Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao lợi nhuận của công ty cổ phần đầu tư Ngọc lâm doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.1 KB, 59 trang )








LUẬN VĂN:

Giải pháp nâng cao lợi nhuận
của công ty cổ phần đầu tư
Ngọc lâm









LỜI MỞ ĐẦU

Trước những cơ hội và thách thức của thị trường, để phát triển doanh nghiệp
phải có những chiến lược kinh doanh, quản lý hợp lý. Hoà nhập nền kinh tế nước ta
vào nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp tư nhân hoạt động trong nền kinh tế đều phải thay đổi mục tiêu lợi nhuận.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải
có lãi, lãi là mục tiêu cuối cùng mà các doanh nghiệp cần hướng tới.
Hoạt động sản xuất kinh doanh được coi là có lãi (có hiệu quả kinh tế) khi
thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh phải lớn hơn tổng chi phí mà doanh


nghiệp bỏ ra. Có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín thương mại, lợi nhuận và góp
phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, là
động lực trực tiếp thúc đẩy, khuyến khích tinh thần lao động hăng say, góp phần
nâng cao năng suất lao động ngoài ra đảm bảo khả năng thanh toán với nhà nước và
các đơn vị kinh tế khác, góp phần quan trọng để tái thiết nền kinh tế quốc dân thông
qua việc đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Như vậy lợi nhuận là động lực, là mục tiêu hàng đầu, là đích cuối cùng mà
doanh nghiệp phải hướng tới, nhằm đảm bảo sự sinh tồn, phát triển và thịnh vượng
của mình.
Mặt khác, lợi nhuận được tạo ra là kết quả tổng hợp của các hoạt động sản
xuất kinh doanh cả doanh nghiệp, là kết quả của việc kết hợp hài hoà giữa các khâu,
các công đoạn, các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, là sản phẩm của sự tìm
tòi và sáng tạo, mạo hiểm, linh hoạt của các nhà quản trị. Nó đòi hỏi các nhà quản
trị doanh nghiệp phải có sự phát triển toàn diện khả năng tư duy, nhạy bén và năng
động.
Vì vậy đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về lợi nhuận giúp chúng ta có cái nhìn
toàn diện hơn về các hoạt động của doanh nghiệp về quản trị kinh doanh và đặc biệt
là giá trị tài chính sao cho đem lại hiệu quả cao nhất.




Hoạt động sao cho có hiệu quả và tìm mọi biện pháp nhằm tăng lợi nhuận
luôn là vấn đề bức bách của các doanh nghiệp. Xuất phát từ suy nghĩ trên và sự giúp
đỡ tận tình của thầy giáo Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tài và các cô chú trong ban
giám đốc công ty cổ phần đầu tư Ngọc Lâm. Em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao
lợi nhuận tại công ty cổ phần đầu tư Ngọc Lâm.” Ngoài lời mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương I. Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh

tế thị trường.
Chương II. Tổng quan và tình hình lợi nhuận của công ty cổ phần đầu tư
Ngọc lâm
Chương III. Giải pháp nâng cao lợi nhuận của công ty cổ phần đầu tư
Ngọc lâm.










CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I- Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm và nguồn gốc của lợi nhuận:
Trước khi nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận ta phải tìm
hiều lợi nhuận là gì? Lợi nhuận được hiểu qua các khái niệm sau.




1.1.Các khái niệm về lợi nhuận.
Lợi nhuận là một khái niệm tưởng chừng đơn giản nhưng lại phức tạp. Nói
một cách ước lệ tổng thu được từ các hoạt động sản xuất kinh đoanh trừ đi tổng chi
phí cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đó gọi là lợi nhuận. Cách hiểu như

vậy thật đơn giản. Nhưng bản thân khái niệm và trong thực tế hình thành nên 1ãi
suất không đơn giản chút nào. Khái niệm lợi nhuận là khái niệm mục đích, là khái
niệm trọng tâm và là khái niệm phức tạp nhất của kinh doanh. Lợi nhuận chủ yếu là
thông qua kinh doanh, nhưng ở mức độ nào đó lợi nhuận cũng có thể không phải từ
kinh doanh mà ra; nhưng đó là để chỉ tính trực tiếp hoặc gián tiếp, còn trong tổng
thể xã hội thì lợi nhuận chủ yếu được sinh ra trong kinh doanh.
Khái niệm lợi nhuận khá phức tạp, để có một khái niệm lợi nhuận như ngày
nay chính là sự đấu tranh, nghiên cứu giữa các nhà kinh tế học qua các thời đại. Bởi
vậy khi xem xét đánh giá ở các góc độ khác nhau, các thời đại khác nhau mà mỗi
nhà kinh tế lại có một cách hiểu khác nhau.
Từ xa xưa các nhà kinh tế học cổ điển trước mác khi nhìn nhận lợi nhuận họ
đều cho rằng '' cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất'' là lợi
nhuận. Họ chưa hiểu được nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận được sinh ra từ đâu,
mà họ chỉ hiểu được về mặt lượng, chưa hiểu được về mặt chất của 1ợi nhuận.
- Theo c. Mác, người có một cái nhìn tinh tế hơn về lợi nhuận dưới góc độ
khoa học hơn, ''thì lợi nhuận được hiểu'' là giá trị thặng dư hay cái phần trội 1ên
trong toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay 1ao động không
được trả lương của công nhân đã được vật hoá. Ông đã nhìn lợi nhuận, hiểu được
nguồn gốc cũng như bản chất của lợi nhuận.
- Các nhà kinh tế học hiện đại như samuesdson và v.D.Nordhous cho rằng
''lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng thu về trừ đi tổng chi ra" hay cụ
thể hơn "lợi nhuận được định nghĩa 1à sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của doanh
nghiệp và tổng chi phí".
- Theo david begg, ftaniey fisher và rudigewdoven bush thì "lợi nhuận là
lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí".




