thành viên của Cơng ước cách đây nhiều năm. Có thể nói, Cơng ước Lahay là
điều ước quốc tế đa phương đã dung hịa tối đa lợi ích của các nước cho và

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nước nhận con ni quốc tế, nhất thể hóa ở mức độ cao về những khác biệt
trong pháp luật của các nước về nuôi con nuôi quốc tế. Tham gia Cơng ước
Lahay, Việt Nam khơng chỉ có cơ hội mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
nuôi con nuôi quốc tế mà đồng thời khẳng định quan điểm nhất quán và sự
cam kết mạnh mẽ của Nhà nước trong việc tăng cường bảo vệ trẻ em được
giải quyết làm con ni người nước ngồi, tranh thủ kinh nghiệm quốc tế, sự
hỗ trợ kỹ thuật và nhân đạo để hoàn thiện cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng
chăm sóc trẻ em và bảo đảm quyền được nuôi dưỡng trong mơi trường gia
đình của trẻ em.
Trong bối cảnh bắt đầu thực thi Luật Ni con ni với những cải cách
tồn diện về quy trình, thủ tục, đồng thời chuyển đổi từ mơ hình hợp tác song
phương sang cơ chế hợp tác đa phương trong lĩnh vực con nuôi quốc tế, việc
phân tích, đánh giá những điểm phù hợp, chưa phù hợp của pháp luật Việt
Nam trong mối quan hệ với quy định của Công ước Lahay để thấy được
những thuận lợi, khó khăn trong q trình thực thi Luật Ni con nuôi và thực

thi Công ước, đề xuất những khuyến nghị nhằm tiếp tục nội luật hóa Cơng
ước vì mục tiêu bảo vệ lợi ích tốt nhất cho những trẻ em được giải quyết làm
con ni người nước ngồi là việc làm có ý nghĩa thời sự và thực tiễn cao.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Pháp luật
về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi của Việt Nam trong mối tương quan
với Công ước Lahay" làm luận văn thạc sỹ luật học. Việc nghiên cứu đề tài
khơng chỉ mang tính lý luận mà cịn có giá trị ứng dụng cao trong công tác
quản lý nhà nước về nuôi con nuôi quốc tế hiện nay, đặc biệt là trong cơng tác
hồn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả thực thi các quy trình thủ tục giải quyết
ni con ni quốc tế theo tiêu chuẩn của Công ước Lahay và quy định của
pháp luật Việt Nam, phân định rõ vai trò trách nhiệm của Cơ quan con nuôi
trung ương trong việc thực hiện các nghĩa vụ của Công ước, đồng thời tăng

6

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


cường trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền hữu quan ở cấp trung ương
và địa phương trong quá trình giải quyết ni con ni, nâng cao nhận thức xã
hội và hiệu quả, chất lượng bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
2. Tình hình nghiên cứu
Quan hệ pháp luật về ni con ni có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam
cũng như những nội dung cơ bản của Công ước Lahay đã được nhiều nhà
khoa học nghiên cứu dưới những giác độ khác nhau. Kể từ khi Nhà nước thực
hiện đường lối đổi mới và hội nhập đến nay, cùng với việc ban hành Luật Hơn
nhân và Gia đình và nhiều văn bản quy phạm điều chỉnh quan hệ ni con
ni có yếu tố nước ngồi khác, đã có nhiều diễn đàn, cơng trình nghiên cứu
về chế định ni con ni có yếu tố nước ngồi, trong đó có thể điểm một số
cơng trình như:

- Chun đề “Chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam và
quốc tế” của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý-Bộ Tư pháp năm 1998;
- Đề tài “Pháp luật Việt Nam về nuôi con ni có yếu tố nước ngồi-thực
trạng và phương hướng hoàn thiện” của thạc sỹ Phạm Thùy Dương năm 2006;
- Đề án triển khai Công ước Lahay do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thực hiện giai đoạn 2012-2015.
- Báo cáo sơ kết 5 năm tình hình thực hiện Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế-Cục Con nuôi quốc tế, Bộ Tư pháp, tháng 9/2008.
- Báo cáo đánh giá “Nhận con nuôi từ Việt Nam-những phát hiện và
khuyến nghị của đánh giá” do Tổ chức ISS thực hiện năm 2009;
- Sách “Tìm hiểu Cơng ước Lahay về ni con ni” của Cục Con nuôi
quốc tế xuất bản năm 2007.
- Sách “Pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam và một số nước trên
thế giới” của Cục Con nuôi-Bộ Tư pháp biên soạn năm 2009;

