Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

LUẬN VĂN: Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.13 KB, 50 trang )














LUẬN VĂN:

Sự hình thành và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam








Mở đầu
Tầm quan trọng của vấn đề:
Phát triển kinh tế thị trường có vai trò quan trọng. Nước ta muốn chuyển từ
nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn Xã hội chủ nghĩa thì không còn con
đường nào khác là phát triển kinh tế KTTT. Kinh tế thị trường khắc phục được kinh tế


tự nhiên tự cấp tự túc, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển nghành nghề
tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng công nghệ – kỹ thuật mới
nhằm tăng năng suất lao động, phát triển số lượng, chủng loại, chất lượng, hàng hoá,
dịch vụ, thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa
phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi
người lao động, mỗi địa vị kinh tế, đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các
nguồn lực của xã hội hợp lý và tiết kiệm…. Vì vậy phát triển kinh tế thị trường được
coi là chiếc đòn xeo để xây dựng Chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã
hội hoá Xã hội chủ nghĩa nền sản xuất.
Phát triển kinh tế thị trường là một yều cầu quan trọng đặt ra trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội, nhằm đảm bảo cho mục tiêu : “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.”
Tuy rằng nền kinh tế thị trường trong đời sống xã hội ở nước ta còn nhiều hạn
chế song nó vẫn được ghi nhận như một bước đột phá trong tư duy lý luận . Bước đột
phá đó chính là việc lần đầu tiên ta nêu lên khái niệm nước ta đang thực hiện “nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tại Đại hội IX của Đảng (tháng 4-
2001).



Nội dung
I) Những vấn đề lý luận chung về nền Kinh tế thị trường
1) Khái niệm nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn
bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường, quan hệ hàng
hoá tiền tệ trở nên phổ biến. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường không đồng nhất
với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc
bản chất.
Kinh tế thị trường là hình thức kinh tế văn minh, đó là nền kinh tế vận động,
phát triển gắn liền với hệ thống đồng bộ các thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường

tiền tệ và thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài nguyên.
Kinh tế thị trường đầy đủ gắn liền với một hệ thống luật lệ thể chế, hệ thống
các đạo luật, các quy phạm xương sống của nền kinh tế. Về thực chất là những khuôn
khổ pháp lý đảm bảo cho nền kinh tế năng động có trật tự.
2)Tính quy luật của sự hình thành kinh tế thị trường
Ngược dòng lịch sử về sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hoá. Măc dù mỗi
nứơc có sự khác nhau về trình độ, tính chất và sắc thái dân tộc, phát triển nhanh hay
chậm. Song nhìn chung sự tiến triển của nó đều lấy trình độ xã hội hoá sản xuất làm
điểm xuất phát, được thực hiện thông qua các tiến trình:
1.Quá trình tổ chức phân công và phân công lại lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các nghành nghề
khác nhau của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn
hoá lao động, do đó chuyên môn hoá sản xuất thành những nghành nghề khác nhau.
Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại
sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều sản phẩm
khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu và đòi hỏi của họ phải có một liên hệ phụ thuộc vào
nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau.
Tuy nhiên phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ.
C.Mác đã chứng C.Mác viết chỉ có những sản phẩm của lao động tư nhân độc lập và
không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như những hàng hoá. Vậy muốn sản
xuất hàng hoá ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai nữa.



2. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất, hay quá
trình đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Sự khác biệt này là do
các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất mà khởi thuỷ là chế độ tư hữu nhỏ.
Chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. Như
vậy chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản
xuất độc lập, đối lập nhau nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội

nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiên ấy người này
muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự mua- bán hàng hoá, tức là
phải trao đổi dưới những hình thái hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu
một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao động.
3. Quá trình tiến hành cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và dẫn tới việc hình
thành một loạt các thị trường mới: thị trường vốn, thị trường kỹ thuật – công nghệ, thị
trường lao động.
Kinh tế thị trường đòi hỏi sự phân bố tài nguyên một cách hiệu quả, cho nên
cần có một hệ thống thị trường hoàn chỉnh. Hệ thống thị trường là một tổng thể thống
nhất hữu cơ các loại thị trường có mối quan hệ lẫn nhau. Hệ thống thị trường không
chỉ có thị trường hàng hoá như hàng tiêu dùng và tư liệu sản xuất mà còn có các yếu tố
sản xuất như thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường nhà đất.
Chúng ta biết rằng, thị trường ra đời cùng với sự hoạt động trao đổi hàng hoá
và phát triển theo sự mở rộng quan hệ trao đổi hàng hoá. Sức sản xuất xã hội càng
tăng và xã hội không ngừng tiến bộ , thì quan hệ trao đổi hàng hoá cũng được phát
triển với hình thức khá cao, hình thành hệ thống thị trường hoàn chỉnh. Trao đổi hàng
hoá là nội dung cơ bản của hoạt động thị trường, và thị trường hàng hoá, thị trường
vốn, thị trường sức lao động là nội dung cơ bản nhất của hệ thống thị trường.Trong hệ
thống thị trường, các loại thị trường có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, dựa vào nhau,
thúc đẩy lẫn nhau. Hệ thống thị trường phải có tính thống nhất và tính mở, đó là yêu
cầu cơ bản và là đặc tính của hệ thống thị trường.
Thị trường hàng hoá: chiếm vị trí nền tảng trong hệ thống thị trường, các thị
trường khác, trên chừng mực nhất định phục vụ thị trường hàng hoá. Thị trường hàng
hoá theo nghĩa hẹp còn gọi là thị trường vật phẩm, là nơi trao đổi sản phẩm vật chất



hữu hình. Chủ thể của thị trường là người bán ( người sản xuât, người cung ứng) và
người mua ( người tiêu dùng, người sử dụng) tham gia trao đổi hàng hoá. Khách thể