Đối với nước ta hiện nay đứng trên góc độ doanh nghiệp có thể thấy rằng lợi

nhuận của quá trình kinh doanh là khơản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí
mà đoanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó từ các hoạt động của doanh nghiệp
đưa lại trong khuôn khổ pháp luật quy định.
Như vậy đứng về mặt lượng mà xét, thì tất cả các định nghĩa trên đều thống nhất
ở một quan điểm " lợi nhuận là số thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra". Lợi nhuận là kết
quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, 1à chỉ tiêu quan trọng
để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu
là sinh lời. Các doanh nghiệp độc lập trong sản xuất kinh doanh, không ngừng vận
động, phát triển, cạnh tranh và lấn át nhau trong nền kinh tế thị trường. Để đứng
vững trên thương trường và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của vốn, để có
thể tích luỹ vốn, doanh nghiệp phải hoạt động sao cho có hiệu quả cao với lợi nhuận
ngày càng lớn. Vì vậy, nâng cao lợi nhuận là mối quan tâm hàng đầu của các nhà
kinh tế nói chung.
- Lợi nhuận chính là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh
nghiệp phải bỏ ra để đạt được doanh thu đó trong một thời kỳ nhất định. Như vậy,
để xác định được lợi nhuận là bao nhiêu, người ta căn cứ vào hai yếu tố:
+ Doanh thu thu được trong kỳ.
Chủ yếu là doanh thu bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ cho khách hàng
+ Chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu đó trong kỳ, gồm chi phí hoạt động
kinh doanh và thuế thu nhập doanh nghiệp
- Lợi nhuận của doanh nghiệp nghiệp được biểu thị bằng công thức tổng quát
Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí
Trong kinh doanh lợi nhuận của doanh nghiệp được tính theo công thức
P = TR - (TC - TAX ( To)
Trong đó:
P : Lợi nhuận của doanh nghiệp thu được từ hoạt động kinh doanh
TR: Tổng doanh thu thực hiện dịch vụ, tiêu thu sản phẩm
TC: Tổng chi phí bỏ ra để tạo ra khối lượng hàng hoá, dịch vụ đem tiêu
thụ





TAX: Thuế các loại cuả doanh nghiệp trng kỳ kinh doanh
To: Tổn thất hoặc thu nhập ngoài hoạt động cơ bản.
1.2. Tìm hiểu nguồn gốc lợi nhuận.
Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái khác nhau đã đưa ra nhiều ý
kiến tranh luận khác nhau về nguồn gốc của lợi nhuận ở các góc độ và quan điểm
riêng của họ.
- Theo phái trọng thương họ cho rằng ''lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực
lưu thông".
- Theo phái trọng nông mà đại biểu nổi tiếng là kênê lại cho rằng ''giá trị
thặng dư hay sản phẩm thuần túy là quà tặng vật chất của thiên nhiên và ngành nông
nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần tuý".
- Theo phái cổ điển, nổi tiếng như adam smith là người đầu tiên tuyên bố
rằng "lao động là nguồn gốc sinh ra giá trị và giá trị thặng dư'' và chính ông lại
khẳng định "giá trị thặng dư bao gồm tiền công, lợi nhuận và địa tô". Còn david
ricarddo thì 1ại cho rằng ''giá trị do lao động của công nhân tạo ra là nguồn gốc sinh
ra tiền lương cũng như 1ợi nhuận và địa tô". Như vậy cả smith và ricarđđo đều
nhầm lẫn giữa giá trị thặng dư với lợi nhuận.
Kế thừa những gì tinh tế nhất do các nhà kinh tế học tư sản để lại, kết hợp
với việc nghiên cứu sâu sắc nền kinh tế sản xuất tư bản chủ nghĩa, đặc biệt 1à nhờ
có lý luận vô giá về giá trị hàng hoá sức lao động nên c. Mác đã đưa ra một số kết
luận một cách đứng đắn và khoa học: Ông cho rằng "giá trị thặng dư được quan
niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, như vậy mang hình thái biến tướng là
lợi nhuận thuần tuý".
Dựa vào lý luận về lợi nhuận của c.Mác, kinh tế học hiện đại đã phân tích
khá sâu sắc về nguồn 1ợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận luôn là mục tiêu, 1à
cái đích mà các nhà doanh nghiệp phải có chiến lược và mục tiêu cụ thể trong từng