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


- Số chuyên đề của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật về Pháp luật về nuôi
con nuôi xuất bản năm 2009 và năm 2011;
- Sách hướng dẫn thực thi Công ước-Ủy ban Lahay xuất bản năm 2012.
- Tài liệu “Hội thảo Bảo đảm quyền trẻ em và thực hiện việc nuôi con
nuôi quốc tế tại Việt Nam” do Cục Con nuôi Bộ Tư pháp tổ chức tháng 1/2010.
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu, các bài viết, các diễn đàn này
mới chỉ đề cập đến các chế định về ni con ni có yếu tố nước ngồi ở Việt
Nam hoặc xem xét các nguyên tắc về hợp tác nuôi con nuôi quốc tế của Công
ước Lahay một cách riêng rẽ, thiếu sự gắn kết, liên hệ, so sánh để thấy được
những điểm tương đồng hay xung đột giữa hai hệ thống pháp luật trong nước

và quốc tế một cách tổng thể và cập nhật.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, tìm ra những điểm tương đồng và khác
biệt trong các quy định của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi quốc tế với
các nguyên tắc cơ bản và nội dung của Công ước Lahay, từ đó đưa ra những
khuyến nghị để tiếp tục hồn thiện hệ thống pháp luật về ni con nuôi trong
nước, tăng cường hiệu quả thực thi Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay
tại Việt Nam.
Với mục tiêu nêu trên, phạm vi nghiên cứu của Luận văn chỉ tập trung
vào các quy định của Luật Nuôi con nuôi, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày
21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi và
Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
con nuôi quốc tế.
Việc nghiên cứu tập trung vào khía cạnh pháp lý, có thể đối chiếu
với thực tiễn trong năm đầu tiên áp dụng Luật Nuôi con nuôi (từ 1/1/2011)
và năm đầu tiên khi Cơng ước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam (từ
1/2/2012) để làm sâu sắc hơn những điểm còn bất cập trong các quy định

8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


của pháp luật hiện hành và từ đó nhấn mạnh u cầu cần tiếp tục hồn thiện
theo hướng hài hịa hơn với quy định của Công ước Lahay và mang tính
khả thi cao hơn trong thực tiễn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, những tư tưởng chủ đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong

đó, một số phương pháp nghiên cứu cụ thể được vận dụng bao gồm: phương
pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, diễn dịch, quy nạp, trích dẫn... để đạt được
mục tiêu nghiên cứu đề ra.
5. Những đóng góp, ý nghĩa của Luận văn
Thơng qua việc trình bày một cách logic và khái quát về những quy
định của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế của Việt
Nam trong mối tương quan với các nguyên tắc, yêu cầu cơ bản của Công ước
Lahay, luận văn sẽ làm sáng tỏ những điểm tương đồng, những điểm còn bất
cập trong các quy phạm pháp luật hiện hành, từ đó thấy được những thuận lợi,
khó khăn trong quá trình thực thi Luật Ni con ni và Cơng ước Lahay tại
Việt Nam. Trên cơ sở những bất cập đó, luận văn sẽ đề xuất những giải pháp
mang tính khả thi để hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước về nuôi con
nuôi quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả thực thi Luật Nuôi con nuôi và Công
ước Lahay trong những năm tiếp theo, góp phần tích cực cho cơng tác bảo vệ
trẻ em nói chung, bảo vệ những trẻ em được cho làm con ni quốc tế nói
riêng trên nền tảng của tư tưởng nhân đạo.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngồi những phần chung như Lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm ba phần chính như sau:

9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chƣơng 1: Khái quát chung về quy định của pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực ni con ni có yếu tố nƣớc ngồi
1.1. Khái niệm về ni con ni có yếu tố nước ngồi
1.2. Ngun tắc giải quyết ni con ni có yếu tố nước ngồi
1.3. Điều kiện đối với người nhận con nuôi và người được cho làm con ni

