Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN CHUYÊN đề THAY THẾ KHÓA LUẬN tốt NGHIỆP tên TIỂU LUẬN TRÒ CHƠI HÌNH THÀNH BIỂU TƯỢNG KÍCH THƯỚC CHO TRẺ mầm NON 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.42 KB, 56 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TRUNG ƯƠNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON


TIỂU LUẬN CHUYÊN ĐỀ
THAY THẾ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TÊN TIỂU LUẬN
TRỊ CHƠI HÌNH THÀNH BIỂU TƯỢNG KÍCH THƯỚC CHO TRẺ
MẦM NON

NHĨM SINH VIÊN THỰC HIỆN: NHĨM 32E
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NGUYỄN THỊ THÙY LINH
PHẠM THẢO THÙY TRÂN

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm 2022


PHIẾU CHẤM ĐIỂM BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
Nhóm: ..................................................................................................................................
.
Người
chấm: .........................................................................................................................
STT

NỘI DUNG
Đầy đủ các mục theo yêu cầu,

1

đúng qui cách, hình thức trình


bày
Nội dung cơ sở lí luận khoa

2

học, rõ ràng, phong phú, chi
tiết

3

Nội dung của các trò chơi đa
dạng, phù hợp lứa tuổi
Tổ chức trị chơi:
- Trẻ hứng thú, tích cực, chủ
động khi chơi

4

- GV tự tin, nắm vững cách tổ
chức trị chơi
- Phân tích kết quả trị chơi, rút
kinh nghiệm, hướng phát triển
trò chơi

TỔNG CỘNG

Tổng số điểm:
(Ghi bằng số và chữ)



BẢNG PHÂN CÔNG
STT

Họ và tên

1

Phan Bùi Ngọc Linh

2

Hà Huệ Xuân

3

Nguyễn Thị Ngọc My

4

Nguyễn Thị Kiều My

5

Đinh Thị Mỹ Hiền

6

Trần Thị Thương

7


Đặng Thị Thanh Hương

8

Nguyễn Thị Thúy Kiều

MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG

1
2
3
4
5
6

Phụ lục


I.

PHẦN MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài.


Trẻ em là tương lai của đất nước và Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên và vô cùng
quan trọng trong hệ thống Giáo dục cho trẻ em hiện nay .Giáo dục Mầm non là bậc
học khởi đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta. Bước đầu này nếu chúng
ta làm được tốt sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện cho học sinh các bậc học
tiếp theo. Bác Hồ đã từng nói: Giáo dục Mẫu giáo tốt mở đầu cho một nền giáo dục
tốt. Vì trẻ em những Mầm non tương lai của đất nước, Đất nước có giàu mạnh, phồn
vinh là nhờ vào thế hệ trẻ. Chính vì vậy, phải chăm sóc - giáo dục trẻ thật tốt ngay từ
khi trẻ còn ở độ tuổi Mầm non. Bác Hồ còn khuyên những người giáo viên Mầm non
Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thì trước hết phải yêu trẻ. Các
cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới ni dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng
như trồng cây non, trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì
sau này cháu thành người tốt. Cơng tác giáo viên và mẫu giáo có khác nhau, nhưng
cùng chung một mục đích đào tạo những cơng dân tốt, cán bộ tốt cho tổ quốc, cho chủ
nghĩa xã hội.. (Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, 1990. Tr 182-183)
Giáo dục mầm non hình thành những cơ sở ban đầu về nhân cách con người: đạo đức,
trí tuệ, thẩm mỹ, tình cảm tạo điều kiện cho trẻ phát triển tồn diện. Trong những năm
gần đây chương trình giáo dục mầm non đã liên tục cải cách và đổi mới về nội dung,
phương pháp để phù hợp với sự phát triển của xã hội. Đặc biệt hiện nay bậc học giáo dục
mầm non rất quan tâm đến việc đổi mới cách thức tổ chức hoạt động ở tất cả các môn
học để trẻ lĩnh hội một cách hiệu quả nhất, thông qua các hoạt động học tập và vui chơi
nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt. Hình thành biểu tượng tốn sơ đẳng cho
trẻ mẫu giáo là một mơn học vơ cùng quan trọng, nó có một vị trí đặc biệt trong việc
giáo dục trí tuệ cho trẻ, đặt nền móng cho sự phát triển tư duy, năng lực nhận biết của trẻ,
góp phần vào sự phát triển toàn diện nhân cách và chuẩn bị cho trẻ đến trường tiểu học
với những biểu tượng toán sơ đẳng, những kỹ năng như phân biệt, so sánh, phân loại,
tổng hợp, khái qt, trìu tượng hóa
Nội dung hình thành biểu tượng tốn cho trẻ trong chương trình giáo dục Mầm non gồm
có: Hình thành các biểu tượng về tập hợp, số và phép đếm; Biểu tượng về hình dạng; Biểu
tượng về kích thước; Biểu tượng về định hướng trong khơng gian. Thơng qua biểu tượng
tốn sơ đẳng đã được hình thành ở trẻ từ rất sớm đặc biệt là những biểu tượng về kích

thước. Tuy nhiên, kích thước của bất kỳ vật thể nào đều được phản ánh khái qt bằng hình
dạng nào đó như: cây cao- thấp. bát to- nhỏ, khăn rộng- hẹp, dây dài- ngắn

Các hình dạng có kích thước khác nhau đóng một vai trị rất to lớn trong việc nhận biết
kích thước các vật thể. Vì vậy việc cho trẻ làm quen với các hình dạng khác nhau dạy cho
trẻ phân biệt, nhận biết nắm được một số dấu hiệu đặc trưng của các vật là rất quan trọng.
Mặt khác, việc cho trẻ nhận biết kích thước của các vật thể cịn giúp trẻ thấy được sự
phong phú, đa dạng và vẻ đẹp của thế giới đồ vật xung quanh trẻ. Hơn nữa, những kiến
thức về kích thước của vật thể là phương tiện giúp trẻ định hướng dễ dàng hơn trong môi
trường xung quanh trẻ.


Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội khả năng nhận thức của trẻ cũng phát triển
nhanh hơn, trẻ rất thơng minh, sáng tạo vì vậy nhu cầu khám phá thế giới xung quanh
của trẻ ngày càng cao. Trong khi đó, những kiến thức mà thực tiễn cuộc sống đem lại cho
trẻ chưa đầy đủ và chính xác nên chưa thỏa mãn được nhu cầu của trẻ. Do đó, việc cung
cấp cho trẻ những tri thức cần thiết một cách đầy đủ và hệ thống có ý nghĩa rất lớn trong
sự phát triển trí tuệ cũng như trong đời sống của mỗi đứa trẻ. Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo
hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động vui chơi vì vậy thơng qua các trị chơi giúp trẻ
thỏa mãn nhu trẻ, giúp trẻ củng cố kiến thức, củng cố kỹ năng phát trển khả năng sáng
tạo. Tạo cho trẻ môi trường hứng thú học tập chơi mà học, học mà chơi, vừa chơi cung
cấp đầy đủ trọn vẹn kiến thức cần truyền đạt, Vì vậy, nhóm chúng em chọn đề tài: Trị
chơi hình thành biểu tượng tốn ban đầu về kích thước cho trẻ mầm non
2.

Vai trị của Toán học đối với trẻ MN.