của thị trường là các loại hàng hoá. Căn cứ vào nội dung của thị trường hàng hoá thì
nó bao gồm những chức năng chủ yếu sau:
a) Tạo điều kiện thể thực hiện trao đổi hàng hoá. Người sản xuất và người tiêu
dùng trao đổi hàng hoá với nhau thông qua thị trường
b) Định giá hàng hoá trên cơ sở quy luật giá trị nhằm xác định sức cạnh tranh của
hàng hoá
c) ảnh hưởng đến quan hệ của cung cầu. Giá cả hình thành trong cạnh tranh có
thể ảnh hưởng đến sản xuất, tiêu dùng và ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu.
Thị trường sức lao động: thị trường sức lao động là nơi tiến hành lưu động và
giao lưu. Tác dụng của nó là vận dụng cơ chế thị trường điều tiết quan hệ cung cầu sức
lao động, thúc đẩy nhân tài lưu động hợp lý, thực hiện bố trí hợp lý tài nguyên sức lao
động. Theo chỉ dẫn của “Chủ nghĩa trọng thương”, giai cấp tư sản thương nghiệp đẩy
mạnh hoạt động thương nghiệp mua bán, trao đổi . Cùng với việc tích luỹ vốn, thị
trường sức lao động cũng được hình thành. Mặt khác, do sự hoạt động của quy luật giá
trị nên tất yếu sẽ dấn đến sự phân hoá giàu nghèo, phát sinh quan hệ giữa một bộ phận
làm ăn giỏi trở thành ông chủ và một bộ phân khác do nhiều hoàn cảnh, đã trở thành
những người bán sức lao động và xuất hiện hàng hoá - sức lao động. Như vậy, nếu
kinh tế hàng hoá xuất hiện như một quy luật trong quá trình phát triển kinh tế thì sự ra
đời hàng hoá - sức lao động là một tất yếu. Điều đó là khách quan, không phụ thuộc
vào ý chí của bất kỳ ai.
 Sự xuất hiện của thị trường sức lao động là nhân tố quyết định cho sự chuyển
biến từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường vì các lý do sau đây:
_Thứ nhất, sự xuất hiện hàng hóa –sức lao động thể hiện trình độ phát triển cao
của nền kinh tế. Đặc trưng của kinh tế hàng hoá giản đơn là trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất còn thấp kém, nó chưa thoát khỏi sự ràng buộc của cách sản xuất chỉ
mới đủ để tiêu dùng , chưa có sản phẩm dư thừa. Kinh tế thị trường được đăc trưng
bởi trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế
dư thừa, có nhiều sản phẩm, có khả năng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con
người. Hay nói cách khác là trong nền kinh tế thị trường, lao động của người công




nhân có năng suất cao. Người mua sức lao động là mua khả năng sinh lời của nó. Vì
vậy sự xuất hiện của hàng hoá- sức lao động thể hiện trình độ của kinh tế hàng hoá đã
phát triển.
_Thứ hai, sự xuất hiện hàng hoá- sức lao động và thị trường sức lao động thể hiện
sự hình thành một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Với sự xuất hiện của hàng hoá
này, đất đai cũng trở thành hàng hoá, thành đối tượng mua bán… Vì vậy, tất cả các
yếu tố sản xuất và sản phẩm xã hội đều trở thành hàng hoá, thành đối tượng mua bán.
Điều này đảm bảo cho sự vân hành trôi chảy của tất cả các loại thị trường.
Hàng hoá sức lao động ra đời thì tiền tệ có thêm chức năng mới. Trước đây, tiền
tệ chỉ là phương tiên để đo lường giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh
toán, phương tiện cất trữ. Nhiều nhà kinh tế học chỉ coi tiền tệ là phương tiện lưu
thông thông thường, do vậy Adam Smith mới nói “tiền tệ là bánh xe vĩ đại của lưu
thông”. Với sự xuất hiện hàng hoá - sức lao động, tiền còn trở thành phương tiện làm
tăng giá trị để thu lợi chuận, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc
đẩy tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Rõ ràng vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường là vô cùng quan trọng.
Kinh tế thị trường là kinh tế tiền tệ. ở đây, mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá.
Sự vận động của tiền được coi như hệ tuần hoàn của cơ chế thị trường. Điều này tự nó
nói lên vai trò của hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng trong nền kinh tế. Nói cách
khác, không thể có được kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính ngân hàng còn
quá yếu ớt, hệ thống quan hệ tín dụng còn quá đơn giản, không bảo đảm nhu cầu vốn
cho sản xuất và kinh doanh.
Thị trường vốn: Vốn là máu của sự vận động hàng hoá, là khởi điểm của vân
động tái sản xuất. Cho nên thị trường vốn là tiền đề của thị trường hàng hoá và thị
trường các yếu tố khác. Thị trường tiền tệ là yếu tố tất yếu của phát triển kinh tế hàng
hoá.
Thị trường vốn là thị trường cung cấp về vốn để tiến hành kinh doanh dài hạn. Bộ
phận hợp thành quan trọng của thị trường vốn là thị trường chứng khoán. Phương tiện

tín dụng dài hạn lưu thông trên thị trường vốn là chứng khoán có giá, gồm hai loại lớn
là trái phiếu và cổ phiếu.



Với cuộc Cách mạng khoa học –kỹ thuật đã dẫn đến sự hình thành tất yếu thị
trường khoa học – kỹ thuật
Thị trường kỹ thuật thông tin : là bộ phận hợp thành hữu cơ của hệ thống thị
trường xã hội chủ nghĩa. Theo nghĩa rộng, thị trường kỹ thuật là tổng hoà các quan hệ
trao đổi hàng hoá kỹ thuật, nó gồm cả quá trình từ khai thác hàng hoá kỹ thuật đến ứng
dụng và lưu thông hàng hoá kỹ thuật; theo nghĩa hẹp, thị trường kỹ thuật có các đặc
trưng riêng của nó, đặc trưng chủ yếu là: quá trình trao đổi có tính kéo dài, gía cả thị
trường kỹ thuật hoàn toàn do hai bên giao dịch thương lượng tự do, Nhà nước không
can thiệp; hạng mục kỹ thuật được liệt vào kế hoạch nhà nước cũng có thể đưa vào lưu
thông trong thị trường kỹ thuật.
Thị trường thông tin là nơi chuyên trao đổi thông tin. Loài người đã bước vào thời
đại thông tin, các loại hoạt động xã hội ngày càng không thể tách rời thông tin, sản
xuất , cất giữ, phân phối và trao đổi thông tin ngày càng trở thành một ngành và nghề
nghiệp chuyên môn. Nói về hàng hoá thông tin, nó không phải là hàng hoá có hình
thái vật chất cố định, cũng một thông tin động thời phục vụ cho nhiều ngành , nhiều xí
nghiệp. Nghành sản xuất thông tin là một nghành sản xuất kiểu trí thức tập trung cao,
sự sản xuất cần nhiều tri thức, kỹ thuật, cần sử dụng nhiều lao động của con người.
Cho nên, thị trường thông tin gắn liền với thị trường hàng hoá. Chức năng thị trường
kỹ thuật thông tin đó là: Chức năng thực hiện giá trị, chức năng chuyển đổi dịch vụ,
chức năng liên hệ ngang, Chức năng thúc đẩy chuyển hoá.
4. Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế hay sự phát triển của phân công quốc tế
và trao đổi trên phạm vi quốc tế.
 Ngày nay, thị trường thế giới phát triển theo những xu thế chủ yếu sau đây:
a) Thương mại trong các ngành tăng lên rõ rệt. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II,
cùng với khoa học - kỹ thuật phát triển, sự phân công quốc tế đã có thay đổi rất lớn về