1.4. Trình tự, thủ tục giải quyết ni con ni có yếu tố nước ngồi
1.5. Cơ quan quản lý nhà nước về ni con ni có yếu tố nước ngồi
1.6. Hệ quả pháp lý của việc giải quyết con nuôi có yếu tố nước ngồi
Chƣơng 2: Nhƣ̃ng tiế n bơ ̣ và ha ̣n chế của pháp luâ ̣t Viêṭ Nam so với
quy đinh
̣ của Công ƣớc Lahay
2.1 . Khái quát chung về công ước Lahay
2.2. Những khuyến nghị của Ủy ban Lahay
2.3. Những điểm tương đồng và bất cập của pháp luật Việt Nam so với
quy định của Công ước Lahay
Chƣơng 3: Thƣ̣c tra ̣ng, giải pháp tăng cƣờng hiêụ quả thƣc̣ thi Luâ ̣t
Nuôi con nuôi và cam kết của Việt Nam khi tham gia Công ƣớc Lahay
3.1. Kết quả thực thi các quy định của pháp luật về ni con ni có
yếu tố nước ngồi thời gian qua
3.2. Những tồn tại, bất cập trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi quốc
tế theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và theo yêu cầu của Công ước Lahay
3.3. Những thách thức khi thực thi Công ước Lahay tại Việt Nam.
3.4. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực thi Luật Nuôi con
nuôi và Công ước Lahay

10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TRONG LĨNH VỰC NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƢỚC NGỒI
1.1. Khái niệm về ni con ni có yếu tố nƣớc ngồi
Ni con ni là một q trình khi một người đảm đương vai trị ni

nấng đối với một người khác, và bằng cách đó, mọi quyền hạn và trách nhiệm
của cha mẹ đẻ đã được chuyển dịch một cách ổn định lâu dài sang cho người
đảm nhận việc nuôi dưỡng. Khác với việc giám hộ hay các hệ thống khác
được xây dựng nhằm mục đích tạo điều kiện cho cơng tác chăm sóc trẻ em,
việc nhận ni nhằm thiết lập sự thay đổi bền vững về vị thế pháp lý giữa
người nhận nuôi và trẻ em được nuôi dưỡng, đồng thời đòi hỏi xã hội thừa
nhận những thay đổi đó thơng qua các hình thức cơng nhận về tơn giáo hay
pháp luật [34].
Ni con ni có lịch sử phát triển lâu dài ở Châu Âu và gắn liền với
vấn đề thừa kế của Triều đại Rom và Nhà thờ Công giáo. Dấu ấn đầu tiên về
phương diện pháp lý của hoạt động ni con ni được tìm thấy ở Bộ luật
Hammurabi thế kỷ XVIII trước Công nguyên [4]. Bộ luật đã quy định chi tiết
về quyền, nghĩa vụ của người được nhận làm con nuôi. Đế chế Rom cổ đại
cũng đã có những tài liệu ghi nhận về hoạt động nuôi con nuôi thông qua Đạo
luật Justinianus.
Trong thế giới cổ đại, ni con ni chủ yếu vì lợi ích kinh tế và chính
trị của người nhận con nuôi, đó là cơng cụ pháp lý để củng cố các quan hệ
chính trị giữa những gia đình vương giả, tạo ra người thừa kế và quản lý gia
sản. Nhiều tài liệu cũng chỉ ra rằng, người Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại cũng
có truyền thống nhận ni con ni chủ yếu vì mục đích tơn giáo và tập tục
văn hóa. Người Ấn Độ thiên về việc nhận ni con trai để thực hiện nghi lễ

11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


ma chay, trong khi đó, người Trung Quốc cổ đại chủ yếu chỉ nhận ni con
trai để duy trì việc thờ cúng tổ tiên [31].
Qua nhiều thế kỷ, việc nuôi con ni đã có sự chuyển hóa về bản chất,