giai đoạn cụ thể. Doanh nghiệp nào cũng luôn hướng tới làm sao thu được lợi nhuận
cao nhất nếu có thể trong điều kiện cho phép. Do vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải
biết nhìn nhận mình, phải nhìn thấy những cơ hội mà người khác bỏ qua, phải luôn




có chiến lược chính sách nghiên cứu phát hiện ra sản phẩm mới, tìm ra phương
pháp sản xuất mới tốt hơn để có chi phí thấp nhất hoặc phải liều lĩnh mạo hiểm. Nói
chung tiến hành tốt tất cả các hoạt động, các khâu trong quá trình sản xuất kinh
doanh, nhằm tối thiểu hoá chi phí, tối đa hóa lợi nhuận, chính là góp phần nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng thực tế lợi nhuận kinh tế
còn được xem như một phần thưởng dành cho các doanh nghiệp có khả năng và sẵn
sàng tiến hành các hoạt động sáng tạo, đổi mới và mạo hiểm để tổ chức kinh doanh
những thứ mà thị trường cần và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài
ra, cũng có những doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao hơn nhờ kiểm sơát, tổ chức
và quản lý tốt các quá trình, các sản phẩm hoặc các thị trường đặc biệt, tình hình về
một loại hàng hoá và dịch vụ thuộc thế mạnh của hãng. Như vậy nguồn gốc của lợi
nhuận trong doanh nghiệp bao gồm:
- Thu nhập mặc nhiên của các nguồn 1ực mà các doanh nghiệp đã đầu tư
kinh doanh;
- Phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp
- Thu nhập độc quyền.
2. Vai trò và kết cấu của lợi nhuận trong doanh nghiệp
a). Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp
Các doanh nghiệp tiến hành hàng loạt các hoạt động sản xuất kinh doanh là
để tìm kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục tiêu của kinh
doanh, là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh đoanh, là động 1ực kinh tế thúc
đẩy các đoanh nghiệp cũng như mỗi người lao động không ngừng sử đụng hợp lý,
tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của quá trình

sản xuất kinh doanh. Để tiến hành hoạt động kinh doanh, cung cấp hàng hoá dịch vụ
đáp ứng nhu cầu của thị trường và người tiêu dung, thì nhà sản xuất phải bỏ ra
những chi phí nhất định để phục vụ cho quá trình kinh doanh. Họ phải thuê đất đai,
lao động và tiền vốn để mua các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch
vụ.
Họ mong muốn hàng hóa dịch vụ của họ được mua với giá ít nhất là đủ để bù
đắp lại phần chi phí mà họ bỏ ra, có nghĩa là giá bán thấp nhất là tại điểm hoà vốn.




Ngoài ra người sản xuất kinh doanh nào mà chẳng muốn có phần thừa ra để mở
rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, nộp thuế, trả cổ tức, thưởng cho các nhà
quản lý, cho công nhân viên và cho cổ động. Ngược lại khi tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh mà không có lợi nhuận thì họ cũng không sẵn sàng cung cấp
hàng hoá, dịch vụ cho thị trường và người tiêu dùng như họ mong muốn. Do đó lợi
nhuận đóng một vai trò khá quan trong đối với tất cả các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, trong từng
điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà đặt ra mục tiêu lợi nhuận khác nhau,
nhưng cuối cùng đều hướng tới mục tiêu đó là lợi nhuận. Chính vì vậy động cơ lợi
nhuận là một bộ phận hợp thành quyết định tạo ra sự thắng lợi của thị trường sản
phẩm, cũng như đối với chính doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả của quy trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kể từ khi bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị
trường, nghiên cứu thị trường, phân đoạn thị trường, cho đến khi chuẩn bị sản xuất
kinh doanh, tổ chức bán hàng hoá, dịch vụ theo giá cả thị trường. Nó phản ánh cả về
mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh. Kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận
nhiều; khi có 1ợi nhuận nhiều sẽ tạo khả năng tái đầu tư, tái sản xuất mở rộng, phát
triển quy mô sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng và chiều sâu, tiếp tục phát triển
quá trình sản xuất có hiệu quả cao hơn.

Ngược 1ại, làm ăn kém tất yếu sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản. Vì vậy có thể
nói lợi nhuận tối đa là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
mọi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khắc nghiệt.
Muốn tồn tại và phát triển được thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lợi
nhuận, có nghĩa là phải sinh lời.
Lợi nhuận của doanh nghiệp 1à bộ phận quan trọng của thu nhập thuần tuý
của doanh nghiệp, là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước và 1à cơ sở để
tăng thu nhập quốc dân của mỗi nước. Như vậy ở khía cạnh này ta lại thấy được vai
trò của lợi nhuận không những quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp- Có lợi
nhuận thì mới tái sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, phát triển đầu tư máy móc
thiết bị, công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, để luôn tạo ra được sản phẩm mới