hình thức, chủ yếu thể hiện ở sự phân công giữa các ngành từng bước chuyển sang
phân công nội bộ ngành, do đó thương mại trong các ngành phát triển rất nhanh. Đặc
biệt các công ty xuyên quốc gia, thể hiện sự phân công quốc tế đã phát triển nhanh
chóng sau chiến tranh, thương mại trong các ngành tăng lên rõ rệt. Sự giao dịch trong
nội bộ công ty xuyên quốc gia chiếm khoảng 40%. Theo dự tính, cạnh tranh quốc tế



càng gay gắt và cùng với tiến bộ khoa học – kỹ thuật, thương mại trong nội bộ ngành
sẽ chiếm tỷ trọng càng lớn hơn.
b) Khối lượng thương mại trong nội bộ tập đoàn kinh tế thương mại không
ngừng mở rộng. Tổng kim ngạch thương mại trong Cộng đồng kinh tế châu âu (EEC) ,
trong Hiệp định sản phẩm xe hơi Mỹ – Canada và trong Hội đồng tương trợ kinh tế (
SEP ) năm 1975 là 217, 1 tỷ USD, năm 1988 tăng lên 791,6 tỷ USD, tăng lên gấp 3,6
lần, cùng thời kỳ trên, tỷ trọng tổng kim ngạch thương mại của nội bộ các tập đoàn
thương mại chiếm trong tổng kim ngạch thương mại quốc tế từ 24,9% tăng lên 27,9%.
Hình thành thị trường thế giới trong từng khu vực lấy Mỹ, châu âu, Nhật Bản làm
trung tâm. Khu thương mại tự do Mỹ–Canada–Mexico bắt đầu thực hiện trong năm
1994. Đến lúc ấy kim ngạch xuất khẩu hàng năm của thị trường trong khu vực đạt
1200 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thể giới. Khu châu
á-Thái Bình Dương tuy chưa hình thành thị trường thống nhất hoặc khu vực thương
mại tự do, nhưng thương mại trong khu vực cũng phát triển rất nhanh
c) Thương mại kỹ thuật phát triển nhanh chóng. Cùng với sự tiến bộ của khoa học
– kỹ thuật và cạnh tranh quốc tế gay gắt, hàng hoá của một nước có thể chen chân vào
thị trường quốc tế hay không, trong một chừng mực nhất định tuỳ thuộc vào việc nước
ấy dùng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nâng cấp và thay đổi thế
hệ hàng hoá. Từ thập niên 80 đến nay, trên thị trường thế giới thương mại kỹ thuật
phát triển nhanh chóng, kim nghạch thương mại kỹ thuật thế giới đạt 50 tỷ USD, đến
nay đã vượt 100tỷ USD và thương mại kỹ thuật cứ 10 năm lại tăng lên gấp 4 lần, vượt
xa tốc độ tăng trưởng của thương mại hàng hoá thế giới. Từ nay thương mại kỹ thuật

có bốn xu hướng phát triển như sau:
Một là, cùng với sự điều khiển cơ cấu ngành nghề và chiến lược kinh tế của các
nước, các nước phát triển sẽ nhanh chóng chuyển vốn, thiết bị và kỹ thuật quá thừa ra
nước ngoài. Các nước đang phát triển sẽ ra sức tiếp nhận thiết bị và kỹ thuật nước
ngoài để nâng cao cơ cấu ngành nghề và cơ câú hàng hoá xuất nhập khẩu của mình.
Hai là, trong thập kỷ 90, thương mại kỹ thuật lấy xuất khầu bằng sáng chế phát
minh, giấy phép, bản vẽ thiết kế văn kiện công nghệ, thông tin khoa học – kỹ thuật và
tri thức quản lý là chủ yếu sẽ chiếm vị trí quan trọng.
Ba là, thị trường thương mại kỹ thuật thế giới sẽ cạnh tranh rất gay gắt.



Bốn là, trong cạnh tranh của thị trường khoa học – kỹ thuật thế giới, xí nghiệp
xuyên quốc gia của các nước phát triển giữ vai trò chính, vì nó có nhiều vốn, có thể
khống chế quản lý kỹ thuật, hiệu quả cao và có mạng lưới thông tin rải khắp thế giới,
do đó nó càng chiếm ưu thế trong thương mại kỹ thuật thế giới.
3) Sự hình thành thị trường thế giới
Thị trường thế giới là lĩnh vực trao đổi hàng hoá và dịch vụ trong phạm vi thế giới.
Nó có tác dụng thúc đẩy thị trường trong nước của các nước tham gia thương mại gắn
bó với nhau. Thị trường trong nước được mở rộng và kéo dài ra khỏi biên giới quốc
gia.
Sự hình thành thị trường thế giới trải qua ba giai đoạn:
a) Giai đoạn đầu, giai đoạn này bắt đầu từ thể kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Sự phát
hiện ra châu Mỹ, đường hàng hải vòng qua châu Phi, sự xâm lược ấn Độ và Trung
Quốc đã thúc đẩy kinh tế các nước Tây âu phát triển, thị trường bắt đầu vượt qua biên
giới các quốc gia, thị trường thế giới bắt đầu xuất hiện và phát triển.
b) Giai đoạn phát triển nhanh chóng, giai đoạn này bắt đầu từ thập niên 60 thế kỷ
XVIII đến thập niên 70 thế kỷ XIX. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã tạo
điều kiện vật chất cho thị trường thế giới xuất hiện. Sản xuất máy móc quy mô lớn đã
nâng cao năng suất lao động, sản xuất tăng gấp bội, thị trường trong nước bão hoà, đòi