Trong cuộc sống hàng ngày
Qua các kết quả đã nghiên cứu và thực tế cuộc sống hàng ngày, các nhà nghiên cứu đã
chứng tỏ trẻ em có khả năng nhận biết một số biểu tượng tốn học và cần thiết được

hình thành một số biểu tượng toán ngay từ lứa tuổi mẫu giáo.
Thực tế cho thấy, một số biểu tượng tốn được hình thành ở trẻ từ rất sớm. Chẳng hạn:
trẻ 4-5 tháng tuổi đang khóc, nghe tiếng mẹ gọi thì khơng khóc nữa phải nghiêng đầu
về phía có tiếng gọi.
Trẻ 3-4 tuổi khi thấy người lớn cầm một túi kẹo mẹ đưa cho 2-3 chiếc thì khơng lấy và
địi cả túi, vì trẻ hiểu “cả túi nhiều hơn 2-3 chiếc”. Hay khi ăn cơm trẻ biết tìm 2 chiếc
đũa, khi đi giày dép biết tìm đủ hai chiếc mặc dù hai chiếc khơng cùng một đơi điều đó
chứng tỏ trẻ có hiểu biết về toán từ rất sớm, song tất cả những hiểu biết ấy là do phản
xạ tự nhiên của cơ thể hoặc do trẻ bắt chước người lớn. Đó là kết quả của việc “tri giác
trực tiếp” của các cháu thông qua các hoạt động hàng ngày còn việc hiểu thấu đáo,
vững chắc và có hệ thống các khái niệm đó thì chưa có.
Mặt khác do sự tiếp xúc với mơi trường xung quanh cịn ít, vốn ngơn ngữ cịn nghèo
nàn, sự hiểu biết còn hạn chế, trẻ chưa hiểu được ý nghĩa của các từ ngữ toán học nên
diễn đạt thương khơng chính xác. Chẳng hẹn có 3 chiếc bánh và 6 chiếc kẹo thì trẻ
thường nói “bánh nhiều hơn kẹo”. Biểu tượng “nhiều hơn” của trẻ ở đây là để chỉ sự
“nhiều hơn” về kích thước chứ khơng phải nhiều hơn về số lượng. Hay khi so sánh 2
sợi dây, 2 cái cây, thay cho việc nói “dây màu xanh dài hơn dây màu đỏ”, “cây hoa


vàng cao hơn cây hoa trắng” trẻ thường nói “dây xanh to hơn dây đỏ”, “cây hoa vàng
to hơn cây hoa trắng”.
Những ví dụ trên chứng tỏ chỉ bằng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân trẻ
không thể hiểu và diễn đạt đúng các biểu tượng toán học. Vì vậy, việc hình thành các
biểu tượng tốn học cho trẻ mẫu giáo là rất cần thiết đối với trẻ. Nó giúp trẻ giải quyết
được một số khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, giúp trẻ làm quen với thế giới xung
quanh, nhận thức được các thuộc tính, các đặc điểm của những đồ vật xung quanh trẻ.
Ví dụ: nhìn bức tranh vẽ chiếc ôtô trẻ nhận ra đầu xe và thùng xe là hình chủ nhật bánh
xe là hình trịn.
Qua khảo sát đường bao cát hình và đăng hình trẻ biết được: bánh xe, bánh ô tô, bánh
tàu hỏa phải làm bằng hình trịn thì mới lăn được.

Hoặc khi cần xếp một hình vng, thay cho việc lấy các que tính bất kỳ để xếp hình,
nếu chưa được hình vng lại chọn quen tính khác để xếp, đến bao giờ được hình
vng thì thơi bằng việc trẻ chọn ngay bốn que tính dài bằng nhau để xếp hình vng.
Việc hình thành các biểu tượng tốn học cịn giúp trẻ diễn đạt chính xác, đầy đủ và
ngắn gọn các ý nghĩ mong muốn của trẻ. Vì vậy khi cơ hỏi “nhà cháu có mấy người”.
Thay cho việc đọc tên lần lượt những người trong gia đình, trẻ chỉ cần trả lời “nhà
cháu có 4 người”. Một câu trả lời ngắn gọn đúng yêu cầu của câu hỏi.
Mặt khác khi có một số biểu tượng tốn học thì trẻ học các môn khác dễ dàng hơn,
hiểu đầy đủ sâu sắc hơn, mở rộng sự hiểu biết về các mối quan hệ trong mơi trường
xung quanh.
Ví dụ: khi có biểu tượng về số đếm, hình dạng, kích thước, khơng gian.
-

Học giáo dục thể chất trẻ biết quay về phía phải, phía trái một cách chính xác.

-

Học làm quen với mơi trường xung quanh trẻ biết phân biệt các đối tượng: đây là các

con vật sống trong rừng, còn đây là các con vật trong gia đình. Đây là các loại quả một
hạt, còn đây là các loại quả nhiều hạt
Hoặc cuối buổi học trẻ có thể kể “con biết năm loại rau mùa hè”, “con biết bốn loại
quả nhiều vitamin A”
Qua các ví dụ trên chúng ta thấy trẻ ở lứa tuổi mầm non có khả năng nhận biết các
biểu tượng tốn học, những biểu tượng tốn đó rất cần thiết đối với trẻ và cần được các


cơ hình thành đầy đủ, đúng, kịp thời, phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhận thức
nhằm giúp trẻ phát triển trí thơng minh và đảm bảo cho sự thích nghi với cuộc sống
hàng ngày.

Trong giáo dục tồn diện
a. Góp phần phát triển trí tuệ.
Đặc điểm của trẻ mẫu giáo: “nhận thức bằng cảm tính, tư duy trực quan hình tượng là
chủ yếu” và đặc điểm hình thành các biểu tượng tốn là “trẻ nhận biết thơng qua hoạt
động” dưới sự tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra của cô giáo. Mỗi biểu tượng trẻ đều đi từ
nhận biết, gọi tên dựa vào dấu hiệu bên ngồi sau đó cùng với các hoạt động trẻ đối
chiếu, so sánh, phân tích, khái quát để đi đến nhận biết được các dấu hiệu đặc trưng
cho từng biểu tượng.
Khi các biểu tượng đã được hình thành, trẻ vận dụng thực hành và đối chiếu với
thực tế xung quanh.
Ví dụ: để hình thành biểu tượng hình vng, ở trẻ 3-4 tuổi cơ cho trẻ chọn hình
theo mẫu, gọi tên hình và chọn hình theo tên gọi. Đến 4-5 tuổi cơ cho trẻ khảo sát
hình bằng cách sờ đường bao của hình và đăng hình để trẻ thấy hình vng có
đường bao thẳng và khơng lăn được. Sau đó cơ cho trẻ xếp hình vng bằng các
q tính và hoạt động sếp hình trẻ đếm số que tính. Từ đó trẻ nhận biết được: hình
vng xếp bằng 4 que tính dài bằng nhau.
Kết hợp việc nhận biết hình dạng của hình vng bằng các loại vật liệu khác để trẻ
nhận biết đầy đủ và tổng qt hơn về biểu tượng hình vng: “Hình vng là một
hình có 4 cạnh dài bằng nhau”.
Thực tế đó cho thấy việc hình thành các biểu tượng tốn học cho trẻ mẫu giáo đã
góp phần hình thành và phát triển hoạt động nhận thức cho trẻ, giúp trẻ chuyển từ
tư duy trực quan hành động sang tư duy trực quan hình tượng rồi đến tư duy logic.
-

Góp phần hình thành khả năng nhận thức thế giới xung quanh và giúp trẻ tìm

được sự liên hệ giữa các biểu tượng tốn và thế giới xung quanh.
Ví dụ: biểu tượng hình chủ nhật giúp trẻ nhận thức được tờ giấy, mặt bàn, cửa sổ…
Là những đồ vật rất khác nhau nhưng chúng đều có hình dạng là hình chữ nhật.



