Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Xây dựng đảng, một nhiệm vụ then chốt của công cuộc đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.05 KB, 22 trang )

Xây dựng Đảng, một nhiệm vụ then chốt của công cuộc đổi mới
Trong thế giới hiện đại, vai trò của các đảng chính trị ngày càng quan
trọng. Ở bất cứ một quốc gia nào cũng có đảng chính trị cầm quyền. Đảng này
ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ đời sống xã hội, tới sự phát triển của cả một dân
tộc.
Vì vậy, chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã chỉ ra rằng, việc giai cấp vơ sản tổ
chức thành chính đảng là một tất yếu khách quan để đảm bảo cho cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) giành được thắng lợi và thực hiện được mục
tiêu cuối cùng của mình. Tuy nhiên, để đảm đương được trọng trách đó, chính
đảng của giai cấp vô sản phải là “bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công
nhân ở tất cả các nước”(1), họ phải hiểu rõ “những điều kiện, tiến trình và kết
quả chung của phong trào cộng sản”. Đảng này phải gồm “những đại biểu tiền
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”2.
Có như vậy, Đảng mới thực sự vững mạnh và “Đảng có vững cách mệnh
mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”3.
Xuất phát từ các yêu cầu ấy, Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Hồ Chí Minh và
những nhà mác-xít chân chính đều hết sức coi trọng cơng tác xây dựng Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam, do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã luôn
coi việc xây dựng tinh thần đoàn kết thống nhất trong Đảng, coi việc đấu tranh
phê phán các quan điểm sai trái, đặc biệt là tư tưởng tả khuynh và các sai lầm
khuyết điểm của cán bộ, đảng viên là một nhiệm vụ trọng yếu để củng cố Đảng,
nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của toàn dân.
Những hiện tượng tả khuynh trong thời kì 1930-1931, trong cải cách ruộng đất,
những tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nơn nóng đốt cháy giai đoạn trong thời kỳ
trước đổi mới, những sự sa sút về phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên đều
được Đảng chỉ rõ và tìm mọi cách để khắc phục.
Sự thành cơng rực rỡ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chiến thắng
oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, những thành tựu hết


sức quan trọng của công cuộc đổi mới không chỉ thể hiện đường lối chính trị


đúng đắn của Đảng mà còn thể hiện niềm tin sắt đá của dân đối với Đảng.
Khơng có niềm tin đó khơng thể phát huy được sức mạnh đoàn kết của cả dân
tộc để vượt qua vơ vàn những khó khăn, thử thách trong từng giai đoạn của cách
mạng Việt Nam.
Dân tin Đảng, đi theo sự lãnh đạo của Đảng khơng phải chỉ vì Đảng đã kết
tinh được trí tuệ của dân tộc, đại diện cho trí tuệ của dân tộc mà cịn vì các cán
bộ, đảng viên của Đảng đã chiến đấu không mệt mỏi và đã hy sinh quên mình vì
độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tấm gương vĩ đại của lãnh tụ
Hồ Chí Minh, tinh thần bất diệt của các lãnh tụ của Đảng như: Trần Phú,
Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ… và
hàng ngàn, hàng vạn đảng viên của Đảng đã khiến hàng triệu trái tim phải rung
động và cũng khiến quân thù phải khiếp sợ.
Sự kết hợp trí tuệ cực kì sáng suốt với lập trường cách mạng kiên định và
tinh thần hy sinh vô bờ bến của cả một lực lượng cán bộ, đảng viên ngày càng
đông đảo, ngày càng được tổ chức một cách khoa học đã tạo nên sức mạnh bất
diệt của Đảng.
Sức mạnh đó đã làm cho Đảng trở thành ánh sáng, niềm tin đối với mọi
tầng lớp nhân dân trong xã hội Việt Nam, đối với mọi thế hệ người Việt Nam,
tạo nên sức mạnh bất diệt của cả dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, trong mỗi bước chuyển của lịch sử lại có những sự tác động
của những điều kiện mới. Những điều kiện này tác động vào từng cán bộ, đảng
viên, vào từng tổ chức Đảng và có những địi hỏi mới về sự lãnh đạo của Đảng.
Điều đó địi hỏi Đảng phải được củng cố, được chỉnh đốn để ngang tầm với
những nhiệm vụ mới.
Trong điều kiện hiện nay, Đảng đang đứng trước những khó khăn và thử
thách lớn.
Trên thế giới, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã
tác động sâu sắc đến toàn bộ đời sống xã hội. Cách mạng khoa học và công nghệ



cùng với sự mở rộng của tồn cầu hóa vừa tạo thành thời cơ nhưng đồng thời
cũng tạo ra những thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển như Việt
Nam. Trong khi đó, trên thế giới cịn có những biến động bất lợi của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù
địch nhằm làm triệt tiêu hoàn toàn xu hướng phát triển chủ nghĩa xã hội
(CNXH).
Điều kiện trong nước mặc dù đã có những chuyển biến khá toàn diện trên
mọi lĩnh vực, nhưng do phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) nên
trình độ phát triển kinh tế-xã hội còn nhiều hạn chế. Sự phát triển của kinh tế thị
trường đã đưa lại nhiều thành tựu quan trọng nhưng mặt trái của nó cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội và đến cả cán bộ, đảng viên.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã
xác định: Xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt.
Đó là tư tưởng chỉ đạo mang tầm chiến lược, có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với công tác xây dựng Đảng và cũng là một trong những bài học thành
công của Đảng ta trong q trình đổi mới.
Hiện thực hóa tư tưởng này, Đảng đã kịp thời đề ra những chủ trương,
những giải pháp cụ thể để củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và về cán
bộ, đồng thời tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Cương lĩnh do Đại hội VII thông qua đã khẳng định những vấn đề về
nguyên tắc và bản chất của Đảng. Cương lĩnh xác định rõ Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Cương lĩnh cũng chỉ rõ tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác Lê-nin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, xác định
vai trò và phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, nhấn mạnh