hỏi phải tìm thị trường ở ngoài nước. Nó đòi hỏi nhiều nguyên liệu, do đó phải có thị
trường quốc tế và cướp đoạt nguyên vật liệu. Nó thúc đẩy mở rộng quy mô thành phố
làm cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng, thị trường trong nước không đủ khả năng
thoả mãn, mà phải đi tìm mua ở thị trường nước ngoài. Sản xuất máy móc quy mô lớn
đẩy mạnh vận tải viễn dương và công cụ thông tin phát triển. Tất cả những nhân tố ấy
đã thúc đẩy thị trường thế giới phát triển nhanh chóng.
c) Giai đoạn trưởng thành cuối cùng. Bắt đầu từ thập niên 80 thế kỷ XIX và chấm
dứt vào đầu thế kỷ XX. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai xuất hiện, đầu tư ra
nước ngoài ngày càng mạnh, phân công quốc tế phát triển, thị trường thế giới hình
thành. Đặc điểm của giai đoạn này là đa phương hoá thương mại và hệ thống thanh
toán hình thành. Hình thành chế độ bản vị vàng quốc tế và tiền tệ thế giới. Trên thế
giới hình thành nhiều con đường tiêu thụ cố định tương đối hoàn thiện.
Đặc trưng chủ yếu của thị trường thế giới ngày nay là:



_ Lấy khoa học – kỹ thuật hiện đại và hợp tác kinh tế quốc tế đa phương làm nền tảng.
Phương thức thương mại quốc tế ngày càng phong phú và đa dạng.
_ Cơ cấu hàng hoá thương mại quốc tế có những biến đổi quan trọng. Thành phẩm
công nghiệp chế tạo chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với sản phẩm sơ chế, tỷ trọng
nhiên liệu tăng cao, sản phẩm máy móc tăng rất nhanh so với các loại hàng hoá khác.
_ Thị trường thế giới có xu hướng cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các nước sử dụng
mọi thủ đoạn cạnh tranh để giành giật thị trường, như tổ chức các tập đoàn thương mại
khống chế thị trường, thông qua các công ty xuyên quốc gia xâm nhập thị trường nước
khác. Nhà nước tích cực tham gia giành giật thị trường thế giới.
4) Các bước phát triển của kinh tế thị trường
Kinh tế hàng hoá một hình thức kinh tế thay thế hình thái kinh tế tự nhiên. Nó là
một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội mà trong đó những người tham gia sản xuất tạo ra
sản phẩm không phải để tiêu dùng mà để bán. Hình thái kinh tế hàng hoá phát triển từ
thấp đến cao. Trong lịch sử nó phát triển qua các loại hình kinh tế hàng hoá giản đơn

rồi đến kinh tế thị trường cổ điển (kinh tế thị trường tự do) và cuối cùng là kinh tế thị
trường hiện đại (hỗn hợp), gắn liền với ba bước chuyển biến sau:
a) Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá giản đơn
Kinh tế tự nhiên với đặc tính phổ biến là hiện vật, tự cấp tự túc dần dần chuyển
lên kinh tế hàng hoá giản đơn. Bước chuyển này gắn với hai điều kiện cơ bản là: Sự
phân công lao động xã hội và chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất hoặc các
hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Đặc trưng của giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn là:
+ Dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công, tương ứng với văn minh nông nghiệp
+ Dựa trên cơ sở tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, người sản xuất đồng thời là người
chiếm hữu tư liệu sản xuất
+ Cơ cấu kinh tế là nông nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
+ Tính hàng hoá chưa phổ biến
+ Cơ chế kinh tế vận động theo quan hệ giữa giá cả và giá trị, theo cạnh tranh và cung
– cầu nhưng ở trình độ thấp
b) Bước chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn lên kinh tế thị trường tự do



Trong lịch sử giai đoạn chuyển đổi từ kinh tế hàng hoá giản đơn lên kinh tế thị trường
diễn ra đồng thời với giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa phong kiến sang chủ nghĩa tư bản
( từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI ). Nhiệm vụ của giai đoạn này là tích luỹ những tiền đề
cần thiết cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường .
 Những điều kiện tiền đề cần thiết đó là
+ Tự do hoá thương mại và giá cả
+ Kết cấu hạ tầng sản xuất phải đạt đến trình độ nhất định
+ Nền đại công nghiệp cơ khí đã được hình thành
+ Đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển các nghành kinh tế công nghiệp,
nông nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng
+ Hệ thống tín dụng, ngân hàng đã phát triển đến một trình độ nhất định

+Tích vốn (tích luỹ nguyên thuỷ) để tổ chức sản xuất theo kiểu sản xuất lớn, hiện
đại
+ Hình thành thị trường sức lao động, kể cả thị trường đất đai. Đây là nhân tố
quyết định cho sự ra đời của kinh tế thị trường
+Tăng cường vai trò hỗ trợ của nhà nước cho nền kinh tế thị trường xuất hiện
Các nhà kinh tế thuộc phái trọng thương đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy
sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường. Họ đưa ra các lý thuyết chỉ đạo hoạt động kinh
tế của giai cấp tư sản, của các nhà kinh doanh thương nghiệp và nhà nước tư sản lúc
bấy giờ. Những đề xuất của họ có tác dụng rút ngắn thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ để
cho các doanh nghiệp của nền kinh tế thị trường ra đời.
 Đặc trưng của kinh tế thị trường tự do gồm có:
_ Đẩy mạnh hoạt động trên lĩnh vực sản xuất
_ Phát triển sản xuất theo tinh thần tự do
_ Tăng cường tích tụ và tập trung sản xuất để tăng chất lượng và quy mô thị trường
_ Phát triển rộng rãi các hình thức thị trường
Sự phát triển của nền kinh tế dân tộc khẳng định sự chiến thắng của kinh tế thị
trường đối với lực lượng sản xuất nhỏ. Trong quá trình đó, lực lượng sản xuất được
phát triển mạnh mẽ, sản xuất được tích tụ và tập trung cao độ. Cơ cấu kinh tế có sự
biến đổi to lớn, sự phát triển của thị trường được mở rộng.