đáp ứng nhu cầu, cũng như thị hiếu của người tiêu dùng, tăng sức cạnh tranh, tạo uy
tín thương mại, đồng thời bổ sung các nguồn quỹ phúc lợi khen thưởng, quỹ nguồn
vốn kinh doanh, nâng cao đời sống của người lao động- Mà nó còn giữ vai trò quan
trọng đối với xã hội. Lợi nhuận góp phần vào việc nộp thuế thu nhập cho ngân sách
nhà nước thông qua việc doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, là nguồn
tích luỹ cơ bản để phát triển nền kinh tế xã hội.
Lợi nhuận của doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu kinh tế kỹ
thuật khác như chỉ tiêu về đầu tư, sản xuất, sử dụng các đầu vào, chỉ tiêu chi phí và
giá thành, chỉ tiêu các đầu ra và các chính sách tài chính quốc gia.
Trong những năm vừa qua từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự quản lý vĩ mô của
nhà nước, môi trường hoạt động của các doanh nghiệp có nhiều thay đổi. Nhà nước
đã đưa ra nhiều chính sách, chủ chương nhằm tạo hành lang pháp lý, tạo sân chơi
bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Nhà nước đã buộc
các doanh nghiệp thực hiện nguyên tắc hạch toán kinh tế độc lập, lấy thu bù chi và

có lãi theo chế độ chính sách và pháp luật hiện hành. Thực tế cho thấy khi chuyển
đổi nền kinh tế, có rất nhiều doanh nghiệp đã năng động, linh hoạt, kịp thời thích
nghi với điều kiện môi trường kinh doanh mới, tự khẳng định mình và đứng vững
trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt. Các doanh nghiệp này luôn quan
tâm đến hiệu quả sản xuất, tìm kiếm lợi nhuận ngạch, lấy lợi nhuận làm mục tiêu và
động lực cho sự tồn tại và phát triển của mình. Ngược lại có nhiều các doanh nghiệp
từ nhỏ đến lớn biến mất trọng cuộc cạnh tranh trên thương trường do không tìm
được phương án sản xuất kinh doanh đầu tư thích hợp, không có hiệu quả, lúng túng
trong việc tháo gỡ khó khăn, khó thích nghi với cơ chế thị trường, do ảnh hưởng
nhiều của phong cách kinh đoanh cũ, tâm lý ỷ 1ại, trông chờ vào nhà nước, kém
năng động, linh hoạt trước những biến đổi của thị trường. Hậu quả làm cho các
doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài triền miên, thậm chí cờn
đẫn đến phải ngừng sản xuất, giải thể doanh nghiệp. Điều này gây rất nhiều khó
khăn cho xã hội- Người lao động không có việc 1àm, đời sống gặp nhiều khó khăn
nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội.




Như vậy trong điều kiện hiện nay đối với các doanh nghiệp vấn đề lợi nhuận
không chỉ là mục tiêu hàng đầu mà còn là điều kiện quyết định sự tồn tại, phát triển
của doanh nghiệp mà là cơ sở phát triển nền kinh tế xã hội.
b). Kết cấu của lợi nhuận trong doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển, tối
đa hoá lợi nhuận thì các doanh nghiệp không chỉ tiến hành sản xuất kinh doanh một
loại hàng hoá nhất định mà các doanh nghiệp luôn đa dạng hoá các hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Điều đó có nghĩa là hoạt động của các doanh nghiệp rất
phong phú và đa dạng. Các doanh nghiệp không chỉ tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh các loại hàng hoá, dịch vụ theo đúng ngành nghề kinh doanh mà với
nguồn vốn có hạn doanh nghiệp phải sử dụng tối đa nguồn vốn và đem lại hiệu quả

cao nhất. Vì thế mà các doanh nghiệp còn tiến hành nhiều hoạt động khác mang tính
chất không thường xuyên và không chủ yếu. Đó là các hoạt động tài chính và các
hoạt động bất thường. Để xác định được hiệu quả của từng hoạt động, doanh nghiệp
phải xác định được các chỉ tiêu thu nhập và chi phí của từng mảng tương ứng. Tổng
lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ 1à tổng của các bộ phận lợi nhuận theo từng mảng
hoạt động.
Lợi nhuận của doanh nghiệp thường được cấu thành bởi ba bộ phận lợi
nhuận sau đây:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh đoanh.
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
- Lợi nhuận bất thường.
Tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng 1ợi nhuận doanh nghiệp có sự
khác nhau glữạ các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau và thuộc
môi trường kinh tế khác nhau. Điều này được thể hiện như sau:
Thứ nhất: Cơ cấu 1ợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh thông thường
khác với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng.
Với các doanh nghiệp thông thường hoạt động tài chính tách biệt với hoạt động sản
xuất kinh doanh. Trong cơ cấu của lợi nhuận doanh nghiệp thông thường thì lợi




nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là bộ phận lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn
trong toàn bộ lợi nhuận. Khác với các doanh nghiệp thông thường thì các doanh
nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính, tín dụng ngân hàng chỉ gồm hai bộ phận
lợi nhuận- Đó là lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất
thường. Ở các doanh nghiệp này hoạt động tài chính cũng là hoạt động tái sản xuất
kinh đoanh của họ, bởi lẽ họ thực hiện chức năng kinh doanh mặt hàng đặc biệt-
Kinh doanh tiền tệ.
Thứ hai: Trong môi trường kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp cùng loại có