từ hình thức nhận con ni trưởng thành vì mục đích có người thừa kế sang
nhận trẻ em làm con để tạo dựng gia đình, chuyển từ việc đảm bảo sự tiếp nối
của dịng họ thơng qua con ni sang mơ hình quan hệ xã hội mang cảm xúc
mãnh liệt. Từ thế kỷ XVII, việc nuôi con nuôi đã được coi như một giải pháp
đối với vấn đề của xã hội-đó là vấn đề trẻ em khơng có gia đình. Ở đâu có trẻ
em cần tìm cha mẹ thì ở đó có việc ni con ni. Xét về phương diện pháp
lý, việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con lâu dài, bền vững,
đảm bảo con nuôi được chăm sóc, giáo dục trong mơi trường gia đình. Pháp
luật của các nước trên thế giới cũng như của Việt Nam đều hướng tới việc bảo
vệ tốt nhất đối với mối quan hệ này [9].
Khái niệm nuôi con nuôi quốc tế dường như được hình thành cùng với
những hệ quả của Đại chiến thế giới thứ II và thời kỳ Chiến tranh lạnh của thế
kỷ 20. Việc tham gia chiến tranh của binh lính, thủy thủ tại các nước Châu Âu
hay Châu Á đã làm tăng đột biến số trẻ em có hai dịng máu. Bên cạnh đó, sau
Thế chiến thứ hai, số lượng trẻ mồ cơi khơng có khả năng tự chăm lo cho bản
thân đã phát sinh nhu cầu cho nhận con nuôi. Ban đầu, khái niệm cho nhận
con nuôi quốc tế gắn liền với việc nhận con nuôi của các công dân Mỹ đối với
những trẻ em khác chủng tộc trong thời kỳ này, dần dần, cùng với xu thế phát
triển chung của xã hội, khái niệm ni con ni quốc tế đã được luật hóa và
trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến trên thế giới [33, 34]. Nhìn từ góc
độ pháp lý, khái niệm nuôi con nuôi quốc tế ở mỗi nước khác nhau được quy
định khác nhau, tuy nhiên đều phản ánh hiện tượng thực tiễn khi trẻ em có
nhu cầu được chăm sóc, thường là từ các nước chậm hoặc đang phát triển,

12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


được gửi từ nước nơi mình thường trú hợp pháp đến các gia đình nhận ni

thường trú ở nước khác, thông thường là ở các nước phát triển.
Ở Việt Nam, khái niệm ni con ni có yếu tố nước ngồi hay cịn gọi
là ni con ni quốc tế-theo cách gọi quốc tế- đã có một q trình phát triển
cùng với sự hình thành và phát triển của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi. Luật Hơn nhân
và Gia đình năm 1986 lần đầu tiên đã quy định về những vấn đề liên quan tới
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi. Theo đó, quan hệ gia đình
có yếu tố nước ngồi được nêu tóm tắt: “Những vấn đề về quan hệ vợ chồng,
quan hệ tài sản, quan hệ cha mẹ và con, huỷ việc kết hôn, ly hôn, nuôi con
nuôi và đỡ đầu giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi do Hội đồng
Nhà nước quy định”-Điều 53 và “Trong trường hợp đã có hiệp định tương trợ
tư pháp và pháp lý về hơn nhân và gia đình giữa Việt Nam và nước ngồi, thì
tn theo những quy định của các hiệp định đó”-Điều 54.
Luật Hơn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2000 đã quy định chi tiết hơn
về quan hệ hơn nhân gia đình có yếu tố nước ngồi, trong đó, quan hệ hơn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi là quan hệ hơn nhân và gia đình (i)
giữa cơng dân Việt Nam và người nước ngồi; (ii) giữa người nước ngoài với
nhau thường trú ở Việt Nam; (iii) giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi hoặc
tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi (Điều 8 khoản 14).
Có thể thấy, mặc dù đã được luật hóa nhưng các quy định này vẫn
mang tính liệt kê, chưa thể hiện rõ bản chất cũng như phản ánh đấy đủ những
khía cạnh pháp lý của quan hệ ni con ni quốc tế. Chính vì vậy, nhiều văn
bản pháp lý đã tiếp tục được ban hành để hướng dẫn cụ thể hơn việc giải
quyết ni con ni có yếu tố nước ngoài như Quyết định số 145/HĐBT ngày
29/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng quy định tạm thời về việc cho người nước