yêu cầu Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình

độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo...
Nghị quyết Đại hội VII đã có những quy định cụ thể về mối quan hệ và lề
lối làm việc giữa Đảng và các tổ chức chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Nghị
quyết đã nêu rõ chủ trương chấn chỉnh tổ chức bộ máy của Đảng, phát huy dân
chủ trong nội bộ Đảng, xây dựng tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ lãnh đạo, tiêu
chuẩn cụ thể cho từng loại, từng chức danh cán bộ, đổi mới quan điểm về cán bộ
và công tác cán bộ và tăng cường quyền hạn của ủy ban kiểm tra các cấp.
Tiếp theo đó, Đảng ta ra các Nghị quyết 01-NQ/TW ngày 28-3-1992 về
công tác lý luận trong giai đoạn mới, Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 18-2-1995
khẳng định 6 định hướng lớn trong công tác tư tưởng và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác tư tưởng. Đặc biệt, hội nghị Trung ương khóa VIII,
lần đầu tiên, Đảng ta đã xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xác định các quan điểm cơ bản trong công tác cán bộ,
tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới và các nhiệm vụ, giải pháp lớn trong công
tác cán bộ.
Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII cịn đề ra chủ trương và các giải
pháp quan trọng cho một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng. Nghị quyết của Hội nghị đã nhấn mạnh yêu cầu củng cố, chỉnh đốn Đảng
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức cán bộ và phát động cuộc vận
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện phê bình và tự phê bình.
Trước những yêu cầu mới về công tác lý luận và công tác tư tưởng, Hội
nghị Trung ương 5 khóa IX lại ra nghị quyết về nhiệm vụ chủ yếu của công tác
tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Nghị quyết này đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và được triển khai
trên phương diện nghiên cứu lý luận, trong việc đổi mới nội dung và hình thức
của cơng tác tư tưởng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã đánh giá một cách khách quan
những thành tựu và hạn chế của công tác xây dựng Đảng trong 20 năm (1986-



2006). Cùng với việc khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn,
những thành tựu đã đạt được trong cơng cuộc đổi mới là to lớn và có ý nghĩa
lịch sử, văn kiện Đại hội X đã đánh giá là Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất
cách mạng và khoa học, trung thành với giai cấp và dân tộc, kiên định, vững
vàng trước mọi thử thách, sáng suốt lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng của dân
tộc ta tiến lên. Qua đó, Đảng ngày càng tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm;
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước
ta.
Tuy nhiên, văn kiện Đại hội X cũng nghiêm khắc chỉ ra những hạn chế
yếu kém của công tác xây dựng Đảng. Văn kiện đã cảnh báo về sự suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng
viên, về tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi
và tác hại của nó là làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Để khắc phục các hạn chế nói trên, các hội nghị Trung ương 3, hội nghị
Trung ương 4, hội nghị Trung ương 5, hội nghị Trung ương 6 khóa X đã ra các
nghị quyết nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, nâng
cao chất lượng của các tổ chức Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng với các tổ
chức chính trị-xã hội, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, trong những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế hiện nay
và những yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng
XHCN, công tác xây dựng Đảng vẫn đòi hỏi phải được chú trọng hơn nữa, đẩy
mạnh hơn nữa để làm cho Đảng thực sự vững mạnh và trong sạch.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã tổng kết những bài học hết sức quan
trọng về công tác xây dựng Đảng sau 20 năm đổi mới. Những bài học này cũng
được rút ra từ thực tế xây dựng Đảng qua các thời kỳ. Vì vậy, cần nhận thức sâu
sắc các bài học này và vận dụng sáng tạo vào trong quá trình xây dựng Đảng
hiện nay.
Trong bài học thứ nhất, Đảng đã nhấn mạnh phải kiên trì đổi mới, đổi mới
tồn diện nhưng phải có ngun tắc và sáng tạo. Trong quá trình đổi mới phải



kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng.
Bài học này không chỉ rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam mà còn là
bài học xương máu rút ra từ sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước XHCN trước
đây. Ở Việt Nam, nếu từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và mục tiêu chủ nghĩa xã hội, Đảng sẽ khơng cịn
là Đảng Cộng sản Việt Nam, sẽ khơng giữ được vai trị lãnh đạo đất nước, sẽ
không bảo vệ được độc lập dân tộc và lợi ích của tồn dân. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là những vấn đề
cốt tử của Đảng Cộng sản Việt Nam và cũng là của dân tộc Việt Nam. Vì vậy,
phải kiên quyết đánh bại bất kì âm mưu nào nhằm tấn cơng vào nền tảng tư
tưởng và các mục tiêu cao cả mà Đảng đã đề ra.
Các bài học cũng chỉ rõ Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
thường xuyên tự phê bình và phê bình, tăng cường đại đồn kết và thống nhất
trong Đảng, đấu tranh kiên quyết với các phần tử cơ hội.
Đặc biệt Đảng phải coi trọng việc rèn luyện đội ngũ cán bộ đảng viên, coi
trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, trọng dụng nhân tài.
Một Đảng chỉ thực sự vững mạnh khi có đội ngũ cán bộ đảng viên có đủ
phẩm chất và trí tuệ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực lãnh đạo quản
lý để đảm trách các công việc của xã hội.
Sự thiếu vững vàng về tư tưởng, sa sút phẩm chất, ý chí chiến đấu của cán
bộ đảng viên sẽ làm cho nhân dân mất niềm tin đối với Đảng. Khơng có năng
lực và trí tuệ cần thiết, các cán bộ đảng viên khơng thể hồn thành được trí tuệ
của mình. Vì vậy, vấn đề xây dựng các tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh,
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng vừa chuyên” đã được toàn Đảng
và toàn dân quan tâm.
Đảng Cộng sản Việt Nam có vinh dự lớn là được nhân dân Việt Nam tín
nhiệm giao trọng trách là người lãnh đạo, người dẫn đường cho cách mạng Việt
Nam. Vai trò to lớn của Đảng trong gần 80 năm nay không chỉ nhân dân Việt



Nam mà cả lồi người tiến bộ đều nhìn rõ. Vận mệnh của Đảng đã gắn liền với
vận mệnh của dân tộc. Vì vậy, các thế lực thù địch ln tìm mọi cách để phủ
nhận vai trị lãnh đạo của Đảng. Chúng lợi dụng những sai lầm của một số cán
bộ, đảng viên để hạ thấp uy tín của Đảng nhằm thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam
đi theo vết xe đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây. Tuy
nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được sinh ra từ một dân tộc anh hùng, đã hy
sinh không tiếc máu xương để bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Đảng đã được
chủ nghĩa Mác - Lê-nin dẫn đường, được Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
được lớn lên trong cuộc cách mạng và những cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Đảng đã trưởng thành trong cuộc đổi mới và
đã rút ra được nhiều bài học từ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Với
một đội ngũ đảng viên ngày càng đơng đảo và giàu trí tuệ, Đảng có đủ sự tỉnh
táo để nhận rõ những âm mưu thâm độc của kẻ thù, đủ sự sáng suốt để nhận rõ
trọng trách mà lịch sử và nhân dân giao phó, đủ tính nghiêm túc để sửa chữa
những thiếu sót sai lầm. Vì vậy, Đảng sẽ khơng ngừng tự đổi mới làm cho Đảng
ngày càng thực sự vững mạnh lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện bằng được mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chắc chắn Đảng
ta có đầy đủ tinh thần trách nhiệm và trí tuệ sáng suốt, để đáp ứng những địi hỏi
hết sức chính đáng nói trên. GS.TS TRẦN PHÚC THĂNG

Những lý do ban hành NQTW4 (Nguyễn Phú Trọng)
Từ trước đến nay, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến cơng tác xây dựng
Đảng. Đã có khơng ít các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư về xây dựng Đảng. Các Cương lĩnh, Văn kiện Đại hội Đảng tồn
quốc đều có đề cập đến cơng tác xây dựng Đảng; có đại hội có báo cáo riêng về
xây dựng Đảng. Chỉ tính từ Đại hội VI đến nay, BCH Trung ương đã ban hành 8
nghị quyết, Bộ Chính trị ban hành 6 nghị quyết chun đề về xây dựng Đảng.
Ban Bí thư khóa VII đã chỉ đạo tiến hành tổng kết 20 năm xây dựng Đảng thời



kỳ 1975 - 1995; Ban Bí thư khóa IX chỉ đạo tổng kết một số vấn đề lý luận và
thực tiễn 20 năm đổi mới (1986 - 2006), trong đó có phần về xây dựng Đảng.
Đã có nhiều Nghị quyết về xây dựng Đảng như vậy, tại sao lần này Trung
ương lại phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng nữa?
Theo tơi có 4 lý do:
Một là, vai trị lãnh đạo của Đảng và cơng tác xây dựng Đảng ln ln có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là bài học
lớn, là kết luận sâu sắc được rút ra qua suốt quá trình hơn 80 năm hoạt động của
Đảng ta, đồng thời cũng là lý luận khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều
đảng, nhiều nước trên thế giới. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của
Đảng ta đã khẳng định: "Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Trước kia đã như vậy, hiện nay
đang như vậy, và sau này cũng sẽ vẫn như vậy. Các đảng cộng sản và công nhân
quốc tế đã coi sự lãnh đạo của đảng cộng sản là vấn đề có tính ngun tắc, có
tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bác Hồ cũng đã từng nói, Đảng
có vững cách mạng mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền
mới chạy. Sự tan rã của Liên Xơ là do nhiều ngun nhân, nhưng có một ngun
nhân rất cơ bản chính là vì Đảng Cộng sản lúc đó đã suy thối, biến chất do
quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi; một số người lãnh đạo cấp cao của
Đảng rơi vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội hữu khuynh, mắc sai lầm về đường lối,
thậm chí phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đảng đông (21 triệu đảng viên)
nhưng không mạnh, mất sức chiến đấu nên khi tình hình xấu xảy ra đã tan rã. Có
thể nói, đây là bài học vơ cùng sâu sắc và đắt giá mà mỗi cán bộ, đảng viên
chúng ta cần phải thấm thía, ln ln khắc sâu, ghi nhớ, đừng để đi vào "vết xe
đổ" đau xót đó. Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cải cách, mở cửa cũng ln
ln khẳng định dứt khốt phải kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, và
trong những lần trao đổi với chúng ta, bạn thường nhấn mạnh khơng để bị "Tây
hóa", "tha hóa", "thối hóa". Đảng Cộng sản Cu-ba đang đổi mới từng bước theo
đường lối "cập nhật hóa mơ hình phát triển kinh tế - xã hội", cũng kiên quyết



khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên, đa
đảng. Mới đây, Đảng Cộng sản Cu-ba vừa tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc về
xây dựng Đảng. Trong thời đại ngày nay, có lẽ khơng có nước nào trên thế giới
lại khơng có đảng (dù một đảng hay nhiều đảng) hoặc một tổ chức chính trị
tương tự như đảng lãnh đạo.
Thực tế ở nước ta cho thấy, càng đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế
thị trường, mở cửa, hội nhập lại càng cần phải có sự lãnh đạo của Đảng và coi
trọng công tác xây dựng Đảng; đây là nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi
Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ
vững chắc thành quả cách mạng, nền độc lập tự chủ của Tổ quốc ta. Vào thời
điểm này, chúng ta càng cần phải khẳng định mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng,
vai trò lãnh đạo của Đảng và ý nghĩa quan trọng của công tác xây dựng Đảng.
Vừa qua, cũng có nơi này, nơi khác, lúc này lúc khác chưa phải đã nhận thức
một cách sâu sắc vấn đề này. Hoặc là chỉ nặng về công tác chuyên môn, chưa
quan tâm đầy đủ đến công tác xây dựng Đảng; hoặc là có ý nào đó xem nhẹ vai
trị lãnh đạo của Đảng, coi nhẹ cơng tác Đảng. Đây đó có người cho rằng phát
triển kinh tế thị trường, nhiều thành phần, mở cửa, hội nhập quốc tế, liên doanh,
liên kết với nước ngồi thì cần gì phải có sự lãnh đạo của Đảng. Thậm chí có ý
kiến cho rằng, hình như sự lãnh đạo của tổ chức đảng chỉ gây rắc rối thêm,
ngáng trở sự phát triển của kinh tế(?).
Hai là, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay rất to lớn, nặng
nề, khó khăn, địi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo lên cao hơn nữa, nâng sức
chiến đấu mạnh hơn nữa. Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng vừa thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011
- 2020 nhằm mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại và đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp
hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây thật sự là một cuộc vận động

cách mạng toàn diện, sâu sắc và cao cả.


Để thực hiện được các mục tiêu trên, chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng văn hóa, xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế... Phải xử
lý, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã
hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và cơng bằng xã hội; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa... So với trước đây, chưa bao
giờ đất nước ta lại triển khai xây dựng, phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế
với quy mơ rộng lớn như hiện nay. Có rất nhiều vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải
được giải đáp và giải quyết, cả về lý luận và thực tiễn; có những vấn đề tưởng
chừng như mâu thuẫn, nghịch lý.
Tình hình thế giới lại đang có những diễn biến hết sức mau lẹ, phức tạp,
khó dự báo, do có sự tranh chấp giữa các nước lớn, giữa các lực lượng; sự mâu
thuẫn, xung đột lợi ích giữa các quốc gia, các giai cấp, các dân tộc, các khu vực;
sự biến đổi khí hậu tồn cầu; sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ... Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản,
giữa phong trào hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội với các thế
lực đế quốc cực đoan, hiếu chiến đang diễn ra dưới nhiều hình thức, sắc thái
mới, rất quyết liệt. Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản chẳng những
khơng giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Cuộc khủng hoảng tài
chính, suy thối kinh tế của hệ thống tư bản chủ nghĩa những năm 2008 - 2009
chưa giải quyết xong thì lại đến cuộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ và nhiều nước
Tây Âu lan tràn từ Ai-len, Hy Lạp đến Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, I-ta-li-a...

Phong trào "Chiếm phố n" từ Niu Y-c đã lan khắp các thành phố ở Mỹ,
sang cả nhiều nước Tây Âu, Nhật Bản... Cuộc khủng hoảng nợ công này được
coi là biểu hiện của "lỗi hệ thống", phản ánh sự bế tắc của chủ nghĩa tư bản, có


thể dẫn đến cuộc suy thoái mới của chủ nghĩa tư bản, theo như nhận định và dự
báo của nhiều chun gia quốc tế. Tình hình Biển Đơng, tình hình khu vực châu
Á - Thái Bình Dương cũng đang có những diễn biến phức tạp mới...
Trong tình hình ấy, chúng ta chủ trương thực hiện một đường lối đối ngoại
độc lập, hịa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập
ngày càng sâu vào đời sống quốc tế; phải xử lý các mối quan hệ sao cho vừa
kiên định về nguyên tắc, vừa mềm dẻo, khôn khéo về phương pháp, sách lược;
vừa giữ vững độc lập chủ quyền của quốc gia, bảo vệ được chế độ chính trị,
thành quả cách mạng, vừa tạo được mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển,
xây dựng và bảo vệ đất nước, tránh được sơ hở, tránh bị mắc bẫy, thêm được
bạn, bớt được thù, quả thật là khơng đơn giản. Trong q trình chuyển đổi
phương thức quản lý kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, có nhiều việc chúng ta
phải vừa làm, vừa học, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm và chịu tác động mặt trái
của kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập. Có khơng ít vấn đề tác động trực tiếp
đến nước ta, vào cả tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của cán bộ, đảng viên, nhân
dân ta.
Ba là, bản thân Đảng, bên cạnh mặt tích cực, bản chất và truyền thống tốt
đẹp được phát huy cũng đang đứng trước nhiều yêu cầu mới và có những hiện
tượng tiêu cực, phức tạp mới. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên
có chức, có quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, cán bộ;... đất nước lại
phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, nhiều người lo lắng về Đảng, về
bản chất Đảng, lo lắng mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế tác
động vào Đảng. Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu - nghèo, có
những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi
người giàu có nghĩ giống người nghèo khơng? Nhà triết học cổ điển Đức