-

Góp phần hình thành và rèn luyện các thao tác tư duy: so sánh, phân tích, tổng

hợp, khái qt hóa…
-

Góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo do vốn hiểu biết cịn ít,

vốn ngơn ngữ nghèo nàn trẻ chưa hiểu do vốn hiểu biết còn ít, vốn ngôn ngữ nghèo
nàn, trẻ chưa hiểu được ý nghĩa của các từ ngữ tốn học do đó trẻ thường nói khơng
đúng. Vì vậy khi hình thành các biểu tượng tốn học, bên cạnh việc giúp trẻ nói
đúng câu, đủ ý thì điều quan trọng là đã cung cấp cho trẻ vốn từ và các biểu tượng
toán học, giúp trẻ hiểu và biết diễn đạt các từ đó phù hợp với thực tế.
Ví dụ: Khi so sánh hai bút chì thay cho việc nói “bút chì xanh to hơn bút chì đỏ”, biết
nói bút “chì xanh dài hơn bút chì đỏ”.
-

Góp phần phát triển và thúc đẩy các q trình tâm lý ở trẻ như: ghi nhớ, chú ý, tưởng

tượng….
b. Góp phần giáo dục đạo đức, thẩm mỹ
Hình thành các biểu tượng tốn học cho trẻ mẫu giáo khơng phải chị giúp các em
nhận thức được một số kiến thức tốn học mà trong đó q trình tổ chức trẻ hoạt
động dưới nhiều hình thức: cá nhân, tổ, nhóm, cả tập thể với những phương tiện
khác nhau: vẽ, cắt, nặng, xé, dán, xếp hình, phân chia nhóm, phân loại các đồ vật…
Những hình thức và phương tiện hoạt động đó đã góp phần giáo dục trẻ ý thức tổ
chức kỷ luật, tính kiên trì, lịng ham hiểu biết, sáng tạo, biết đồn kết giúp đỡ lẫn
nhau để hình thành ý thức tập thể trong cộng đồng. Đó là những đức tính rất cần

thiết để trẻ học tốn sau này.
Ví dụ: khi học chia một nhóm 7 đối tượng làm 2 phần, cô yêu cầu “mỗi tổ cử 7 bạn
ra chơi và hãy chia các bạn trong nhóm làm hai phần sao cho cách chia các tổ
không giống nhau”.
Trước yêu cầu đó của cơ giáo, trước hết trong mỗi tổ các cháu phải thảo luận để cử
ra 7 bạn chơi sau đó trong 7 bạn được chọn lại thảo luận để tìm cách chia cho nhóm
mình và thảo luận xem mỗi nhóm gồm mấy bạn là những bạn nào.
Nếu các nhóm trước có khách kia giống của mình thì các cháu lại tiếp tục thảo luận
tìm cách chia mới và điều chỉnh các bạn trong nhóm cho phù hợp.


Mặt khác thơng qua các hoạt động cịn giúp trẻ khơng phải chỉ biết thưởng thức cái
đẹp mà cịn biết tạo ra cái đẹp.
Ví dụ:
-

Khi có biểu tượng một-nhiều, dài-ngắn đã giúp trẻ vẽ ơng mặt trời có nhiều tia

nắng là những đoạn thẳng có độ dài khác nhau xung quanh.
-

Khi có biểu tượng về hình dạng, chơi xây dựng trẻ biết xếp hàng rào bằng những

hình tam giác đen kẻ sửa hình vng, hình chữ nhật với hình tam giác cho đẹp. Như
vậy việc hình thành các biểu tượng tốn học đã góp phần giáo dục tồn diện cho
trẻ.
Chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông
A. Chuẩn bị một số biểu tượng toán học ban đầu
Nhận biết và phân biệt được 10 số đầu: Biết đếm, thêm, bớt, phân chia một nhóm
các đối tượng làm hai phần trong phạm vi 10 thành thạo.

Phân biệt, gọi đúng tên, nắm được một số dấu hiệu đặc trưng của bác hình hình học
quen thuộc.
Nắm được kỹ năng so sánh các đối tượng về chiều dài, bề rộng, chiều cao, độ lớn.
Hiểu và diễn đạt các mối quan hệ này. Biết đo độ dài các đối tượng thành các thước
đo quy ước.
Biết định hướng trong khơng gian về các phía: trên- dưới, phải- trái, trước- sau.
b. Chuẩn bị tâm thế cho trẻ
Trường phổ thơng và trường mẫu giáo là hai mơi trường có chế độ sinh hoạt, học tập
và các mối quan hệ khác nhau khá nhiều đối với trẻ mẫu giáo.


trường mẫu giáo chơi là hoạt động chủ đạo, trẻ học bằng chơi. Thơng qua các

hoạt động, các trị chơi dưới sự hướng dẫn của cô giáo, trẻ tiếp thu các tri thức một
cách chủ động, tự giác khơng có sự bắt buộc. Thời gian một tiết học thường là ngắn
(từ 25-30 phút). Cô không giảng như ở trường phổ thông mà chủ yếu là thơng qua
các trị chơi, hoạt động giúp trẻ lĩnh hội tri thức. Đặc biệt quan hệ giữa cô và trẻ là
mối quan hệ “cô là mẹ và các cháu là con” nên cô thường dỗ để mà dậy chứ không
phải giảng dạy.


-Con ở trường phổ thông, hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo và bắt buộc đó là
hoạt động nhận thức để tiếp thu tri thức khoa học, việc học và chơi được phân định
rõ ràng: học ra học, chơi ra chơi. Đặc biệt đối với mơn tốn, nếu ở trường mẫu giáo
chị sử dụng phương pháp hoạt động với đồ vật để hình thành một số biểu tượng
tốn học thi ở trường phổ thông giáo viên bắt đầu dạy các em các khái niệm tốn cơ
bản theo trình tự logic với nội dung được quy định sẵn trong chương trình; hằng
ngày đều có kiểm tra bài cũ, giảng bài mới, ôn tập, kiểm tra. Trong các giờ học trẻ
phải tiếp thu các yêu cầu của giáo viên, phải độc lập tư duy, tự tìm ra cách giải
quyếtCác yêu cầu đó trong q trình học tập. Quan hệ giữa giáo viên và học sinh là

quan hệ giữa người dạy và người học, cả hai đều có trách nhiệm đối với xã hội.
Trách nhiệm đó thể hiện ở các điểm số trẻ đạt được hằng ngày, đó là kết quả giảng
dạy của thầy và thu nhận kiến thức của trò. Vì vậy trong lứa tuổi mẫu giáo, đặc biệt
là ở lớp 5-6 tuổi cơ giáo cần giúp trẻ có ý thức hơn về những hành vi của mình;
giúp trẻ nhận lấy trách nhiệm của mình trong hoạt động học tập, ý nghĩa của kết
quả học tập đối với cuộc sống mỗi trẻ…
-Trong các sự hình thành các biểu tượng tốn cơ nên tăng cường các trị chơi có
luật, đặt ra nhiều câu hỏi cho cá nhân, tập thể dưới dạng nội dung các bài toán so
sánh, thêm, bớt, chia phần… làm cơ sở để trẻ chuẩn bị học các phép tốn cộng, trừ
khi ở lớp một. Thơng qua các trị chơi, các hoạt động đó đã giúp trẻ rèn luyện thói
quen nhanh nhẹn, khẩn trương, gọn gàng, ngăn nắp, có ý thức tổ chức kỷ luật trong
công việc đồng thời động viên, khích lệ tính độc lập trong tư duy, bồi dưỡng lịng tự
tin, kiên trì và có chí hướng ở trẻ. Từ đó giúp trẻ có ý thức trong mỗi hoạt động của
bản thân, khẳng định trách nhiệm của các cháu trước người lớn. Đó là những phẩm
chất rất cần thiết cho các cháu khi vào học toán ở lớp một