Một đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế thị trường
diễn ra theo tinh thần tự do. Nhà nước không can thiệp vào kinh tế. Tư tưởng tự do
kinh tế được ghi nhận trong các tác phẩm kinh điển của W.Petty, F. Quesnay, đặc biệt
trong tác phẩm của A. Smith. Trong cuốn "Nghiên cứu về nguyên nhân và bản chất sự
giàu có của các dân tộc", ông gọi tư tưởng này là "Bàn tay vô hình". "không can thiệp
"
Về cơ bản, quan điểm của A. Smith là hoạt động kinh tế sản xuất hàng hoá phải
được thực hiện theo tinh thần tự do, quan hệ giữa người với người là quan hệ lợi ích,

nhà nước không can thiệp vào kinh tế thị trường. Quan điểm tự do kinh tế còn được
các nhà kinh tế học của phái tân cổ điển sau này ủng hộ. Theo quan điểm này,
L.Walras đã phân tích sự cân bằng tự phát giữa các thị trường đảm bảo cho sự phát
triển ổn định vốn có bên trong của nền kinh tế thị trường.
Các nhà kinh tế cổ điển và tân cổ điển cho rằng nhà nứơc có những chức năng
sau:
Thứ nhất, nhà nước bảo vệ quyền tư hữu của nhà kinh doanh. ở đây, nhà nước
dùng luật pháp để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về sở hữu tư liệu sản xuất. Với
chức nằng này, nhà nước có vai trò như người canh gác trong kinh tế thị trường.
Thứ hai, nhà nước đảm bảo an ninh chính trị, an toàn xã hội
Thứ ba, nhà nứơc có vai trò đảm nhiệm những nhiệm vụ kinh tế vượt khỏi phạm
vi của một doanh nghiệp như công việc đời sống, các công trình phúc lợi công cộng
Tóm lại, hoạt động của nhà nước là tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế thị trường tự
do phát triển.
c) Bước chuyển từ nền kinh tế thị trường tự do lên kinh tế thị trường hiện đại
(hỗn hợp)
Kinh tế thị trường hiện đại là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, một
hình thức mà ở đó hầu hết các quan hệ kinh tế, các câu hỏi "sản xuất cái gì?" ,"cho
ai?", "công nghệ gì?" , đều được xử lý dựa trên nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước.
Người ta còn gọi kinh tế thị trường hiện đại là kinh tế thị trường hỗn hợp bởi lẽ
nguyên tắc chi phối nền kinh tế ở giai đoạn này không chỉ bởi "bàn tay vô hình"- cơ



chế thị trường tự điều chỉnh mà còn bởi " bàn tay hữu hình " – sự quản lý vĩ mô của
nhà nước .
Cho đến nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều hoạt động theo mô hình kinh tế
thị trường hiện đại, mặc dù với mức độ và phạm vi, tính chất có khác nhau. Cần ý thức
sâu sắc rằng kinh tế thị trường một hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá mang

tính phổ biến trong xã hội tư bản, song không vì thế mà đồng nhất kinh tế thị trường
với kinh tế tư bản chủ nghĩa.
 Bước chuyển từ kinh tế thị trường tự do lên kinh tế thị trường hỗn hợp gắn liền
với các điều kiện sau:
+Sự xuất hiện sở hữu nhà nước, thị trường chứng khoán, xuất hiện hình thức sở
hữu cổ phần, chiếm hữu nhỏ
+ Quốc tế hoá sản xuất và đời sống
+Đặc biệt xuất hiện vai trò mới – vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với
kinh tế
+ Phải mở của nền kinh tế và theo đó hướng mạnh về xuất khẩu
Với sự tác động của tất cả các tiền đề trên , nền sản xuất xã hội sẽ được xã hội hoá
cao, cơ sở vật chất kỹ thuật được hiện đại hoá, các quan hệ kinh tế sẽ mang hình thái
phổ biến là quan hệ hàng hoá tiền tệ và được thực hiện trên thị trường. Dựa trên những
điều kiện kinh tế đã chín muồi, các quy luật kinh tế của sản xuất và lưu thông hàng
hoá như quy luật giá trị , quy luật cung cầu , quy luật lưu thông tiền tệ… sẽ phát huy
tác dụng một cách đầy đủ.
 Đặc trưng của bước chuyển đổi này
Về mặt lực lượng sản xuất: đã có sự nhảy vọt về chất theo hướng lấy điện tử, vi
điện tử làm cơ sở kỹ thuật ứng với nền văn minh hậu công nghiệp (lấy chiến lược
phát triển đồng bộ hoá giữa tư
liệu sản xuất hiện đại với con người hiện đại, coi là chiến lược chủ đạo)
Về mặt quan hệ sản xuất: sở hữu cổ phần giữ vai trò chủ yếu, sở hữu nhà nước ,
sở hữu đa quốc gia hình thành và phát triển
Quản lý trở thành nghề riêng, có sự tách rời quan hệ sở hữu và quan hệ quản
lý.Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao, các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi
phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình, tự do liên



kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất, đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với

tự chủ năng động.
Về mặt phân phối: hệ thống tham dự phân phối lợi nhuận không chỉ có tư bản ,
địa chủ nữa mà cả người lao động
Cơ cấu kinh tế của thị trường hiện đại là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp
(dịch vụ sản xuất và dịch vụ tiêu dùng)
Cơ chế vận hành: cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước
 Đặc trưng của giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại
Đặc trưng đầu tiên là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu
kinh tế với bên ngoài. Trong giai đoạn này, phạm vi thị trường cũng được mở rộng.
Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật làm xuất hiện nhiều loại hàng hoá mới như
hàng điện tử, bán dẫn,… đặc biệt lĩnh vực dịch vụ được phát triển nhanh chóng.
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất nên sự tập trung hoá và quốc tế hoá tư bản
ngày càng có quy mô lớn; do tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật nên
cơ cấu kinh tế có nhiều thay đổi làm cho nhu cầu về tư bản ngày càng tăng lên. Sự tích
tụ và tập trung tư bản trong các tổ chức độc quyền tư nhân có nhiều hạn chế nên nền
sản xuất cần dựa vào nguồn vốn của nhà nước. Mặt khác, tính chất xã hội hoá cao của
sản xuất xã hội đòi hỏi phải có một tổ chức nhân danh "xã hội " đứng ra điều tiết nền
sản xuất đó. Tổ chức đó chỉ có thể là nhà nước.
Do sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế thị trường dân tộc dẫn đến việc
hàng hoá sản xuất ra vượt khỏi nhu cầu tiêu dùng, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp
diễn ra thường xuyên và trầm trọng. Điều đó đòi hỏi cần thiết phải có sự can thiệp trực
tiếp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức
sở hữu nhà nước, các chương trình kích thích đầu tư , kích thích tiêu dùng và đặc biệt
là sử dụng các công dụ kinh tế vi mô như tài chính, tín dụng, tiền tệ để điều tiết nền
kinh tế trên tầm vĩ mô
Thực ra những mầm mống lý thuyết về sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế đã
có từ đầu thế kỷ XVIII do nhà kinh tế học Pháp S.Sismondi nêu lên. Theo ông, để
khắc phục những căn bệnh như: khủng hoảng, thất nghiệp, phân hoá, phá sản của tầng
lớp nghèo trong xã hội thì nhà nước cần can thiệp vào nền kinh tế. Tuy nhiên, công cụ
can thiệp của nhà nước, theo ý kiến ông vẫn là luật pháp. Chính phủ sử dụng luật pháp