L.Phoi-ơ-bắc đã từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở trong
nhà tranh. Mai kia Đảng này sẽ là đảng của ai? Có giữ được bản chất là đảng
cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không?
Thực tế đã có bộ phận suy thối nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống. Có người cơng khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, làm


trái nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, thậm chí có người "sám hối", "trở cờ";
tình trạng tham nhũng, quan liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên
tắc của Đảng bị vi phạm. Đây là điều đáng lo ngại nhất và cũng là nguy cơ lớn
nhất đối với một đảng cầm quyền, như Lê-nin và Bác Hồ đã từng cảnh báo.
Chúng ta đã tiến hành công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong
nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động, làm cho Đảng ta
ngày càng tiến bộ, trưởng thành; song vẫn còn nhiều hạn chế. Các mặt khuyết
điểm, yếu kém chưa khắc phục được bao nhiêu, có mặt cịn phức tạp thêm, gây
băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tác động tiêu cực vào
sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây thực sự là những cảnh báo không
thể xem thường.
Bốn là, sự chống phá điên cuồng và quyết liệt của các thế lực thù địch,
phản động. Âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện được âm mưu cơ bản đó, các thế lực
thù địch đã áp dụng lần lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác, hết chiến
dịch này đến chiến dịch khác, rất kiên trì, kiên quyết, xảo quyệt. "Diễn biến hịa
bình" là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng của chủ
nghĩa đế quốc, là "thủ đoạn hịa bình để giành thắng lợi". Nhiều chun gia và
chính khách phương Tây cịn gọi đây là phương pháp "chuyển hóa hịa bình",
"biến đổi hịa bình", "cách mạng hịa bình" và gần đây là "cách mạng nhung",
"cách mạng màu", "cách mạng đường phố"... Trong chiến lược này, hoạt động tư
tưởng - văn hóa được họ coi là "mũi đột phá", là "cây cầu dẫn vào trận địa", là
lĩnh vực hàng đầu làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo

ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xóa bỏ hệ
tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Chính các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc đã
tổng kết: "Có những việc 100 máy bay chiến đấu không thực hiện nổi, nhưng chỉ
cần 10 sứ giả lại có thể hồn thành"; "một đài phát thanh cũng có thể bình định
xong một đất nước". Ngày nay "làn sóng điện đang thay thế thanh gươm; cây
bút là phương tiện đi vào trái tim khối óc con người"; "một đô-la chi cho tuyên


truyền có tác dụng ngang với 5 đơ-la chi cho quốc phịng"; "kích động vấn đề
dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tơn giáo là bốn địn đột phá khẩu, bốn mũi xung
kích để chọc thủng mặt trận tư tưởng chính trị".
Thời gian gần đây, các làn sóng chống đối ta về mặt tư tưởng chính trị lại
rộ lên, có lúc dồn dập. Có thể là do tình hình thế giới và khu vực có những diễn
biến mới; tình hình kinh tế - xã hội nước ta bên cạnh thành tựu lớn cũng xuất
hiện những khó khăn và thách thức mới, các tệ nạn xã hội như tham nhũng, hối
lộ, ma túy, mại dâm... tiếp tục gia tăng, sự phân hóa giàu nghèo phát triển. Tình
trạng quan liêu, mất dân chủ làm dân bất bình dẫn đến khiếu kiện đơng người ở
một số nơi phức tạp. Các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chắc mẩm đây là
cơ hội để họ dấn tới tác động, làm chuyển hóa tình hình, thay đổi đường lối ở
nước ta, cho nên họ hoạt động rất điên cuồng với nhiều thủ đoạn và sách lược
mới; vừa dùng các lực lượng, phương tiện từ bên ngoài, vừa tận dụng phát triển
lực lượng ở trong nước ta để tạo ra sự "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", chống đối
từ nội bộ Đảng ta, xã hội ta, hòng phá ta từ bên trong phá ra, làm cho "cộng sản
tự diệt cộng sản", "cộng sản con diệt cộng sản bố". Họ đang cố tìm ra và dựng
lên những "ngọn cờ" để chống ta. Một số người cơ hội chính trị, bất mãn cũng
lợi dụng các diễn đàn, các mối quan hệ để truyền bá những quan điểm sai trái
của mình, liên tiếp viết đơn thư, tài liệu vu cáo, đả kích chế độ ta, tác động vào
nhân dân, nhất là thanh niên, sinh viên, văn nghệ sĩ, trí thức...
Nội dung các quan điểm của họ vẫn là những luận điệu lâu nay các nhà tư
tưởng chống cộng đã từng nói và đã từng nhiều lần bị chúng ta phê phán, bác bỏ.