Theo nghiên cứu từ giáo sư của Đại học California, kĩ năng toán học từ nhỏ là một
trong những yếu tố tốt nhất để dự đốn thành cơng của trẻ trong trường lớp khi lớn
lên.Việc hình thành các biểu tượng toán từ nhỏ; giúp các bé làm quen với thế giới
xung quanh; giải quyết được một số khó khăn trong cuộc sống hằng ngày; đồng thời
giúp trẻ diễn đạt dễ dàng hơn với ngơn ngữ nói.Học tốn giúp các bé phát triển trí tuệ,
tư duy; hình thành khả năng nhận thức thế giới xung quanh; rèn luyện


các thao tác tư duy: so sánh, phân tích, tổng hợp, khái qt hóa… Góp phần phát
triển ngơn ngữ: cung cấp vốn từ về các biểu tượng toán cho trẻ.Từ đó cũng góp
phần giáo dục đạo đức, thẩm mỹ; ý thức lao động ngay từ khi còn bé ở trẻ. Vì vậy
hình thành các biểu tượng tốn cho trẻ từ lứa tuổi mầm non là rất cần thiết.
-


Phát triển tư duy logic, năng lực phân tích:Tốn học dạy sự logic và trật tự. Tư duy
logic và năng lực phân tích của một đứa trẻ được xây dựng trong các lớp học Tốn có
thể ứng dụng vào các trường hợp cuộc sống hàng ngày. , có tư duy mạch lạc, biết phân
tích vẫn đề để đưa ra được những phương án tối ưu cho cơng việc và bản thân.

-

Tốn học dạy kỹ năng sống:Thật khó để sống một cuộc sống độc lập nếu khơng có kỹ
năng Tốn học cơ bản. Trẻ cần biết về các con số, phần trăm, phân số để có thể quản
lý tiền bạc của mình, cần nắm được những cơng thức quan trọng để tính tốn và sử
dụng ngân sách một cách hợp lý. Ví dụ khi trẻ được cho một khoản tiền để tiêu trong
vòng một tuần, trẻ sẽ cần biết tính xem mình sẽ tiêu thế nào, mua những gì với cơng
dụng ra sao để có thể tiết kiệm tối đa số tiền đang có. Nếu khơng có kỹ năng tính tốn
cơ bản, trẻ thực sự sẽ khó xoay sở nếu như trẻ bắt buộc phải tự lập trong hồn cảnh
nào đó.

-

Rèn luyện khả năng suy luận, quan sát, giải quyết vấn đề:
Đối với mỗi một bài Toán, trẻ cần vận dụng, suy luận và kết hợp nhiều phương án để có

thể đưa ra kết quả cuối cùng. Khi một đứa trẻ học tốt Toán, trẻ cũng sẽ biết rằng nếu
muốn giải quyết một vấn đề khó khăn bất kỳ trong cuộc sống, trẻ sẽ cần phải bình tĩnh,
suy nghĩ mạch lạc và rõ ràng để tìm ra phương án tối ưu và mang lại kết quả tốt. Đây là
kỹ năng vô cùng tốt đối với mỗi đứa trẻ nếu muốn thành công trong học tập và cuộc
sống.
-

Tăng cường tính linh hoạt của trí não, nâng cao chỉ số IQ:


Tốn học thực sự có thể làm được điều này. Việc vận dụng trí não cho những bài Tốn
khó sẽ kích nơ-ron thần kinh của trẻ, giúp trẻ thông minh hơn. Sử dụng nhiều lối suy nghĩ
khác nhau để giải Tốn giúp trí não trẻ ln được linh hoạt, nhanh nhẹn, theo đó sẽ nâng
cao chỉ số IQ của trẻ.
3. Vai trò của trò chơi đối với trẻ MN.


-

Lứa tuổi mầm non là giai đoạn phát triển quan trọng trong sự phát triển say này của

trẻ nhỏ. Những năm đầu đời này vô cùng quan trọng, trong việc hình thành và phát
triển năng lực của trẻ.Mắt khác Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ, hoạt động
không thể thiếu được ở mọi lứa tuổi đặc biệt là ở lứa tuổi mầm non. Qua chơi hình
thành cho trẻ óc tưởng tượng sáng tạo, phát triển ngôn ngữ và tăng cường khả năng
nhận thức mà còn giúp trẻ thể hiện năng lực, kỹ năng, tình cảm nguyện vọng và mối
liên hệ với những người xung quanh.
-

Chơi là hoạt động tự lập của trẻ chơi không nhằm tạo ra sản phẩm ( kết quả vật chất)

mà chủ yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu được chơi của trẻ được bắt chước làm người lớn của
trẻ chơi của trẻ không phải là thật mà là giả vờ nhưng sự giả vờ ấy của trẻ lại mang tính
chất chân thực. Động cơ chơi của trẻ không nằm trong kết quả chơi mà nằm ngay trong
bản thân hành động chơi. Trị chơi thốt khỏi những phương thức hành động bắt buộc
hay nói cách khác, nó mang tính tự do và tự nguyện, trị chơi là hoạt động tự lập của trẻ
trẻ tự lựa chọn trị chơi, bạn chơi và tìm kiếm các phương tiện để thực hiện dự định chơi
của mình, Nếu như trong hoạt động học tập và lao động, nhân tố dạy dỗ chủ yếu thuộc về
người lớn thì trị chơi được quan niệm như một hình thức của tính tự lập mang tính tích

cực của trẻ em. Trong trị chơi, trẻ em có thể tự mình lựa chọn ra chủ đề và mở rộng chủ
đề theo những hướng khác nhau. Bằng những phương tiện phù hợp và vừa sức với mình,
trẻ em vận dụng những tri thức, kỹ năng kỹ xảo vốn có để giải quyết các nhiệm vụ đã đặt
ra trong trò chơi
-

Chơi và trò chơi mang lại niềm vui cho trẻ một ý nghĩa đặc biệt nó chính là người bạn

đường của tuổi thơ ấu, trong trò chơi đứa trẻ được sống hết mình và dấu vết tuyệt vời đó
sẽ lắng động sâu sắc trong tâm hồn chúng hơn cả dấu vết của cuôc sống hiện thực. Với
sức mạnh như vậy, trò chơi trở thành một phương tiện giáo dục phù hợp với đặc điểm
khả năng của trẻ.
-

Chơi giữ vai trò là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non. Chơi mà trung tâm là trị chơi

đóng vai có chủ đề chính là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo bởi nó gây ra những biến
đổi về chất, tạo ra những nét tâm lý mới có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và
phát triển tâm lí nhân cách của trẻ mẫu giáo, đồng thời chơi là tiền đề cho hoạt động học
tập ở lứa tuổi tiểu học


Trị chơi ln giữ một vị trí đặc biệt, nó chiếm ưu thế so với các hình thức hoạt động
khác. Vào lúc 3 tuổi, trẻ có ý thức về “cái tơi” của mình, bắt đầu phân biệt được minh với
người khác, điều này giúp trẻ có thể đóng vai người khác mà hành động tương đương
tương ứng với vai mình đảm nhận. Hơn nữa, từ 3 tuổi trở đi, trẻ có thể hành động thành
thạo với đồ vật, đồ chơi và tính tự lập của trẻ cao hơn trước, nhu cầu giao tiếp với bạn bè
ngày càng tăng, ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ. Ốc tưởng tượng sáng tạo và tư duy
cũng đã có những bước nhảy vọt về chất so với trẻ dưới 3 tuổi. Tất cả những điều kiện
trên làm cho trẻ mẫu giáo muốn được hành động như người lớn, muốn hòa nhập vào các

mối quan hệ đa dạng, phức tạp của người lớn, song trên thực tế, trẻ còn non nớt và chưa
đủ sức để làm người lớn. Để giải quyết mâu thuẫn giữa ước muốn, trẻ giả vờ chơi làm
người lớn, tái tạo lại những hành động cũng như những quan hệ và thái độ giữa người lớn
với nhau và cứ như thế, hoạt động chơi mà trung tâm là trị chơi đóng vai trị chủ đề xuất
hiện ở lứa tuổi mẫu giáo
.