sự khác biệt về tỷ trọng trong các bộ phận 1ợi nhuận trong tổng lợi nhuận của mình.
Điều này phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hay môi
trường kinh doanh của đoanh nghiệp. Mặt khác nó còn biểu hiện ở chức năng,
nhiệm vụ của doanh nghiệp hoạt động theo phạm vi ngành nghề hoạt động của mình
hay không, có đủ uy tín cũng như nguồn vốn để đầu tư vào từng lĩnh vực hay
không. Những lĩnh vực khác nhau đem lại hiệu quả sẽ dẫn đến cơ cấu lợi nhuận của
doanh nghiệp khác nhau.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao với thị trường
vốn phát triển ở trình độ cao và hoàn chỉnh, các hoạt động tài chính năng động, hiệu
quả thì hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng sẽ phát triển với các hoạt động
đa dạng về đầu tư tài chính. Khi đó lợi nhuận đem lại từ hoạt động tài chính sẽ
chiếm tỷ trọng đáng kể không kém gì lợi nhuận đem lại từ hoạt động sản xuất kinh
doanh. Ngược lại trong một nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp, thị
trường vốn chưa phát triển hoàn hảo, hoạt động của thị trường tài chính, thị trường
chứng khoán chưa hơàn thiện, chưa phát triển và phổ biến trong các doanh nghiệp
thì mảng hoạt động tài chính trong doanh nghiệp còn hạn chế. Doanh nghiệp không
có cơ hội đầu tư tài chính, thậm chí không có khả năng về vốn để thực hiện các hoạt
động đầu tư tài chính đó.
Trong trường hợp này, 1ợi nhuận hoạt động kinh doanh 1uôn từ hoạt động
sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quyết định đến tính hiệu quả trong hoạt động của
toàn doanh nghiệp.




Tóm lại, cơ cấu lợi nhuận của dơanh nghiệp thông thường được cấu thành từ
ba bộ phận 1ợi nhuận bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, từ hoạt động tài
chính và từ hoạt động bất thường.
Nhưng nhìn chung lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (đối với các
ngân hàng tổ chức tín dụng là lợi nhuận từ hoạt động tài chính) luôn luôn chiếm một

tỷ trọng 1ớn và có ý nghĩa quyết định trong tổng 1ợi nhuận doanh nghiệp.
Về nguyên tắc, khi phân tích lợi nhuận của đoanh nghiệp, chúng ta phải phân
tích một cách chính xác khách quan từng bộ phận cấu thành 1ợi nhuận của doanh
nghiệp, từ đó mới đánh giá một cách chính xác tình hình tăng giảm 1ợi nhuận của
công ty trong từng mảng, lĩnh vực kinh doanh, đồng thời mới thấy được các nhân tố
ảnh hưởng tới 1ợi nhuận của doanh nghiệp; giúp nhà doanh nghiệp đánh giá được
tình hình sử dụng vốn cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp vào lĩnh
vực nào là có hiệu quả nhất, lĩnh vực nào nên đầu tư mở rộng hay không nên đầu tư
để tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng trong điều kiện đặc thù, đôi khi nguyên tắc đó có thể
bị phá vỡ. Điều kiện đó 1à phân tích lợi nhuận thực hiện với doanh nghiệp kinh
doanh thông thường trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp thì
hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính còn rất hạn chế, cũng như ở
phạm vi hẹp với lợi nhuận ít. Còn lợi nhuận ở hoạt động bất thường thì ít quan
trọng, giống như bản chất của nó. Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chủ
đạo, lợi nhuận hoạt động kinh doanh là lợi nhuận cơ bản của doanh nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn, cấu thành của lợi nhuận, là nguồn thu nhập chủ yếu của doanh nghiệp.
Trong điều kiện đó, sẽ thiết thực khi tiến hành phân tích lợi nhuận doanh nghiệp
chủ yếu dựa trên bộ phận 1ợi nhuận kinh doanh nhằm tìm ra giải pháp tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
II- PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LỢI NHUẬN
Vậy lợi nhuận thực hiện trong kỳ là kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
bao gồm lợi nhuận hoạt động kinh doanh, lợi nhuận hoạt động tài chính, lợi nhuận
hoạt động bất thường.
LỢI NHUẬN DOANH NGHIỆP = LN HĐ KD + LN HĐ TC + LN BT