để ngăn chặn sự phá sản của sản xuất nhỏ cũng như các căn bệnh khủng hoảng, thất
nghiệp do hậu quả của sự phát triển máy móc gây ra. Đến những năm 30 của thế kỷ
XX, các nhà kinh tế học như Mydran, Pigore… cũng nêu những ý kiến về nhà nước
phải tác động vào kinh tế thị trường. Song chỉ có J.M.Keynes mới đưa ra các đề xuất
sự can thiệp của nhà nước vào chính sách kinh tế, vào tình hình thị trường một cách
đầy đủ và cụ thể. Lý thuyết của Keynes được các nhà kinh tế học sau ông tiếp tục bổ
sung và phát triển. Nó được ứng dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế thị trường
hiện đại nhất là Mỹ và Anh.
Theo lý thuyết này, nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường thông qua các
chính sách kinh tế phổ biến sau đây: Nhà nước là chủ doanh nghiệp, đứng ra sản xuất
các hàng hoá công cộng. Nhà nước, bằng các cổ phiếu khống chế, nắm lấy các đơn vị
kinh tế then chốt hay đơn vị kinh tế chỉ huy để thông qua đó mà tác động điều tiết toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Nhà nước đưa ra những đơn đặt hàng hay là tạo thị trường để
cho các doanh nghiệp tư nhân tiến hành sản xuất theo đơn đặt hàng đó. Nhà nước sử
dụng công cụ lãi suất để điều tiết đầu tư của các nhà kinh doanh theo từng thời kỳ
thích hợp. Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết đầu tư, điều hoà thu nhập giữa
các tầng lớp dân cư. Nhà nước xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại, điều tiết quan
hệ xuất – nhập khẩu.
Tuy nhiên sự can thiệp của nhà nước không thể thay thế được hiệu quả của cơ
chế thị trường. Vì vậy, cần phải phối hợp giữa vai trò chính phủ với cơ chế thị trường
trong một cơ chế kinh tế hỗn hợp. Ngày nay, nước nào kết hợp hai mặt này trong cơ
chế kinh tế của mình thì nứơc đó hạn chế đựơc những tiêu cực của hệ thống thị
trường, thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển nhanh và hiệu quả.
Trong cơ chế hỗn hợp, thị trường quyết định lĩnh vực hoạt động, mặt hàng, quy
mô, công nghệ và hình thức tổ chức kinh doanh nhằm thu lợi nhuận cao nhất trong
môi trường cạnh tranh. Nhà nước tao lập các cân đối vĩ mô, đáp ứng yêu cầu hiệu quả
bảo vệ môi trường, phân phối bình đẳng, ổn định và phát triển kinh tế.

Lịch sử ghi nhận rằng, sự phát triển kinh tế thị trường gắn liền với ngoại
thương. Tuy vậy, trong giai đoạn kinh tế thị trường có điều tiết lại có những nét khác
biệt. Trước đây hoạt động ngoại thương có tính chất thụ động. Nó đơn thuần xuất khẩu
các hàng hoá không tiêu thụ hết ở trong nước. Các nhà kinh tế học thuộc phái trọng



thương đã từng quan niệm của cải của một quốc gia là những sản phẩm mang ra nước
ngoài để thực hiện gía trị trao đổi, thu tiền về.
Theo Sismondi, ngoại thương là phương tiện để đảm bảo cho sự cân bằng kinh
tế, chống khủng hoảng. Ông coi ngoại thương là "lỗ thông hơi của chủ nghĩa tư bản"để
thực hiện xuất khẩu các sản phẩm thừa.
Trong thời kỳ thực hiện chính sách chủ nghĩa thực dân trong kinh tế, quan niệm
về thị trường nước ngoài chưa thật đầy đủ. Chính sách thực dân làm cho cả những
nước chính quốc và những nước thuộc địa đều cho rằng thị trường nước ngoài là nơi
tiêu thụ hàng hoá không ngang giá có lợi cho chính quốc, là nơi cung cấp nguồn
nguyên liệu, nhân công rẻ mạt cho chính quốc.
Trong giai đoạn kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước, quan niệm về thị
trường nước ngoài đã thay đổi. Các lý thuyết kinh tế về thương mại quốc tế như lý
thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, lý thuyết trao đổi quốc tế của Hecksher –
Ohlin đã chỉ rõ thương mại quốc tế luôn có lợi cho tất cả các bên tham gia trao
đổi.Vấn đề là ở chỗ phải có chiến lược trao đổi quốc tế đúng, tìm hiểu tình hình thị
trường thế giới, xác định đúng lợi thế so sánh của nước mình để có sự kết hợp phân
công lao động trong nước với hợp tác quốc tế nhằm đẩy nhanh con đường phát triển
kinh tế của đất nước. Như vậy, quan hệ quốc tế sẽ như là yếu tố nội sinh của nền kinh
tế.
Nhìn chung, ở giai đoạn phát triển kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước
cần thiết phải kết hợp tất cả những biện pháp như phát triển kinh tế thị trường trong
nước, sức mạnh của nhà nước và có chính sách mở cửa đúng đắn. Đó là những nhân tố
đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi dân tộc.

Cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường thông qua hai giai đoạn nêu
trên, khi chuyển sang kinh tế thị trường, các nước còn phải tuân thủ một số nhân tố có
tính quy luật . Đó là quá trình đa dạng hoá sở hữu , quá trình phát triển của phân công
lao động, khoa học- kỹ thuật và thay đổi cơ cấu kinh tế, lợi nhuận và vấn đề xã hội…
5) Các nhân tố của kinh tế thị trường
a) Hàng hoá - dịch vụ



Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người
và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, sản xuất hàng hoá
có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính :
_ Giá trị sử dụng: giá trị sử dụng chính là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng nào đó của con người
+ Trước hết nó do thuộc tính tự nhiên của vật thể làm thành hàng hoá quy định,
như vậy giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn
+ Nó chỉ được thể hiện trong quá trình tiêu dùng hay sử dụng nó
+ Nó sễ được phát hiện cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật
+ Nó là điều kiện cần để cho một vật được gọi là hàng hoá
_ Thuộc tính giá trị : giá trị trao đổi là quan hệ tỉ lệ về lượng giữa giá trị sử dụng này
với giá trị sử dụng khác
Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá đó. Giá
trị là một quan hệ xã hội
_ Mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị : giá trị sử dụng là điều kiện cần, giá trị là
điều kiện đủ để một vật được gọi là hàng hoá. Giá trị là phạm trù lịch sử chỉ xuất hiện
và tồn tại khi có kinh tế hàng hoá.
_ Mối quan hệ giữa gía trị trao đổi và giá trị : Giá trị là nội dung là cơ sở của giá trị
trao đổi. Giá trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị. Từ đó ta rút ra : giá trị
sử dụng và giá trị là hai thuộc tính chứ không phải hai bộ phận cấu thành nên hàng
hoá.

b) Tiền tệ
Sự phát triển của các hình thái giá trị:
Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính , giá trị và giá trị sử dụng. Về mặt
giá trị sử dụng, tức là hình thái tự nhiên của hàng hoá ta có thể nhận biết trực tiếp
được bằng giác quan. Nhưng về mặt giá trị, tức là hình thái xã hội của hàng hoá, nó
không có một nguyên tử vật chất nào, nên không thể cảm nhận trực tiếp được. Nó chỉ
bộc lộ ra trong quá trình trao đổi thông qua các hình thái biểu hiện của nó. Lịch sử của
tiền tệ chính là lịch sử phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, từ hình thái giản
đơn cho đến hình thái đầy đủ nhất là thị trường.



_ Hình thái giá trị giản đơn là hình thái phôi thai của giá trị. Ví dụ: 1 cái rìu = 20
kg thóc
_ Hình thái giá trị toàn bộ: khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Ví dụ: 1 cái rìu = 20kg thóc
=1m vải
=1con bò
=1 gr vàng
_ Hình thái giá trị chung. Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất
và phân công lao động lao động . Quá trình trao đổi tách làm theo hai giai đoạn: bán
và mua
_ Hình thái tiền tệ: Ra đời trong phân công lao động lần hai, thủ công tách ra
khỏi công nghiệp Ví dụ: 1 cái rìu
20kg thóc = 1 gr vàng
1con bò
Suy ra bản chất của tiền tệ: Tiền tên xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài và tất
yếu của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Là kết quả của quá trình phát triển các hình thái
giá trị hàng hoá. Tiền là một hàng hoá đặc biệt được tách ra khỏi thế giới hàng hoá,
đóng vai trò là vật ngang giá chung cho tất cả các hàng khác, nó thể hiện lao động xã

hội và phản ánh quan hệ sản xuất giữa người sản xuất hàng hoá với nhau.
Các chức năng của tiền tệ: có 5 chức năng
+ Chức năng thước đo giá trị :với chức năng thước đo giá trị tiền được dùng để biểu
hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá khác. Với chức năng này tiền chỉ cần là tiền
tưởng tượng không nhất thiết phải là tiền mặt
+ Phương tiện lưu thông: Tiền được dùng làm môi giới trong việc mua bán hàng hoá.
Lưu thông hàng hoá là sự vận động liên tục của hàng hóa khi lấy tiền tệ làm môi giới.
Công thức vận động là
H-T-H. Với chức năng phương tiện lưu thông tiền phải là tiền mặt chứ không thể là
tiền tưởng tượng được
+ Phương tiện thanh toán: Tiền được dùng để chi trả sau khi công việc giao dịch ,
buôn bán đã hoàn thành
+ Phương tiện cất trữ



+Chức năng tiền tệ thế giới như mậu dịch, thanh toán , tín dụng quốc tế
b) Giá cả
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Nó có bốn nhân tố ảnh hưởng
đến giá cả là : giá trị hàng hóa, giá trị cuả vàng hay sưc mua của đồng tiền , quan hệ
cung – cầu hàng hoá dịch vụ, cạnh tranh trên thị trường.
Giá thị trường dung hoà được lợi ích của người mua lẫn người bán. Trong cuộc
giằng co giữa lợi ích người bán và lợi ích người mua để hình thành giá cả thị trường,
lợi ích sẽ nghiêng về phía người bán nếu cung nhỏ hơn cầu và ngược lại, lợi ích sẽ
nghiêng về phía người mua nếu cung lớn hơn cầu
c) Lợi nhuận
Định nghĩa: Lợi nhuận là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư, một khi giá trị
thặng dư được so sánh với toàn bộ tư bản ứng trước. Và nó được quan niệm là con đẻ
của tư bản ứng trước
Lợi nhuận và giá trị thặng dư có chung một nguồn gốc đó là : đều là kết quả của lao

động thặng dư của công nhân trong lĩnh vực sản xuất. Khi giá cả = giá trị thì giá trị
thặng dư = lợi nhuận.
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí tư bản chủ nghĩa
Khi nói tới lợi nhuận là đem nó so sánh nó với toàn bộ tư bản ứng trước, do đó nó
phản ánh xuyên tạc nguồn gốc của nó, cho rằng lợi nhuận cho tư bản sinh ra.
6) Các quy luật của kinh tế thị trường
1. Quy luật giá trị
_ Vị trí: Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. ở đâu
có sản xuất và trao đổi hàng hoá ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật
giá trị
_ Nội dung quy luật : Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng dựa trên cơ sở
hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị của hàng hoá được
quyết định bởi hao phí lao động lao động xã hội cần thiết . Vì vậy muốn bán được
hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao
phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
Trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa
là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá



Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vân động của gía cả hàng hoá. Vì giá trị
là cơ sở của giá cả nên trước hết gía cả phụ thuộc vào giá trị. Trên thị trường , ngoài
giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố như cạnh tranh cung cầu, sức mua của
đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường
tách rời giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động của giá cả thị
trường của hàng hoá xoay quanh trục gía trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy
luật giá trị. Thông qua sự vận động của gía cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy
tác dụng.
_Tác dụng của quy luật giá trị
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá

Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các nghành, các
lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của
giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở nghành
nào đó cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy,
lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào nghành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao
động được chuyển dịch vào nghành ấy tăng lên. Ngược lại khi cung vượt quấ cầu, giá
hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc
người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuỷên sang đầu tư vào nghành
có giá trị hàng hóa cao.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự
biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp
đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động
về kinh tế, mà còn có tác dụng điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
+ Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, lực
lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn
hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh
tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của
mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm
cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng



suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ
hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ.
+ Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành
kẻ giàu người nghèo
Tác dụng của quy luật giá trị có ý nghĩa: một mặt quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn

tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác,
phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội
2. Quy luật lưu thông tiền tệ
Tiền là hình thức biểu hiện giá trị của hàng hoá, nó phục vụ cho sự vân động của hàng
hoá. Lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ là hai mặt của quá trình thống nhất với
nhau. Lưu thông tiền tệ xuất hiện và dựa trên cơ sở của lưu thông hàng hoá. ở mỗi thời
kỳ nhất định, lưu thông hàng hoá bao giờ cũng đòi hỏi một lượng tiền cần thiết cho sự
lưu thông. Số lượng tiền này được xác định bởi luật chung của lưu thông tiền tệ. Quy
luật này được thể hiện như sau:
M = PQ/ V
Trong đó: M: số lượng tiền cần thiết trong lưu thông
P: giá cả của đơn vị hàng hoá
Q: khối lượng hàng hoá
V: số vòng lưu thông của đơn vị tiền tệ
Khi tiền vừa làm chức năng phương tiện lưu thông, vừa làm chức năng phương tiện
thanh toán thì lượng tiền cần thiết cho lưu thông được sác định như sau:


Trong đó: PQ: tổng số giá trị hàng hoá và dịch vụ đem lưu thông
PQ : tổng giá cả hàng hoá bán chịu
PQ : tổng giá cả hàng hoá khấu trừ nhau
PQ : tổng giá cả hàng hoá đến kỳ thanh toán
Quy luật lưu thông tiền tệ này là phổ biến đối với mọi nền kinh tế hàng hoá.
2. Quy luật cung cầu



Khái niệm: Cầu là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng có khả năng
vàsẵn sàng mua trong một thời gian nhất định với điều kiện các yếu tố khác không
thay đổi.

Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu đó là: thu nhập, giá hàng hoá liên quan, số lượng
người mua, kỳ vọng , sở thích.
Khái niệm cung: Cung là số hàng hoá và dịch vụ mà người bán có khả năng và sẵn
sàng bán ở các mức gía khác nhau trong một thời gian nhất định với điều kiện các yếu
tố khác không thay đổi.
Các yếu tố ảnh hưởng đến cung là: công nghệ, giá các yếu tố đầu vào, giá của hàng
hoá liên quan trong sản xuất, số lượng người bán, kỳ vọng, thuế hoặc trợ cấp
Mối quan hệ cung – cầu: Giữa cung và cầu tồn tại một mối quan hệ biện chứng, sự
tác động giữa chúng hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị trường, giá cả đó
không thể đạt được ngay mà phải trải qua một thời gian dao động quanh vị trí cân
bằng
II) Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
1)Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
 Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và những hạn chế của nó
Do nhận thức còn đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội , nên chúng ta đã thiết lập thể chế kinh tế kế hoạch hoá và cơ chế vận
hành nền kinh tế là cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp. Mô hình kinh tế và cơ
chế đó có những đặc trưng chủ yếu sau đây
Thứ nhất, Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Do đó hoạt động của các doanh
nghiệp chủ yếu phải dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước cấp trên, từ phướng hướng sản xuất, nguồn vật tư, địa chỉ tiêu thụ sản phẩm,
đến việc định giá, sắp xếp bộ máy.
Thứ hai, các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về
vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại do các quyết định không
đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Hậu qủa do hai điểm trên mang lại




là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ
lại vào cấp trên, vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh
doanh.
Thứ ba, trong cơ chế cũ quan hệ hàng hoá- tiền tệ bị coi thường, nhà nước quản
lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ
hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp đượcthực
hiện dưới các hình thức: bao cấp qua chế độ tem phiếu, bao cấp theo chế độ cấp phát
vốn của ngân sách.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động,
từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, nhưng phong cách thì cửa
quyền quan liêu. Mô hình kinh tế chỉ huy, mà điển hình là nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, bao cấp… với những đặc trưng nêu trên có những ưu điểm là tập trung được
nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu, nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, nên đã kìm
hãm tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Mô hình kinh tế đó không có tiêu chuẩn khách quan
đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế, bởi lẽ giá cả gần như không có quan hệ gì với
giá trị hàng hoá, cũng như là tương quan cung cầu, nên mọi sự tính toán đều sai lệch,
làm mất đi động lực của sự phát triển kinh tế, làm triệt tiêu tính năng động sáng tạo
của các đơn vị kinh tế, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội. Khi
đó chủ yếu phát triển kinh tế theo bề rộng chứ không phải phát triển kinh tế theo chiều
sâu.
Vì vậy với sự đổi mới tư duy về kinh tế. Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi
mới kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng Xã hội chủ
nghĩa.
 Những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở nước
ta.
_ Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá
chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều

sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, tưng địa phương cũng ngày càng phát



triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng
và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
_ Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn
dân , sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân , sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh
tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ
hàng hoá- tiền tệ.
_ Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định,
có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh
tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – công nghệ, trình độ tổ chức quản lý, nên
chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
_ Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc
biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì
mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra
trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.
Như vậy, khi kinh tế thị trường nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan, thì
không thế lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ nó được.
 Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội còn
mang nặng tính tự cấp tự túc, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế
tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Kinh tế hành hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do
cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải
tiến kỹ thuât, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức
tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá
trình đó thúc đẩylực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.

Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu người tiêu
dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu,
chất lượng như thế nào. Do đó kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo
của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như
tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ



Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá,
đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy, sự phân công lao động xã hội
và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng , lợi thế của từng vùng,
cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ , tập trung sản
xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc
được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có
trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Như vậy phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một
nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế
hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để
phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh
tế thì trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần , chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và
thu hút đựơc vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản
xuất,góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối
cao trong thời gian qua.
Trình độ phát triển của kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với các giai
đoạn phát triển của lực lượng sản xuất. Về đại thể, kinh tế hàng hoá phát triển qua ba
giai đoạn tương ứng với ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất: sản xuất hàng

hoá giản đơn, kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường hiện đại .
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang kinh tế hàng hóa.
2) Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta
Quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường ở nước
ta có thể chia thành một số giai đoạn nhưng giữa các giai đoạn không có ranh giới
tuyệt đối. Chúng ta có thể chia quá trình hình thành này thành các giai đoạn sau:
a) Giai đoạn từ 1979 đến 1985

×