Thơng qua trò chơi, trẻ học cách ứng xử giữa mọi người với nhau trong lao động và

sinh hoạt hàng ngày, học được cách thiết lập mối quan hệ với mọi người, với bạn bè.
Trong khi chơi, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ biết hợp tác cùng nhau, tính tự lập cũng
ngày được phát triển, đặc biệt động cơ “thứ bậc” của trẻ được hình thành. Trẻ học cách
nhận xét đánh giã lẫn nhau và sau đó biết tự nhận xét đánh giá về mình.... Tất cả những
điều này tạo ra nét tâm lý mới đặc trưng cho độ tuổi mẫu giáo. Theo A. Vallon, trị chơi
có một ý nghĩa rất lớn đối với trẻ em. Trò chơi giống như niệm vui sướng hay là sự hứng
thủ; trong trò chơi, các chức năng tâm lý được phát huy hết khả năng của mình. Nhờ có
trị chơi, các q trình tâm lý cũng như một số phẩm chất tâm lý của trẻ ngày càng được
phát triển. Điều này giúp trẻ thuận lợi, dễ dàng hơn khi vào học lớp một.
Chơi đóng vai trò là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ mẫu giáo. -27%
619% KIM Các nhà giáo dục mầm non khi bản về vai trò, ý nghĩa của chơi đều cho rằng,
chơi là phương tiện giáo dục hiệu quả đối với trẻ mẫu giáo. Nhà giáo dục nổi tiếng người
Séc Jan Amos Komensky đã xem chơi như một hoạt động hết sức cần thiết của trẻ, là
phương tiện giáo dục và phát triển ngôn ngữ, mở rộng biểu tượng về thế giới xung quanh
cho trẻ, là con đường giúp trẻ xích lại gần nhau tạo ra niềm vui chung cùng bạn bè


Do việc quan niệm chơi là một hoạt động độc đáo của trẻ cho nên các nhà giáo dục đã sử
dụng trị chơi để giúp trẻ phát triển tồn diện cả về thể chất, trí tuệ, tình cảm đạo đức- xã
hội và thẩm mĩ cho trẻ. Chơi đóng vai trị là phương tiện giáo dục thế lực cho trẻ <-11% 16% Trước hết, chơi mang lại niềm vui cho trẻ. Đây chính là yếu tố quan trọng đẩy mạnh
sự phát triển chung của thế lực và tinh thần cho trẻ. Các trò chơi thường được chơi nhất

là trò chơi vận động, đẩy mạnh sự trao đổi chất, tăng cường hô hấp và tuần hoàn máu, rèn
luyện và phát triển các kỹ năng vận động thơ và tinh cũng như hình thành cho trẻ một số
tổ chất vận động như sự nhanh nhẹn, khéo léo, sự dẻo dai, bền bị, sự tính tưởng..
-

Là phương tiện phát triển trí tuệ cho trẻ rẻ học tốt nhất thông qua chơi, nội dung của
chơi phản ánh thế giới xung quan là chính nhờ có chơi mà trẻ hiểu sâu sắc hơn nữa về
thế giới xung quanh. Tất điều trẻ lĩnh hội được trước lúc chơi dưới nhiều hình thức
hoạt động khác sẽ đư chính xác hơn, phong phú hơn trong quá trình nhờ sự phát triển
của dự định cho sự cụ thể hóa các động tác chơi và các vai chơi trong trò chơi. Chơi
với tư cách động thực tiễn giúp trẻ hiểu rõ tính chính xác của các biểu tượng của
mình. Trong chơi nảy sinh nhu cầu cần có những tri thức mới để thể hiện trò chơi
sống động gần gũi với cuộc sống thực hơn từ đó bắt trẻ làm giàu vốn kinh nghiệm
sống của thúc đẩy hoạt động nhận thức tích cực, độc đáo của trẻ. Thơng qua chơi trẻ
học Có giải quyết nhiệm vụ, tìm kiếm phương tiện thích hợp nhất để thực hiện ý
tưởng và định chơi đã đưa ra trẻ huy động tất cả tri thức của mình và biểu lộ ra bằng
lời nói giải quyết nhiệm vụ chơi. Những cuộc đối thoại của trẻ trong quá trình chơi
chính là nhu cầu thiết thân của trẻ. Nếu khơng có sự trao đổi tư tưởng và thỏa thuận,
thương lượng cùng nhau thì khơng thể nào chơi được. Cũng chính trong hoạt động
chơi, trẻ ln phải tự tạo ra hồn cảnh chơi, sử dụng vật thay thế sử dụng các kí hiệu
tượng trung và điều này làm cho óc tưởng tượng sáng tạo của trẻ được phát triển
mạnh mẽ

-

vai trò là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ Hoạt động chơi của trẻ có thể được coi
như một loại trường học, trong loại trường này trẻ tích cực sáng tạo nắm lấy những
quy tắc hành vi đạo đức cũng như một số Chuẩn mực đạo đức xã hội. Trong khi chơi
trẻ được thử sức mình hành động như người lớn, tự mình thiết lập các mối quan hệ
với bạn bè trong nhóm chơi và cũng ở nhóm bạn bè này trẻ tìm được vị trí của mình,



khẳng định vị trí đó giữa các bạn trong nhóm bạn bè này, trẻ tìm được vị trí của mình
khẳng định vị trí đó giữa các bạn tron nhóm. Thơng qua chơi hình thành cho trẻ một
số phẩm chất, tình cảm, đạo đức cần thiết phù hợp với xã hội như trẻ biết cùng nhau
chung sống, hành động vì nhau chia cùng nhau, hợp tác với nhau, tình bạn được củng
cố, được thử thách. Nội dung chơi lành mạnh giúp trẻ có thái độ tích cực đối với hiện
thực, có tinh thần trách nhiệm với người khác, có lịng thương người biết quan tâm lo
lắng cho người khác
-

Phương tiện giáo dục và phát triển thẩm mỹ cho trẻ Chơi được sử dụng rộng rãi như là
một phương tiện giáo dục thẩm mỹ, bởi vì trẻ phản ánh thế giới xung quanh các em
thơng qua các vai, các hình tượng Ĩc tưởng tượng có một ý nghĩa quan trọng trong
khi chơi. Trong nội dung chơi thường có những hình tượng nhân vật, bài hát, lời ca,
câu đố vận động nhịp điệu Tất cả những cái đó làm cho trẻ cảm nhận sâu sắc hơn
trước cái đẹp trẻ rung động trước cái đẹp và biết yêu cái đẹp cố gắng đưa cái đẹp vào
trong trị chơi của mình
4. Vai trị của trị chơi tốn học đối với trẻ MN:

Trị chơi là sự thực hành của trẻ tạo điều kiện tình huống để trẻ áp dụng những kiến thức
tốn học đã có được, học cách thức nắm và sử dụng kiến thức hiện có vào những tình
huống khác nhau. Như vậy những kiến thức toán học của trẻ được cũng cố và trở nên
vững chắc. Trị chơi nhằm hình thành biểu tượng tốn học cịn đóng vai trị trong hoạt
động học tập. Nói như hoạt động đặc trưng nhằm hướng tới sự chú ý của trẻ đến những
hiện tượng riêng biệt thông qua các yếu tố, hiện tượng thú vị, hấp dẫn gần gũi và mang
tính giải trí Trong trị chơi khơng chỉ phản ánh những gì lĩnh hội được trong hoạt động
học tập cho trẻ làm quen với toán, mà cả những kinh nghiệm trẻ lĩnh hội được trực tiếp
trong cuộc sống Là hoạt động mà trong đó tiến hành sự luyện tập, sự khái quát hóa những
kiến thức mà trẻ thu được từ các nguồn khác nhau. Sự ứng dụng những kiến thức mà trẻ

thu được từ các nguồn khác ứng dụng những kiến thức thu được đó trong hoạt động học
có chủ đích. Là hoạt động mà trong đó xuất hiện và cũng cố những hứng thú nhận biết
của trẻ Trị chơi tốn học cho trẻ mầm non giúp trẻ rèn luyện kỹ năng phân loại, đếm, so
sánh số lượng thành thạo.