Muốn xác định được lợi nhuận của doanh nghiệp chính xác và đầy đủ ta phải
xác định được đầy đủ và chính xác doanh thu và chi phí của doanh nghiệp theo từng

hoạt động kinh doanh thì mới cho ta được một kết quả hoạt động kinh doanh trong
kỳ chính xác. Nếu không xác định chính xác và đầy đủ các khoản chi phí mà doanh
nghiệp đã bỏ ra phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ thì có thể dẫn đến
tình trạng lãi giả, lỗ thật. Nhưng chi phí lại là một phạm trù phức tạp, nó đòi hỏi
phải có phương pháp tập hợp một cách khoa học và chính xác để không dẫn đến
tính nhầm hay bỏ sót. Do vậy có thể nói chi phí kinh doanh của doanh nghiệp là
biểu hiện bằng toàn bộ các hao phí về vật chất, về lao động mà doanh nghiệp bỏ ra
để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh thường
xuyên và gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đặc điểm chi phí sản xuất
là phát sinh hàng ngày, gắn liền với từng vị trí sản xuất, từng sản phẩm, từng 1oại
hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như từng lĩnh vực hoạt động, vì thế việc tính
toán phải được thực hiện trong khoảng thời gian nhất định, không phân biệt sản
phẩm hoàn thành hay chưa hoàn thành mà phân bổ theo tiêu thức hợp lý mà xác
định được kết quả kinh doanh trong kỳ chính xác.
1. Xác định lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thu được do tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định là chênh 1ệch
giữa doanh thu bán hàng thuần với tổng chi phí tương ứng với số sản phẩm hàng
hoá lao vụ đã tiêu thụ. Nó được thể hiện qua công thức.
LN =  QiPi - (QiZi + QiCPi + Qi Ti)
=  QiPi-Fi
Trong đó:
- LN là lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh
- Qi, là khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ,
- Pi là giá bán đơn vị
- Fi 1à chi phí kinh doanh.





- CPi là chi phí quản lý và chi phí bán hàng
- Zi 1à giá vốn hay giá thành sản phẩm.
- Ti 1à thuế doanh thu (VAT), thuế tiêu thụ đặc biệt.

Lợi
nhuận
hđsxkd

=

Tổng
doanh
thu bán
hàng
-

Gi
ảm giá
hàng bán

-

Hàng
bán b

trả lại

-


Thuế
doanh thu
(vat, ttđb)

-

Giá
vốn
hàng
bán
-

Chi
phí
bán
hàng

-

Chi
phí
quản


LNHĐSXKD = DT thuần - Giá vốn hàng bán - Chi phí bán - Chi phí quản lý

LNHĐSXKD = Lãi gộp - Chi phí bán hàng - Chi phí quản lý

- Doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá,
cung ứng địch vụ sau khi trừ các khoản doanh thu bán hàng bị trả lại, gíảm giá hàng

bán và được khách hàng chấp nhận thanh toán.
* Xác định doanh thu thuần:
DT thuần từ HĐSXKD = Tổng DT từ HĐSXKD - Tổng các khoản giảm trừ
- Doanh thu thuần là số chênh 1ệch giữa doanh thu bán hàng với các khoản
giảm trừ.
- Tổng doanh thu (doanh thu bán hàng) là tổng số giá trị được thực hiện do
việc bán hàng hoá, sản phẩm cung ứng lao vụ, dịch vụ cho khách hàng trong một
thời kỳ nhất định.
- Tổng các khoản giảm trừ
+ Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay
hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất,
không đúng quy cách, giảm giá hàng bán gồm 3 bộ phận.




+ Bớt giá là số tiền thưởng cho khách hàng tính trên giá bán thông thường do
mua một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt.
+ Hồi khấu là số tiền thưởng cho khách hàng do một khoảng thời gian nhất
định đã mua một khối lượng lớn hàng hoá (tính theo tổng số hàng đã mua trong thờl
gian đó).
+ Giảm giá thực sự là số tiền phải giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn
hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm
chất, không đúng quy cách, giao sai thời gian, địa điểm quy định.
Bớt giá và hồi khấu mặc dù làm giảm doanh thu thuần nhưng có tác dụng
khuyến khích người mua, tăng được sản lượng hàng hoá bán ra, do đó xét tổng thể
sẽ góp phần tăng lợi nhuận. Đối với các khoản giảm trừ giá thực sự, cần giảm tới
mức tối đa bởi vì khoản này phản ánh những mặt khiếm khuyết của doanh nghiệp
trong việc chỉ đạo tiến hành hoạt động kinh doanh, quản lý chất lượng
+ Doanh thu hàng bán bị trả lại phản ánh doanh thu của số hàng đã tiêu thụ bị

trả 1ại trong kỳ. Hàng bị trả lại thường là hàng kém phẩm chất, không đảm bảo chất
lượng hoặc giao không đúng chủng loại, thời gian, giao thừa.
Nhân tố này phản ánh những yếu kém của doanh nghiệp trong việc quản lý
chất lượng cũng như tổ chức tiêu thụ.
+ Thuế tiêu thụ phải nộp (thuế tiêu thụ, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế vat, thuế xuất khẩu) cũng là nhân tố 1àm giảm doanh thu và do đó làm giảm
1ợi nhuận. Tuy nhiên đây là nhân tố khách quan do nhà nước quy định.
* Xác định tổng chi phí:
Tổng chi phí tương ứng với lượng hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ tiêu
thụ trong kỳ được xác định.
- Chi phí bán hàng phân bổ cho lượng
Tổng chi
phí
=
Trị giá
vốn
+
Chi phí bán
hàng phân bổ
cho lượng tiêu
+
Chi phí quản lý doanh
nghiệp phân bổ cho
lượng hàng tiêu thụ




th



- Trị giá vốn hàng tiêu thụ
+Trong trường hợp doanh nghiệp là đơn vị thương mại
Là trị giá mua của hàng tiêu thụ cùng với phí mua phân bổ cho hàng tiêu thụ.
Giá vốn hàng
tiêu thụ
=
Giá mua của
hàng đã tiêu thụ