13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



ngồi nhận con ni là trẻ em mồ cơi, bị bỏ rơi, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi
dưỡng do ngành lao động-thương binh và xã hội quản lý; Pháp lệnh hơn nhân
và gia đình ngày 2/12/1993 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về hôn
nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam và người nước ngồi; Nghị định số
184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hơn, nhận
con ngồi giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và
người nước ngoài; Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hơn nhân và Gia đình về quan
hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi. Cho đến năm 2010, cùng với
việc ra đời của Luật Nuôi con ni, có thể nói, lần đầu tiên khái niệm ni
con ni quốc tế đã được luật hóa một cách đầy đủ nhất, rõ ràng nhất với chi
tiết cụ thể như sau: “Ni con ni có yếu tố nước ngồi là việc nuôi con nuôi
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với
nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên
định cư ở nước ngoài”-khoản 5 Điều 3 Luật Ni con ni.
Như vậy, ni con ni có yếu tố nước ngồi (hay ni con ni quốc
tế) theo quy định của pháp luật Việt Nam được xác định trên hai yếu tố căn
bản: quốc tịch và nơi cư trú của các bên tham gia quan hệ này. Yếu tố quốc
tịch thể hiện: việc nuôi con nuôi được xác lập giữa một bên là công dân Việt
Nam và một bên là người nước ngồi. Bên cạnh đó, ni con ni có yếu tố
nước ngồi cịn được áp dụng giải quyết khi các bên tham gia quan hệ cùng
quốc tịch nhưng nơi cư trú vào thời điểm xác lập quan hệ nuôi con nuôi khác
nhau-cùng là công dân Việt Nam nhưng một bên không định cư tại Việt Namhoặc cùng là cơng dân nước ngồi nhưng đang thường trú ở Việt Nam.
Với quy định hiện hành, chủ thể tham gia quan hệ ni con ni có yếu
tố nước ngồi của Việt Nam có phạm vi áp dụng tương đối rộng so với một số
nước cho trẻ em khác (Nước gốc). Ví dụ, Bộ luật Gia đình năm 2007 của Liên

14


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Bang Nga quy định nuôi con nuôi quốc tế chỉ dựa vào yếu tố quốc tịch, cụ thể
là: nuôi con nuôi quốc tế là việc nhận trẻ em là công dân Nga làm con ni
của người nước ngồi hoặc người khơng có quốc tịch, hoặc việc cơng dân
Nga nhận trẻ em nước ngồi làm con ni (Điều 165). Luật Con nuôi của
Guatemala năm 2007 quy định nuôi con nuôi quốc tế chỉ dựa vào yếu tố nơi
cư trú, cụ thể là: con nuôi quốc tế được hiểu là việc nhận con ni theo đó trẻ
thường trú hợp pháp ở Guatemala được đưa đến một nước khác làm con nuôi
(Điều 2 khoản b). Luật Nuôi con nuôi của một số nước khác như Trung Quốc,
Thái Lan, Hàn Quốc không đưa ra khái niệm con ni quốc tế nhưng có
những quy định điều chỉnh việc nhận trẻ em Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái
Lan làm con ni của người nước ngồi. Điều này cho thấy, ở các Nước gốc,
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi thường được áp dụng dựa trên
một yếu tố hoặc là quốc tịch hoặc là nơi cư trú của các bên tham gia quan hệ
này, yếu tố nơi cư trú của trẻ em vào thời điểm xác lập quan hệ con nuôi
không được nhấn mạnh như trong quy định của pháp luật Việt Nam.
1.2. Nguyên tắc giải quyết ni con ni có yếu tố nƣớc ngồi
Với mục đích thiết lập quan hệ pháp lý lâu dài, bền vững giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi như quan hệ giữa cha, mẹ và con ruột, pháp luật về nuôi con
nuôi của Việt Nam đã được xây dựng trên những ngun tắc mang tính xun
suốt đó là phải phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về công tác bảo vệ trẻ em, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em được
nhận làm con ni và quyền lợi chính đáng của người xin nhận con ni.
Xuất phát từ mục đích nêu trên, kế thừa những ưu thế của pháp luật
ni con ni có yếu tố nước ngoài trong suốt thời gian qua, trên tinh thần nội
luật hóa pháp luật quốc tế về lĩnh vực này, các nguyên tắc giải quyết nuôi con
nuôi áp dụng cho cả việc giải quyết nuôi con nuôi trong nước hay con nuôi

quốc tế được nêu tại Điều 4 Luật Nuôi con nuôi bao gồm:

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1. Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em
được sống trong môi trường gia đình gốc.
2. Việc ni con ni phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người
được nhận làm con ni và người nhận con ni, tự nguyện, bình đẳng, khơng
phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
3. Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngồi khi khơng thể tìm được gia
đình thay thế ở trong nước.
1.2.1. Nguyên tắc thứ nhất: Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn
trọng quyền của trẻ em được sống trong mơi trường gia đình gốc
Đây là một trong những nguyên tắc được xây dựng trên cơ sở thống
nhất với nguyên tắc bảo đảm quyền được sống chung với cha mẹ của trẻ em
đã được quy định tại Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004,
đồng thời đảm bảo tính hài hịa hóa các quy định của pháp luật quốc tế liên
quan tới quyền của trẻ em mà Việt Nam đã tham gia, cụ thể như Tuyên bố của
Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc pháp lý và xã hội liên quan đến phúc lợi và
bảo vệ trẻ em- “Ưu tiên hàng đầu đối với trẻ em là phải được cha mẹ đẻ chăm
sóc”; Cơng ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em-“tin tưởng rằng, gia đình với
tư cách là nhóm xã hội cơ bản và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và
hạnh phúc của tất cả các thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ em”.
Mơi trường gia đình là mơi trường tốt nhất bảo đảm cho sự phát triển
về nhân cách, trí tuệ và vun đắp những truyền thống tương thân tương ái, gắn
bó u thương của gia đình Việt Nam cho trẻ. Trẻ em là tương lai của đất
nước, gia đình là hạt nhân của xã hội. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước đã có

nhiều chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình, đề cao vai trị gia đình,
đảm bảo cho trẻ em được ni dưỡng, chăm sóc tốt nhất ngay trong chính gia
đình gốc của mình. Khơng ai, khơng tổ chức nào có quyền tách rời trẻ em ra
khỏi gia đình gốc của mình. Những hành vi mua chuộc, mua bán hoặc bắt cóc

16

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


trẻ em, kể cả là hành vi do chính cha hoặc mẹ đẻ của trẻ em gây ra cũng sẽ bị
pháp luật trừng trị nghiêm khắc.
Đối với trẻ em không cịn cha mẹ hoặc cha mẹ ruột khơng cịn khả
năng ni dưỡng, vì lợi ích tốt nhất của trẻ, việc chăm sóc và giáo dục trẻ em
sẽ được ưu tiên chuyển giao cho họ hàng thân thích nhằm tiếp tục duy trì mơi
trường quen thuộc và an tồn nhất đối với trẻ em. Tuân thủ nguyên tắc này,
việc giải quyết cho trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi làm con ni họ hàng thân
thích như cơ, cậu, dì, chú, bác ruột hoặc cha dượng, mẹ kế sẽ được ưu tiên và
áp dụng thủ tục đơn giản và ngắn gọn hơn nhiều đối với việc cho nhận con
nuôi trong nước hoặc con ni có yếu tố nước ngồi thơng thường.
Nguyên tắc tôn trọng quyền được sống trong môi trường gia đình gốc
khi giải quyết ni con ni nói chung, ni con ni có yếu tố nước ngồi
nói riêng cịn tạo cơ hội nâng cao ý thức trách nhiệm, đề cao truyền thống lá
lành đùm lá rách của từng thành viên trong gia đình, họ hàng nội ngoại của
trẻ em. Trước khi đặt trách nhiệm chăm sóc thay thế đối với những trẻ em bị
bỏ rơi, bị mồ côi, những thành viên trong gia đình mở rộng của trẻ như cơ,
cậu, dì, chú bác, ơng bà… sẽ là những người được ưu tiên giao quyền giám hộ
đối với trẻ. Chỉ khi khơng thể tìm được thân nhân ni dưỡng, trẻ em mới
được đưa vào các cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp hoặc được giải
quyết làm con nuôi.

1.2.2. Nguyên tắc thứ hai: Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con ni và người nhận con
ni, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật
và đạo đức xã hội
Trong xã hội hiện đại có rất nhiều hình thức chăm sóc được pháp luật
quy định nhằm đảm bảo việc chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục đối với
những trẻ em có hồn cảnh khó khăn, khơng được sống trong môi trường