-

Trị chơi phát triển tồn diện cho trẻ giúp trẻ củng cố kiến thức kĩ năng phát triển khả
năng sáng tạo của trẻ đặc biệt là hình thành biểu tượng tốn để dàng hơn tạo cho trẻ
mơi trường hứng thú học tập chơi mà học,học mà chơi. Việc cũng cổ kiến thức biểu
tượng toán ban đầu cao hơn, hiệu quả hơn, chất lượng hơn. Tạo cơ hội cho trẻ vận
dụng kiến thức kỹ năng vào thực tế. là những phương pháp dạy học tích cực, chủ
động, sáng tạo.

-

Giúp trẻ phát triển phẩm chất, phát triển tư duy tốn học có tính độc lập thơng minh
linh hoạt sáng tạo của trẻ

-

Ưu điểm của trị chơi tốn học đối với trẻ mầm non:
+

Tạo hứng thú lĩnh hội kiến thức hình thành biểu tượng toán, dễ tiếp thu củng cố kiến

thức kỹ năng cho trẻ khắc sâu.
+


Giảm căng thẳng mệt mỏi duy trì sự chú ý của trẻ tạo cơ hội rèn luyện kỷ năng kiến

thức học tập hợp tác cho trẻ.

-

+

Giúp thay đổi hình thức hoạt động của trẻ (từ tính sang động).

+

giúp thay đổi trạng thái tình cảm với học.

Nhược điểm của trị chơi tốn học đối với trẻ mầm non:
+

Trẻ dễ sa đọa vào trò chơi quen đi nhiệm vụ nhận thức.

+

Phải lựa chọn trò chơi phù hợp trong quá trình tổ chức phải hứng thú cho trẻ.

5.

Sự ảnh hưởng của trị chơi tốn đối với các lĩnh vực phát triển khác:
Triết học duy vật biện chứng

Phương pháp hình thành biểu tượng toán ban đầu cho trẻ mầm non phải dựa vào triết
học duy vật biện chứng. Đó là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự

phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy con người
Toán học
Phương pháp hình thành biểu tượng tốn học ban đầu cho trẻ mầm non có
liên quan chặt chẽ với tốn học. Ngày nay những thành tựu của toán học đã xâm
nhập vào mọi lĩnh vực khoa học khác.
Giáo dục học mầm non
Phương pháp dạy trẻ làm quen với toán phải dựa vào những thành tựu khoa


học giáo dục Giáo dục mầm non về: mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học
để xác định vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu của việc hình thành biểu tượng tốn học
cho trẻ
Tâm lí học mầm non
Dựa vào những thành tựu về tâm lí học mầm non, nhất là dựa vào các q
trình cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy... của trẻ, đặc biệt là phải nắm chắc các
hình thức tư duy của trẻ để vận dụng và đưa lại hiệu quả trong quá trình dạy
học.
Dựa trên cơ sở những quy luật nhận thức biểu tượng toán học của trẻ ở từng
độ tuổi chúng ta xác định nội dung kiến thức, mức độ, yêu cầu về hành động và
tư duy của trẻ để tổ chức tiết dạy phù hợp.
Lôgic học
Phương pháp hình thành biểu tượng tốn cho trẻ MN phải dựa vào logic
học để trình bày một cách chính xác các kiến thức và những lập luận có căn cứ.
Điều này rất cần thiết trong q trình dạy tốn cho trẻ, vì đây là một khoa học có
liên quan chặt chẽ với khoa học toán học một khoa học mang tính chính xác.
Sinh lí học trẻ em:
Sinh lí học trẻ em nghiên cứu những đặc điểm và quy luật diễn ra các q
trình sinh lí ở trẻ nhỏ như : Đặc điểm hoạt động của hệ xương, hệ cơ, hệ tiêu
hóa, hệ thần kinh...từ đó xây dựng nội dung, phương pháp, hình thức dạy học
phù hợp ở các lứa tuổi



II. PHẦN NỘI DUNG


Cơ sở lý luận về trò chơi hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ
MN


-

Khái niệm kích thước

Kích thước là một khái niệm trong các khái niệm cơ bản của toán học, xuất
hiện từ thời cổ và hồn thiện trong q trình rất dài. Kích thước là khái niệm
chung, tổng quát biểu thị độ lớn của các đại lượng có khi cịn gọi là độ lớn,
trực tiếp hơn là các khái niệm cụ thể như: chiều dài, chiều rộng, chiều cao,
diện tích, thể tích, vận tốc… Mỗi loại kích thước cụ thể liên quan đến
phương pháp xác định, cách so sánh và các tính chất thích ứng của vật.
Ví dụ: trong hình học các đoạn thẳng được so sánh bằng phương pháp xếp
chồng hoặc xếp kề và phương pháp so sánh này dẫn đến hiểu khái niệm
chiều dài: Hai đoạn thẳng có cùng độ dài khi sếp chồng chúng trùng nhau , 2
đầu khơng có phần thừa ra.
Từ các khái niệm cụ thể của kích thước như chiều dài, diện tích, thể tích,
trọng lượng,... Có thể mở rộng, khái qt hóa một dạng bất kỳ của kích
thước. Trong hệ thống tất cả các kích thước cùng một dạng như: chiều dài,
chiều rộng, chiều cao, thể tích,… hình thành một quan hệ thứ tự

-


Kích thước là một trong các dấu hiệu để phân biệt các đối tượng - Kích
thước biểu thị độ lớn của các đại lượng: Số lượng, độ dài, bề rộng, độ lớn...là
những loại kích thước cụ thể - Mỗi loại KT có phương pháp xác định và cách
so sánh riêng - Chỉ so sánh các đối tượng cùng dạng với nhau và KQ so sánh
chỉ mang tính tương đối. - Khi so sánh 2 đối tượng cùng dạng bất kỳ có thể
xảy ra các MQH: bằng nhau, hơn hoặc kém. Vì vậy khi nêu MQH bằng
nhau, hơn, kém phải theo từng cặp Khi so sánh 3 đối tượng khác nhau trở lên
xảy ra các MQH: hơn nhất và kém nhất

1


1. Đặc điểm nhận thức biểu tượng kích thước của trẻ mầm non.
Trẻ em nhận biết về kích thước của các vật là nhờ có sự tham gia tích
cực của các giác quan mà chủ yếu là thị giác và xúc giác, sau đó dùng
tiếng nói Để khái quát những nhận biết về kích thướcKhả năng nhận biết
cảm thụ kích thước vật ở các khoảng cách khác nhau và trong các vị trí
khác nhau gọi là hệ thống cảm thụ. Hệ số thuộc cảm về kích thước vật
được tăng theo kinh nghiệm của trẻ và nhờ có sự tác động của nhà giáo
dục Trẻ ở các lứa tuổi khác nhau thì khả năng nhận biết về kích thước
của vật cũng khác nhau
Trẻ 3-4 tuổi có thể phân biệt kích thước những đồ vật quen thuộc với nó
-