+
Chi phí trực tiếp thu mua
quan sơ chế, vận chuyển
phân bổ cho lượng hàng đã
tiêu thụ
+ Trong trường hợp doanh nghiệp là đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ
Giá vốn hàng bán là giá thành sản xuất thực tế (còn gọi là giá thành công
xưởng thực tế)


Giá vốn hàng
tiêu thụ
=
Giá thành sản xuất
một đơn vị sản
phẩm
X
Số lượng đơn vị
sản phẩm đã tiêu
thụ

Trong đó giá thành sản xuất đơn vị được xác định thông qua quá trình hạch
toán giá thành sản xuất. Giá thành sản xuất bao gồm 3 yếu tố chi phí- Chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
- Chi phí bán hàng là khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản
phẩm hàng hoá dịch vụ trong kỳ. Nó bao gồm chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng
cụ, chi phí nhân công của bộ phận bán hàng, chi phí khấu hao tscđ dùng trong bộ
phận bán hàng, các chi phí khác, quảng cáo tiếp thị, chào hàng. Nhằm mục đích
thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hoá dịch vụ.
- Chi phí quản lý doanh nghiêp là những chi phí có liên quan tới việc tổ chức,
quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh đoanh và quản lý hành chính. Đây là
những chi phí chi cho bộ phận gián tiếp trong doanh nghiệp. Trong điều kiện bình




thường, những khoản chi phí này tương đối ổn định qua các thời kỳ kinh doanh.
Tuy nhiên để phản ánh đúng quá trình lợi nhuận, chi phí quản lý doanh nghiệp cũng
được phân bổ tương ứng cho lượng hàng hoá đã tiêu thụ.
Như vậy, để xác định 1ợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, chúng ta phải căn cứ vào toàn bộ số liệu trên sổ sách kế toán của kỳ sản
xuất. Vấn đề này đòi hỏi, kế toán phải tiến hành tập hợp toàn bộ thu chi một cách
chính xác nếu không thì việc xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bị sai
lệch, không phản ánh đúng thực trạng kinh đoanh của doanh nghiệp và việc lãi giả
1ỗ thật ở doanh nghiệp rất có thể xảy ra mà không thể nhận biết chính xác được.
2. Xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính là lợi nhuận thu được từ các hoạt động như
tham gia góp vốn liên doanh, hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn, dài
hạn, cho thuê tài sản, các hoạt động đầu tư khác, do chênh lệch lãi tiền gửi ngân
hàng và 1ãi tiền vay ngân hàng, cho vay vốn, bán ngoại tệ, hoàn nhập khoản dự
phòng giảm giá chứng khoán

Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định bằng chênh lệch giữa thu
nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính.

Lợi nhuận từ hoạt
động tài chính
=

Tổng số thu nhập
thuần từ hoạt động tài
chính
-

Tổng số chi phí
thuộc hoạt động tài
chính
- Thu nhập thuần từ hoạt động tài chính là những khoản thu do hoạt động đầu
tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại bao gồm các khoản thu, góp vốn liên
doanh, mua bán chứng khoán ngắn dài hạn, cho thuê tài sản, các hoạt động đầu tư
khác.
- Chi phí hoạt động tài chính là những chi phí cho các hoạt động đầu tư tài
chính và các chi phí liên quan đến các hoạt động về vốn gồm chi phí về góp vốn
liên doanh không tính vào trị giá vốn góp; lỗ liên doanh; lỗ do bán chứng khoán; chi
phí đầu tư tài chính; các khoản chiết khấu bán hàng thực sự đồng ý cho khách hàng




được hưởng hiện nay theo quy định của bộ tài chính ban hành mới được áp dụng
vào năm 2000- Khoản chiết khấu này được hoạch toán vào tài khoản 811; chi phí
hoạt động tài chính; chi phí liên quan tới vay vốn.

3. Xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường (Thu nhập đặc biệt)
Lợi nhuận hoạt động bất thường là khoản thu mà doanh nghiệp không dự
tính trước hoặc những khoản thu bất thường không xảy ra một cách đều đặn thường
xuyên, các khoản thu của doanh nghiệp có thể do chủ quan của doanh nghiệp hay
khách quan đưa tới bao gồm:
+ Thu về thanh lý, nhượng, bán TSCĐ
+ Thu tiền được phạt do vi phạm hợp đồng
+ Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ.
+ Thu khoản thu nhập kinh dơanh của năm trước bị bỏ sót hay quên chưa ghi
sổ, năm nay mới phát hiện ra.
+ Hoàn nhập dự phòng, giảm giá, hàng tồn kho và phải thu khó đòi.
Chi phí bất thường là những khoản lỗ do các nghiệp vụ riêng biệt với những
hoạt động thông thường của doanh nghiệp. Những khoản chi phí bất thường có thể
do nguyên nhân khách quan hoặc nguyên nhân chủ quan đưa tới bao gồm:
+ Giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý, nhượng, bán.
+ Chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ
+ Tiền bị phạt do vi phạm hợp đồng.
+ Bị phạt thuế, nộp thuế.
+ Các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay bỏ sót khi vào sổ.
+ Chênh lệch phải thu khó đòi và dự phòng phải thu khó đòi (không đủ hoặc
khoản thu khó đòi mất ngay chắc chắn chưa lập dự phòng).