17

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


gốc của mình. Bên cạnh các hình thức chăm sóc thay thế như nuôi dưỡng tại
cơ sở bảo trợ xã hội, chăm sóc tại các gia đình nhận ni, cho nhận con ni
được coi là hình thức chăm sóc thay thế mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc và
có tính ưu việt vượt trội bởi nó tạo cho trẻ một mơi trường ni dưỡng ổn
định, bền chặt với tình u thương hài hịa của cha-mẹ ni và những người
họ hàng thân thích. Tuy nhiên, bất kỳ hình thức chăm sóc nào trước khi
được thực hiện hoặc được pháp luật thừa nhận đều phải đảm bảo nguyên tắc
căn bản là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em cũng như vì quyền và lợi hợp pháp
của người nhận nuôi.
So với thực tiễn giải quyết nuôi con nuôi trước đây, nguyên tắc này đã
quan tâm hơn đến lợi ích của người nhận con ni. Lợi ích tốt nhất của trẻ em
phải là mục đích, là ưu tiên hàng đầu nhưng khơng phải là duy nhất trong
quan hệ ni con ni mà cịn phải tính đến lợi ích hợp pháp của người xin
nhận con ni. Quan hệ ni dưỡng chỉ có thể phát triển tốt đẹp, bền chặt khi
cả hai bên chủ thể được bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp trên cơ sở
bình đẳng, tự nguyện. Trẻ em được nhận ni được u thương, được chăm
sóc, được giáo dục bởi cha mẹ ni, ngược lại, cha mẹ ni cũng có nhu cầu

được u thương, kính trọng, gắn bó từ đứa con mà mình đã đón nhận về. Sợi
dây tình cảm này chỉ có thể bền chặt khi cả hai cùng được pháp luật bảo vệ và
được xây dựng trên nền tảng bình đẳng và tự nguyện.
Việc đón nhận một trẻ em xa lạ về gia đình để yêu thương, chăm sóc
cho đến khi trưởng thành địi hỏi người làm cha, làm mẹ phải có nhiều kỹ
năng, kiến thức, nhất là với những gia đình khơng có khả năng sinh con vì họ
sẽ thiếu hụt những kinh nghiệm và sự nhạy bén bản năng. Chính vì vậy, việc
tư vấn, tập huấn trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho người nhận
con nuôi để họ nhận thức đầy đủ về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi khi
quyết định tham gia quan hệ ni con ni có ý nghĩa vơ cùng quan trọng,

18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


quyết định căn bản đến sự thành công của mỗi trường hợp nuôi con nuôi. Sự
tự nguyện tham gia quan hệ ni con ni chỉ có thể là kết quả của một quá
trình nhận thức đầy đủ về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cả cha mẹ nuôi
lẫn trẻ em được nhận nuôi (đối với trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên). Tự nguyện có
nghĩa là sự chấp nhận vơ điều kiện, thông suốt về tư tưởng, vui vẻ về tinh
thần, không chịu bất kỳ sự ép buộc hay bị ảnh hưởng nào (bị lừa dối, hiểu
lầm, cưỡng ép, trao đổi lợi ích…) của những người tham gia quan hệ nuôi con
nuôi. Thực tế cho thấy, thiếu sự tự nguyện, trẻ em có thể trở thành hàng hóa
của một quá trình trao đổi lợi ích, mục đích của việc ni con nuôi sẽ mất đi
bản chất nhân đạo và trở thành hành vi thiếu đạo đức, trục lợi cần phải ngăn
chặn và lên án.
Một yếu tố căn bản khác cần đặc biệt chú trọng khi giải quyết nuôi con
nuôi quốc tế đó là việc xác lập quan hệ cha-mẹ con khơng có sự phân biệt
nam nữ, phải bình đẳng, khơng được trái pháp luật và trái đạo đức xã hội. Đây

cũng là nguyên tắc chung khi xác lập các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, nguyên
tắc này đặc biệt quan trọng khi đối tượng của quan hệ dân sự là con người, là
yếu tố trung tâm của mọi vận động xã hội và là nguồn nhân lực tương lai của
mỗi quốc gia. Mục đích của việc giải quyết ni con ni là tìm một mái ấm
cho trẻ, do vậy, trẻ em mới có quyền lựa chọn những gia đình phù hợp nhất
với đặc điểm, điều kiện của mình chứ khơng phải là đối tượng để các cặp vợ
chồng lựa chọn, cân nhắc khi nhận nuôi. Xuất phát từ mục tiêu này, một trong
những điều cấm của pháp luật về nuôi con nuôi của tất cả các nước là người
xin nhận con ni khơng được lựa chọn giới tính của trẻ em. Tất cả những
người xin nhận con nuôi, không phân biệt giới tính, hồn cảnh kinh tế, nguồn
gốc gia đình, trình độ học vấn, khi đáp ứng những điều kiện luật định đều có
cơ hội bình đẳng như nhau để được giới thiệu ni một trẻ em có đặc điểm
phù hợp với nguyện vọng của mình và nhu cầu của trẻ em.