Trẻ chưa hiểu được các tham số so sánh tương đối mà trẻ chỉ hiểu được
các tham số so sánh tuyệt đối. Ví dụ: Khi đưa cho trẻ 1 quả bóng đỏ to
hơn quả bóng xanh. Trẻ xác định quả bóng đỏ to, quả bóng xanh nhỏ. Vì
thế khi đưa thêm cho trẻ 1 quả bóng vàng to hơn quả bóng đỏ, yêu cầu trẻ
lấy quả bóng to thì trẻ sẽ chọn quả bóng đỏ


-

Đối với trẻ mầm non từ thông dụng nhất để chỉ kích thước: To-nhỏ

-

Trẻ chưa hiểu được” Kích thước” nên đa số trẻ 4 tuổi không thể trả lời
câu hỏi:” Kích thước của vật đó như thế nào?” và trẻ thường trả lời khơng
chính xác về kích thước của vật. Ví dụ: Trẻ nói cây to thay vì nói cây
cao…

-

Đối với trẻ 3-4 tuổi thì kích thước vật so sánh, phải có độ chệnh lệch lớn
và đặt gần nhau

-

Dần dân trẻ nắm được tính tương đối của các khái niệm: Dài- ngắn, rộnghẹp, thấp-cao, tiếp theo trẻ có thể so sánh kích thước 3 vật. Ví dụ: Con
đường dài- con đường dài hơn- con đường dài nhất.

-

Trẻ thường lẫn lộn chiều dài với chiều rộng. Vật quá thấp thì trẻ không
phân biệt được, chiều rộng với chiều cao.
2


-


Trẻ 3 tuổi khi được đề nghị chọn một vật cao nhất hay dài nhất thuongwg
chọn vật to nhất. Trẻ 4 tuổi phân biệt được chiều dài với chiều rộng với
điều kiện chiều dài dài hơn chiều rộng nhiều.

-

Trẻ khó phân biệt chiều cao của một vật. Chiều cao được một số trẻ nhận
thức như là một điểm. Ví dụ: Khi xác định chiều cao một vật, trẻ thường
chỉ vào điểm đỉnh của vật
Tất cả những sai lệch này là do giáo viên khơng cho trẻ so sánh nhiều lần
kích thước của một vật, và giáo viên không dạy trẻ hiểu được ý nghĩa của
tham số. Một sai sót nữa là khi cho bài tập thay vì nói:” Hãy tìm một vật
có chiều cao như vậy”, giáo viên lại nói:” Hãy tìm một vật giống như
vậy”
Bởi vì vật có nhiều dấu hiệu khác nhau và vì bài tập khơng giải thích rõ
điều giáo viên muốn, nên trẻ quyết định làm bài tập theo dấu hiệu mà nó
đã biết
Đến cuối tuổi mầm non, trẻ có khả năng ước lượng kích thước bằng mắt
một cách tốt hơn. Do đó lúc này khơng đòi hỏi phải đặt các vật sát nhau,
khi muốn so sánh kích thước của chúng với nhau

-

Trẻ em nhận biết vê kích thước của các vật nhờ có sự tham gia tích cực
của các giác quan mà chủ yếu là thị giác và xúc giác, sau đó dùng ngơn
ngữ để khái quát những nhận biết vê kích thước.
Trong tâm lí học gọi khả năng nhận biết (Cảm thụ) kích thước vật ở các
vị trí khác nhau là hệ số thụ cảm. Sự cảm thụ kích thước đúng phụ thuộc
vào kinh nghiệm, khả năng ước lượng bằng mắt, sự phát triển vê ngơn
ngữ, sự tham gia của các q trình tư duy: so sánh, phân tích, tổng hợp

và sự tác động của các nhà giáo dục. Vì vậy hệ số thụ cảm vê kích thước
vật tăng theo kinh nghiệm, sự phát triển vê tâm, sinh lí từng lứa tuổi và
sự hướng dẫn của các nhà giáo dục. Trẻ ở các lứa tuổi khác nhau thì khả
năng nhận biết vê kích thước của vật cũng khác nhau.
3


-

Khi trẻ lên một tuổi:
Sự tri giác của trẻ nhỏ dần dần trở nên ổn định, trẻ càng lớn thì
tính ổn định của sự tri giác kích thước càng trở nên bền vững.

-

Lên hai tuổi:
Tuy chưa nắm được ngôn ngữ tích cực nhưng trẻ đã có những
phản ứng trước kích thước khác nhau của các vật và cả mối liên hê
kích thước giữa chúng. Dấu hiệu kích thước thường được trẻ lĩnh
hội gắn liền với vật cụ thể, quen thuộc với trẻ và đối với trẻđó là
dấu hiệu mang tính tuyệt đối. ví dụ: trẻ ln cho rằng chiếc ơ tơ
của mình là to cịn ơ tơ của bạn là nhỏ mà không cần so sánh độ
lớn giữa chúng.

-

Trẻ 3 – 4 tuổi :
Rất khó khăn để nắm được tính tương đối của khái niệm kích
thước. ví dụ: đặt trước mặt trẻ 3 – 4 tuổi vật giống nhau nhưng có
độ lớn tăng dần, trẻ thường thực hiện đúng nhiệm vụ chỉ vật to nhất

và vật nhỏ nhất. Tuy nhiên khi cô cất vật to nhất đi rồi lại yêu cầu
trẻ chỉ vật to nhất trong số những vật còn lại thì trẻ trả lời: “Cơ cất
vật to nhất rồi” Hơn nữa trẻ thường không biết lựa chọn các vật có
kích thước tương ứng với nhau. Ví dụ: trẻ cố xỏ chân mình vào
một chiếc tất của búp bê, hoặc đội mũ của mẹ, xỏ dép của chị.
Sự tri giác kích thước ở trẻ 3 tuổi cịn thiếu tính phân định, trẻ
thường chỉ định hướng tới độ lớn của vật mà khơng có sự phân
tách tứng chiều đo kích thước của vật. Vì vậy khi yêu cầu trẻ mang
ghế cao nhất cho cô trẻ thường mang ghế to nhất. tuy nhiên trẻ 3
tuổi lại phân biệt đúng người lớn và trẻ em từ xa và thường thực
hiện đúng nhiệm vụ được giáo như: mang quả bóng to hay mang
cây gậy dài.
4


Trong ngơn ngữ thụ động của trẻ đã có những từ phản ánh sự phân
biệt các chiều đo kích thước khác nhau. Điều này đã chứng tỏ ở trẻ
đã hình thành những biểu tượng kích thước và sự tri giác kích
thước của trẻ nhỏ ngày càng ổn định.
Ở lứa tuổi này trẻ có khả năng phân biệt kích thước của hai vật có
độ chênh lệch lớn.
Lên 4 tuổi:Trẻ đã có thể lựa chọn các vật theo chiều dài, chiều
rộng, chiều cao của chúng một cách đúng hơn nếu sự khác biệt
giữa các chiều đo đó khá là rõ rệt. Ví dụ: Trẻ dễ dàng xác định
chiều cao của các vật khi chiều đo đó dài hơn các chiều đo khác,
nhưng trẻ khó nhận cao của các vật thấp. Trẻ em thường phân biệt
đúng các chiều đo cụ thể của vật khi trực tiếp so sánh sự khác biệt
về chiều dài, chiều rộng của hai hay ba vật. Phần lớn trẻ mắc lỗi
khi só sánh chiều rộng của các vật, nhầm lẫn giữa chiều rộng và
chiều dài.