Đại thể vẫn là phủ nhận thành tựu của cách mạng; thổi phồng khuyết điểm, tồn
tại của chúng ta, bôi đen hiện thực, gieo rắc hoài nghi, phá rã niềm tin của nhân
dân và cán bộ, quy kết là do đường lối sai, sự lãnh đạo, quản lý yếu kém của
Đảng và Nhà nước. Phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
phủ định con đường xã hội chủ nghĩa, định hướng xã hội chủ nghĩa; hạ thấp vai
trò lãnh đạo của Đảng, phê phán, đổ lỗi cho Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng. Kích
động chia rẽ nội bộ, tung ra những luận điệu trong Đảng, trong Trung ương, Bộ
Chính trị có phe này, phái kia; bịa đặt, xuyên tạc lịch sử; vu cáo, bôi nhọ một số


đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, kể cả Bác Hồ, tìm mọi cách
"hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh"... Những luận điệu của các thế lực thù địch và
các phần tử phản động, cơ hội chính trị nói trên tuy khơng có gì mới, nhưng nó
được tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc
hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng
làm đội ngũ ta "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Trong bối cảnh tình hình nêu trên, nếu Đảng ta khơng giữ được bản chất
cách mạng của mình, khơng thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; khơng thống
nhất cao về ý chí, hành động; khơng trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt
chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì khơng thể đứng vững và đủ sức
lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy mà Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh
phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt,
nhiệm vụ có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng ta, chế độ ta. Và đó cũng chính là
những lý do giải thích vì sao lần này BCH Trung ương phải tiếp tục bàn và ra
Nghị quyết về xây dựng Đảng.
Đại hội XI của Đảng đã xác định chủ đề và cũng là tư tưởng chỉ đạo cho
những năm tới là phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng và đề ra yêu cầu phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo... tập trung vào 8
nhiệm vụ cơ bản có tính hệ thống, tồn diện. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ rất khó

khăn, phức tạp, phải tiến hành thường xuyên, lâu dài. Trước mắt, cần lựa chọn
một số vấn đề cấp bách nhất cần tập trung làm ngay để tạo ra được những
chuyển biến cụ thể, rõ rệt, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn và góp phần
củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hội nghị Trung ương 4 bàn
và ra Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" chính là
để đáp ứng yêu cầu đó, nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XI của Đảng phần
nói về xây dựng Đảng, thực hiện Chương trình tồn khóa của BCH Trung ương
khóa XI.
Một số vấn đề đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện nay


* TS. ĐẶNG ĐÌNH PHÚ
Học viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh
Xây dựng Đảng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng ta từ
trước tới nay. Đây là nhiệm vụ của tồn Đảng, của cả hệ thống chính trị và của
tồn dân. Tư duy của Đảng về đổi mới, chỉnh đốn đảng ngày càng được hồn
thiện.
Đổi mới Đảng là q trình thay đổi làm cho Đảng mạnh lên theo hướng
phát huy, nâng cao những nhân tố phát triển hợp quy luật; tiếp nhận, bổ sung
những nhân tố mới, tiến bộ, loại bỏ những nhân tố lỗi thời, lạc hậu; sửa chữa
những lệch lạc... Chỉnh đốn Đảng là quá trình điều chỉnh tổ chức, bộ máy, nhân
sự, mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức đảng cho phù hợp với thực tiễn; loại bỏ
những yếu tố khơng cịn tác dụng cho sự tồn tại, phát triển của Đảng. Vì vậy, đổi
mới, chỉnh đốn Đảng là quá trình điều chỉnh, thay đổi, loại bỏ những cái cũ,
khơng cịn phù hợp, tiếp nhận những cái mới, tiến bộ, làm cho Đảng phát triển
theo hướng hợp quy luật, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, uy tín và
sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo trong thời kỳ mới.
Về thực chất, đổi mới là làm cho Đảng ngày càng vững mạnh. Vì vậy, có
đổi mới thì mới xây dựng được Đảng vững mạnh, nâng cao được năng lực lãnh

đạo và sức chiến đấu của Đảng lên ngang tầm địi hỏi của cơng cuộc đổi mới.
Trong điều kiện hiện nay, xây dựng Đảng địi hỏi phái chỉnh đốn Đảng, hay nói
cách khác chỉnh đốn Đảng là nội dung cơ bản của xây dựng Đảng. Tự đổi mới,
tự chỉnh đốn Đảng chính là quy luật xây dựng tồn tại và phát triển của Đảng.
Xây dựng Đảng là nhằm đảm bảo cho Đảng luôn vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao; xứng đáng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Từ ngày thành lập đến nay,
Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng. Bước vào thời kỳ đất nước đổi


mới, công tác xây dựng Đảng càng được đặc biệt coi trọng hơn. Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là yếu tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng,
sự vươn lên mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam.
Đảng lãnh đạo đất nước, Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự
phát triển của đất nước. Trách nhiệm của Đảng, sự tin cậy của nhân dân đặt vào
Đảng đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế - xã hội nhanh và
bền vững, đúng định hướng XHCN, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong thời gian qua, trước những khó khăn, thách thức và các biến động
lớn, Đảng vẫn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu đã xác định, kiên trì đổi mới.
Đảng đã có bước phát triển về tư duy, đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi
mới đúng đắn, sáng tạo. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng, trong xã hội và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc
ngày càng được nâng cao. Cuộc vận động tự phê bình và phê bình, đẩy mạnh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi
phạm được nhân dân đồng tình.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; chậm làm sáng tỏ
nhiều vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta; trình độ
trí tuệ cịn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện còn yếu. Dân chủ trong Đảng và
trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi chưa nghiêm; sự
đoàn kết nhất trí ở khơng ít cấp ủy cịn yếu; quan hệ giữa Đảng với nhân dân có
nơi, có lúc bị xói mịn... Khơng ít tổ chức đảng yếu kém, nhất là ở cơ sở. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu
kém về phẩm chất và năng lực, thiếu tính chiến đấu...
Nhìn chung, cuộc vận động đổi mới, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê
bình trong các cơ quan, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình


trạng suy thối về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội,
giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong
một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên còn diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ
chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo,
chỉ đạo giải quyết những vấn đề nảy sinh. Cơng tác tư tưởng cịn nhiều bất cập
và thiếu tính thuyết phục, tính chiến đấu. Trình độ trí tuệ của Đảng chưa ngang
tầm; cơng tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong
công cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém;
chưa thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Chất lượng
và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ còn
nhiều hạn chế. Năng lực, hiệu quả tổ chức thực tiễn còn thấp. Việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm và lúng túng.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên có cả nguyên nhân khách quan
và nguyên nhân chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là chính. Chậm đổi
mới tư duy về xây dựng Đảng, chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí then chốt
của công tác này. Định hướng về đổi mới trong công tác xây dựng Đảng chưa đủ
rõ và còn chậm so với đổi mới kinh tế. Thiếu quy định trách nhiệm cụ thể đối

với người đứng đầu tổ chức đảng và liên đới chịu trách nhiệm đối với cấp ủy cấp
trên trực tiếp khi để tổ chức đảng yếu kém. Cơ chế, chính sách, pháp luật cịn
nhiều sơ hở. Nhiều tổ chức đảng, cấp ủy chưa dành đúng mức thời gian, trí tuệ,
cơng sức cho cơng tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Việc tổ chức thực hiện các nghị
quyết, chủ trương và xây dựng Đảng chưa nghiêm, thiếu biện pháp cụ thể, hiệu
quả; sự lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật tập trung, kiên quyết; chưa kịp thời sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm; chưa thực sự đi đầu, làm gương trong công tác đổi
mới, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; chưa
thực hiện nghiêm túc nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương và chưa thực sự dựa vào dân
để đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu ý thức tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, năng lực công tác...
Hiện nay, đổi mới, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cấp thiết, khách quan. Để
làm tốt nhiệm vụ này, cần quán triệt các vấn đề cơ bản sau:


-Về nội dung: đổi mới toàn diện trên các mặt: chính trị, tư tưởng và tổ
chức.
-Về mục tiêu: nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng ngang tầm với nhiệm vụ mới, làm trong sạch đội ngũ Đảng, đảm bảo thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị do Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X đề
ra, mà trọng tâm là phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện thắng lợi
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh; thiết thực
chào mừng đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
- Về nguyên tắc: quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đường lối đổi mới theo định hướng XHCN. Giữ
vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ
gìn sự đồn kết thống nhất của Đảng. Gắn đổi mới, chỉnh đốn Đảng với kiện
toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đồn thể chính trị - xã hội. Mạnh dạn, quyết tâm đổi mới, từ thí điểm đến
thực hiện trên diện rộng và coi trọng sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm.

- Về phương châm: gắn liền với đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trước hết với q trình thực hiện và hồn thiện các chính sách và cơ chế quản lý,
với kiện tồn hệ thống chính trị, với phong trào hành động cách mạng của quần
chúng, khơi dậy và phát huy óc sáng tạo của quần chúng với bước đi và phương
pháp thích hợp.
- Về phương hướng đổi mới, chỉnh đốn Đảng: trên tất cả các mặt chính trị,
tư tưởng và tổ chức; tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh về các mặt; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức
cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học,
ln gắn bó với nhân dân.
Sau gần 25 năm đổi mới theo nội dung đã xác định, Đảng ta đã soát xét lại
những nội dung đổi mới, chỉnh đốn Đảng, chỉ ra những thành tựu, ưu điểm, và
những hạn chế, khuyết điểm, nhất là trong lĩnh vực tư duy và đạo đức, lối sống


của cán bộ, đảng viên. Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đó, Đảng phải
tiếp tục đổi mới tư duy, cả về phương pháp tư duy, cả về nhận thức, tư tưởng với
tính chất là kết quả của hoạt động tư duy.
Để quá trình tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng phát triển đúng hướng và đạt chất lượng tốt, cần thực
hiện nghiêm túc các giải pháp cơ bản sau:
- Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng
Bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ là hai mặt khơng thể thiếu đối với một
đảng cầm quyền. Một đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng ln thể hiện rõ tính
tự quyết định một cách độc lập thái độ, hành động của mình, khơng vì áp lực
bên ngồi mà thay đổi quan điểm, đường lối. Bản lĩnh chính trị vững vàng đảm
bảo cho Đảng thực hiện đúng mục tiêu, lý tưởng; giữ vững định hướng CNXH.
Song, nếu chỉ có bản lĩnh chính trị mà thiếu trình độ trí tuệ thì Đảng sẽ gặp
nhiều khó khăn, vấp váp, sai lầm, “làm việc gì cũng khó” trong q trình lãnh

đạo đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH.
Tầm cao của trình độ trí tuệ là cơ sở để Đảng tiếp tục đề ra đường lối,
chính sách đúng đắn, sáng tạo, tránh được khuynh hướng chủ quan duy ý chí.
Đó cũng là điều kiện để Đảng có bản lĩnh chính trị độc lập, vững vàng, sáng tạo,
khơng chao đảo, lúng túng trước thách thức và sự tấn công, xuyên lạc từ các thế
lực thù địch.
Để nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng, cần: kiên định
chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXN, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn. Nâng cao chất lượng
nghiên cứu lý luận và đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, cơng tác tư
tưởng trong Đảng, nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các
cấp đổi mới nội dung, phương pháp học tập, giảng dạy lý luận trong hệ thống
Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị.
Chống suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đấu tranh bảo vệ quan
điểm, đường lối của Đảng.


- Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên.
Tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên là những nhân tố quyết định
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều
tốt”.
Mục tiêu cần đạt tới trong kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ
sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là: làm cho tổ chức cơ sở
đảng có trách nhiệm tổ chức và quy tụ được sức mạnh của toàn đơn vị hoàn
thành nhiệm vụ chính trị được giao; mỗi đảng viên thật sự tiên phong, gương
mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực
hoàn thành nhiệm vụ.
Để thực hiện được mục tiêu trên, cần khẩn trương kiện toàn hệ thống tổ

chức cơ sở đảng, nhất là các chi bộ; thể chế hóa về mặt nhà nước vai trị, chức
năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Gắn việc nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng. Đảng
viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách, Điều
lệ Đảng, các quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương. Kịp thời đưa ra
khỏi Đảng những đảng viên thối hóa, biến chất.
- Thực hiện nghiêm túc ngun tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng
cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng,
đồng thời cũng là nguyên tắc chỉ đạo q trình đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Đảng
chỉ có sức mạnh khi thực hiện đúng nguyên tắc này và gắn bó mật thiết với nhân
dân và thường xuyên tiến hành cơng tác kiểm tra, giám sát. Trong q trình triển
khai, cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau: mọi cán bộ, đảng viên có quyền bàn
bạc, tham gia quyết định các cơng việc của Đảng, đồng thời có trách nhiệm thực
hiện các nghị quyết... lãnh đạo cấp trên phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của


đảng viên và quần chúng. Xây dựng quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm
phát huy trí tuệ tập thể. Hoàn thiện quy chế kiểm tra, giám sát trong Đảng; kết
hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ
Tổ chức, bộ máy và cơng tác cán bộ có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự
phát triển của Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Tổ chức khơng hợp
lý, hoạt động chồng chéo, phân tán; công tác cán bộ chậm đổi mới, nhiều khuyết
điểm là “nguyên nhân của mọi nguyên nhân” dẫn đến sự trì trệ, cản trở bước tiến
của đất nước. Trong thời gian tới, cần tập trung vào các công việc: Sắp xếp đổi
mới tổ chức bộ máy của Đảng, đặc biệt là các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự
đảng, đảng ủy các khối ở Trung ương và cấp ủy các địa phương gắn với kiện
toàn tổ chức bộ máy của cơ quan nhà nước, đổi mới tổ chức và hoạt động của

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, đảm bảo tinh gọn, hoạt động thiết thực, hiệu
quả; khắc phục trùng lắp, chồng chéo; chức năng, nhiệm vụ không rõ... Xây
dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, nhất là đội ngũ
cán bộ kế tiếp vững vàng; có cơ chế, chính sách bảo đảm phát hiện, đánh giá,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng những cán bộ
có đức, có tài. Cụ thể hóa, thể chế hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi với phát huy trách nhiệm của
các tổ chức và người đứng đầu tổ chức trong hệ thống chính trị.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo là hệ thống các phương pháp, hình thức mà Đảng
sử dụng để tác động vào các lực lượng, các tổ chức nhằm thực hiện tốt nội dung
lãnh đạo. Như V.I.Lênin đã chỉ rõ: Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải
giải quyết những nhiệm vụ thuộc loại khác thì khơng nên nhìn lại đằng sau và sử
dụng những phương pháp của ngày hôm qua.
Hiện nay, nội dung, đối tượng lãnh đạo của Đảng đã có nhiều thay đổi, do
đó, phương thức lãnh đạo của Đảng cũng phải đổi mới. Trước hết tập trung vào
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà


nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết. Lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể
hóa thành Hiến pháp, pháp luật. Bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra
giám sát việc tổ chức thực hiện. Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay
mà phải phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể. Tạo điều kiện
để Mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động;
đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể trong
xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị; tăng cường trách nhiệm
của cán bộ, đảng viên là thủ trưởng cơ quan nhà nước. Gắn đổi mới phương thức
lãnh đạo với đổi mới phong cách và lề lối làm việc theo hướng thật sự dân chủ,

thiết thực, nói đi đơi với làm.
Để quá trình triển khai thực hiện các giải pháp nêu trên đạt chất lượng cao
nhất, cần nghiên cứu và vận dụng các bài học kinh nghiệm của đổi mới, chỉnh
đốn Đảng thời gian vừa qua:
- Đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành thường xuyên, toàn diện,
sâu rộng ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực.
- Trong đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải coi trọng cả hai mặt xây và chống
trong đó xây là chủ yếu, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và giữ gìn kỷ
luật của Đảng.
- Dựa vào dân, phát huy sức mạnh của các cơ quan quyền lực nhà nước và
các đồn thể chính trị - xã hội để đổi mới, chỉnh đốn Đảng..



×