19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Việc nhấn mạnh khía cạnh hợp pháp, đạo đức xã hội trong q trình
giải quyết ni con ni là nhằm ngăn ngừa khả năng bn bán, bóc lột sức
lao động trẻ em hay lợi dụng các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với
những người có cơng thơng qua hình thức ni con ni. Cuộc sống là tổng
hịa của nhiều mối quan hệ, lợi ích. Vì vậy, khi giải quyết ni con ni, dù
xuất phát từ lợi ích của trẻ em có nhu cầu được nhận ni, các cơ quan có
thẩm quyền cũng phải suy xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính hợp pháp, tuân thủ
nghiêm túc các quy định của pháp luật, không đi ngược với truyền thống, đạo
đức xã hội. Việc nhận nuôi con nuôi trong mọi trường hợp cũng không được
làm đảo lộn ngôi thứ trong gia đình, ảnh hưởng tới thứ bậc trong quan hệ
huyết thống như ông bà không thể nhận cháu làm con nuôi, anh chị em không

thể nhận nhau làm cha/mẹ/con nuôi.
1.2.3. Nguyên tắc thứ 3: Chỉ cho làm con nuôi người nước ngồi khi
khơng thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước
Đây là một nguyên tắc mới được quy định trong Luật Nuôi con nuôi.
Nguyên tắc này vừa thể hiện sự thống nhất về tư tưởng tôn trọng quyền của
trẻ em được sống trong mơi trường gia đình gốc như đã nêu ở nguyên tắc thứ
nhất, vừa thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc chung của cộng đồng quốc tế: “mỗi
nước cần ưu tiên tiến hành các biện pháp thích hợp để trẻ em có thể được
chăm sóc trong gia đình gốc của mình”-Cơng ước Lahay năm 1993 về bảo vệ
trẻ em và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực con ni. Chỉ sau khi đã nỗ lực tìm
kiếm các gia đình nhận ni trong cộng đồng, trong địa bàn hay trên phạm vi
tồn quốc mà khơng thể thành cơng thì mới tính đến việc cho trẻ em làm con
ni người nước ngồi và phải đảm bảo rằng việc cho trẻ em làm con ni
người nước ngồi là giải pháp cuối cùng vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Để thực hiện nguyên tắc này, Luật Nuôi con nuôi cũng đã quy định đầy
đủ về trách nhiệm, trình tự thủ tục tìm mái ấm gia đình thay thế trong nước

20

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


cho trẻ em. Khi một trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, việc tiếp tục nuôi dưỡng trẻ cần
ưu tiên dành cho những người cùng sống trong cộng đồng, sau đó mở rộng
đến phạm vi tỉnh/thành và cuối cùng là tìm mái ấm gia đình người Việt Nam
nhận ni. Như vậy, yếu tố văn hóa, dân tộc, truyền thống, tập quán đã được
đặt thành những tiêu chí ưu tiên hàng đầu khi tìm kiếm gia đình ni dưỡng
thay thế đối với những trẻ em Việt Nam khơng được chăm sóc trong gia đình
gốc của mình.
1.3. Điều kiện đối với ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc cho làm

con nuôi
So với các quy định của pháp luật trước đây, cụ thể là với các quy định
của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP thì điều kiện đối với người nhận con nuôi
và điều kiện để trẻ em Việt Nam được giải quyết làm con ni người nước
ngồi có nhiều điểm mới và chặt chẽ hơn. Cụ thể là:
1.3.1. Điều kiện đối với người nhận con ni có yếu tố nước ngồi
Điều 29 Luật Ni con nuôi đã quy định rõ điều kiện đối với người
nhận con nuôi khi tham gia quan hệ nuôi con ni có yếu tố nước ngồi, trong
đó dẫn chiếu đến Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi về điều kiện của người
nhận con nuôi khi tham gia quan hệ nuôi con ni trong nước. Nói một cách
khái qt, để có thể tham gia quan hệ ni con ni nước ngồi, người xin
nhận con nuôi phải thỏa mãn các điều kiện cơ bản như sau:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.
c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc,
ni dưỡng, giáo dục con ni.
d) Có tư cách, đạo đức tốt.
Ngồi những điều kiện tối thiểu nêu trên, tùy từng đối tượng, trường
hợp cụ thể, người nhận con ni cịn phải thỏa mãn các điều kiện như sau:

21

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×