Khi xác định từng chiều đo của vật, trẻ thường dung đầu ngón tay
sờ dọc theo chiều dài, chiều rộng của vật. Các thao tác khảo sát này
đóng vai trị quan trọng trong việc giúp trẻ tri giác kích thước và
phân tích các chiều đo của vật một cách chính xác hơn.
Trong sự tri giác kích thước và diễn đạt các dấu hiệu khác nhau của
kích thước vật thể, lời nói đóng vai trị quan trọng. Tuy nhiên sự tri
giác thiếu phân định các chiều đo kích thước ở vật của trẻ nhỏ lại
ảnh hưởng lớn tới sự diễn đạt kích thước bằng lời.
Trẻ 3 – 4 tuổi thường sử dụng các từ to – nhỏ, to hơn – nhỏ hơn.
Phần lớn trẻ 4 tuổi khơng hiểu ý nghĩa của từ kích thước, nên khi
hỏi trẻ về kích thước của vật nhiều trẻ trả lời màu sắc, số lượng của
chúng. Vì vậy khi cho trẻ làm quen với các chiều đo kích thước
khác nhau, giáo viên cần chú ý sử dụng lời nói cách chính xác,
5


mạch lạc như: “ hãy tìm cái nơ có chiều dài như thế này”, “ giơ
bang giấy rộn như bang giấy của cơ”, tránh tình trạng giao nhiệm
vụ cách chung chung. Việc sử dụng một cách tùy tiện lời nói của
giáo viên là tiền đề cho trẻ nhỏ học cách diễn đạt thiếu chính xác.
-

Trẻ 4 – 5 tuổi:
Trẻ có khả năng phân biệt được các kích thước chiều dài của vật.
Ví dụ: Trẻ phân biệt chiều dài và chiều rộng của mặt bàn hình chữ
nhật. Trẻ đã có thể nắm được ý nghĩa của danh từ “Kích thước”
nên việc diễn đạt các từ chỉ kích thước của vật được chính xác hơn.
Trẻ có khả năng phân biệt được kích thước của 2 – 3 vật có độ
chênh lệch nhỏ. Khả năng so sánh ước lượng bằng mắt về kích
thước của trẻ được tăng lên.



Nhận xét: Dạy cho trẻ 4 – 5 tuổi biết so sánh phân biệt của 2 đên 3
vật theo chiều dài (Dài – rộng – cao – bề dày) với độ chênh lệch
nhỏ. Dạy trẻ biết sử dụng đúng các từ chỉ mối quan hệ kích thước
của 3 vật, theo chiều tăng giảm dần về kích thước. Phát triển khả
năng so sánh ước lượng bằng mắt về kích thước của vật này so với
vật khác.

-

Trẻ 5 – 6 tuổi:
Trẻ có khả năng phân biệt 3 chiều kích thước (Dài, rộng, cao ) của
vật.
Trẻ có khả năng dùng thước đo để đánh giá kích thước của vật.
Hiểu được mối quan hệ phụ thuộc giữa “Độ lớn” của thước đo với
số đo kích thước của vật “Độ lớn” của thước đo càng nhỏ thì số đo
kích thước của vật càng lớn.

6




Nhận xét: cần dạy cho trẻ 3 chiều kích thước của vật (Dài – rộng –
cao). Dạy trẻ 5 – 6 tuổi các thao tác đo lường đơn giản, cho trẻ
nhận thấy mối quan hệ giữ thước đo với số đo kích thước vật.

2.


Nội dung hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ mầm non

2.1. Nội dung dạy trẻ dưới 3 tuổi:
+

Trẻ lứa tuổi nhà trẻ được thao tác với các vật có kích thước to – nhỏ

khác nhau. Và bắt đầu được làm quen và nhận biết, gọi tên kích thước to – nhỏ
của các vật. Dạy trẻ sử dụng đúng các từ diễm đạt sự khác biệt như này: To hơnnhỏ hơn
2.2. Nội dung dạy trẻ 3-4 tuổi:
-

Phát triển sự tri giác kích thước các vật, làm phong phú và hồn thiện hơn kinh

nghiệm cảm nhận kích thước của trẻ nhỏ.
-

Dạy trẻ phân biệt, nhận biết và nắm được tên gọi của từng chiều đo, kích

thước khác nhau, như: chiều dài, chiều rộng, chiều cao và độ lớn của vật.
-

Dạy trẻ nhận biết sự khác biệt rõ nét về độ lớn, về chiều dài, chiều rộng và

chiều cao của hai đối tượng.
-

Dạy trẻ sử dụng đúng các từ diễn đạt sự khác biệt này như: dài hơn –ngắn hơn,

rộng hơn – hẹp hơn, to hơn – nhỏ hơn, cao hơn – thấp hơn.

2.3 Nội dung dạy trẻ 4-5 tuổi:
-

Phát triển khả năng nhận biết sự khác biệt về độ lớn, chiều dài, chiều
rộng, chiều cao của hai đối tượng trên cơ sở ước lượng kích thước của
các đối tượng đó. Dạy trẻ so sánh, nhận biết mối quan hệ kích thước của
hai đối tượng về độ lớn, về bề rộng, về chiều cao, về chiều dài.

-

Dạy trẻ so sánh sắp thứ tự về độ lớn, về chiều dài, về bề rộng, về chiều
cao của 3 đối tượng, dạy cách diên đạt mối quan hệ này ( Ví dụ: To nhấtnhỏ hơn- nhỏ nhất)

2.4. Nội dung dạy trẻ 5-6 tuổi.
7


-

Củng cố và phát triển kỹ năng so sánh kích thước của các đối tượng bằng
các biện pháp: xếp chồng, xếp cạnh và ước lượng kích thước bằng mắt.

-

Củng cố, phát triển kỹ năng sắp xếp các vật theo trình tự kích thước tăng
dần hoặc giảm dần và phản ảnh mối quan hệ kích thước của chúng bằng
lời nói.

-


Dạy trẻ các thao tác đo lường đơn giản và sử dụng các thao tác đo lường
đơn giản vào các hoạt động thực hành để trẻ nhận biết được mối quan hệ
về kích thước theo từng chiều giữa nhiều đối tượng hoặc giữa các chiều
trên một đối tượng.

3. Đặc điểm trò chơi tốn của trẻ MN.
-

Trị chơi tốn của trẻ mầm non là phương tiện, phương pháp, để hình
thành biểu tượng, tạo hứng thú tiếp thu nhận thức, thực hiện chức năng
giáo dục, giáo dưỡng và phát triển

-

Nhận biết trò chơi từ dễ đến khó: Từ đơn giản đến phúc tạp.

-

Hình thành tri thức cho trẻ: Từ các hoạt động hoặc quan sát đối tượng
để nhận biết gọi tên rồi so sánh, phân biệt, khái qt hố để hình thành
biểu tượng đến vận dụng vào thực tế.

-

Trẻ nhận biết và hiểu được nội dung bài học qua trò chơi.

-

Tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, hứng thú, vừa được học vừa được chơi,
khơng nhàm chán.


-

Q trình nhận biết của trẻ mầm non thơng qua trị chơi tốn:
Trị chơi tốn là cơ hội tạo hứng thú để trẻ tiếp thu kiến thức, là điều
kiện để trẻ sử dụng các hiểu biết đã có giải quyết các tình huống trong
thực tế: qua trị chơi giáo viên kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
trẻ, biết được khả năng tiếp thu kiến thức của trẻ.
Trị chơi tốn trẻ chỉ chơi theo ý thích, khơng có mục đích, vì vậy trog
chơi chỉ là phương tiện, khơng là mục đích trong giờ tốn.
8


×