L
ợi nhuận
bất thường
=
Tổng số thu nhập
hoạt động bất
-
Tổng chi phí hoạt

động bất thường




thư
ờng

Nhìn chung việc xác định thu nhập và chi phí của hoạt động tài chính và hoạt
động bất thường tương đối đơn giản hơn nhiều so với hoạt động sản xuất kinh
doanh. Đó chỉ đơn thuần là các dòng tiền không thường xuyên. Mọi phát sinh thu
nhập chi phí của hoạt động này được hạch toán gọn trong một kỳ kinh doanh.
Việc xác định lợi nhuận của doanh nghiệp trong một kỳ kinh đoanh phải xuất
phát từ việc xác định lợi nhuận bộ phận của doanh nghiệp. Nhưng doanh nghiệp là
một bộ phận độc lập với môi trường và thống nhất trong nội bộ, bởi vậy việc phân
bổ chi phí chung cũng như việc phân định chi phí riêng cho từng bộ phận hoạt động
thực sự là công việc khó khăn nhất trong việc xác định lợi nhuận. Nếu không sẽ dẫn
tới sự phản ánh không trung thực chi phí sản xuất kinh doanh (trùng lặp hoặc bỏ
sót) làm sai lệch chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp.
4.Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh nhưng không vì thế mà nó là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá hoạt động
sản xuất kinh doanh và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh hiệu quả của các
đoanh nghiệp với nhau, bởi vì:
- Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân
tố: nhân tố chủ quan, nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau.
- Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận
thu được khác nhau. Ở những doanh nghiệp lớn, vốn lớn thì lợi nhuận lớn; nhưng
chưa thể kết luận rằng sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp có quy mô nhỏ
vốn ít hơn lại có lợi nhuận thấp. Do vậy không nên đánh giá hiệu quả sản xuất kinh

doanh của một doanh nghiệp bằng một chỉ tiêu lợi nhuận mà phải sử dụng nhiều chỉ
tiêu khác. Vì vậy để đánh giá so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, ngoài chỉ tiêu 1ợi nhuận tuyệt đối, còn phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận tương
đối, đó là tỷ suất lợi nhuận (hoặc doanh lợi)
Tỷ suất lợi nhuận cao cho thấy hiệu quả kinh tế cao và ngược lại. Hơn nữa tỷ
suất lợi nhuận còn cho hai mặt.




+ Một là tổng lợi nhuận tạo ra các tác động của toàn bộ chi phí đã bỏ ra là tốt
hay xấu.
+ Hai là lợi nhuận tạo ra trên một đơn vị chi phí cao hay thấp.
Do yêu cầu nghiên cứu phân tích và đánh giá khác nhau đối với từng doanh
nghiệp mà có nhiều phương pháp tính tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Sau đây là một
số chỉ tiêu phổ biến thường sử dụng để đánh giá hiệu quả SXKD của doanh nghiệp:



- Tỷ suất doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
Lợi nhuận sau thuế
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = x 100%
Doanh thu

Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế (thu nhập sau
thuế) cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh
thu. Tỷ suất lợi nhuận càng cao thì chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp đạt hiệu quả tốt, chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp là hợp lệ và ngược lại
Nếu đem so sánh tỷ suất doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp với

ngành mà thấy kém hơn thì điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đang bán sản phẩm
với giá thấp hoặc là chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cao hơn so với
các doanh nghiệp khác cùng ngành (dẫn đến giá thành sản phẩm cao khiến cho lợi
nhuận của doanh nghiệp bị giảm xuống)
- Tỷ suất lợi nhuận chi phí
Là chỉ tiêu tương đối, phản ánh số lợi nhuận thu được khi bỏ ra 1 đồng chi
phí, được xác định bằng cách chia tổng lợi nhuận (sau thuế) cho tổng chi phí kinh
doanh trong kỳ

Tổng lợi nhuận trong kỳ




Tỷ suất lợi nhuận chi phí = X 100%
Tổng chi phí trong kỳ

So với ngành chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ lợi nhuận thu được là lớn,
doanh nghiệp đã đầu tư đúng hướng và có thể mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Tỷ suất doanh lợi chủ sở hữu
Là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu, viết tắt là roe,
được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu.
Thu nhập sau thuế
ROE = X 100%
Vốn chủ sở hữu
Ngoài ra, chỉ tiêu này còn đánh giá trình độ sử dụng tài sản, vật tư… của
doanh nghiệp cho nên nó doanh nghiệp các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ
quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp.
Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt
động tài chính doanh nghiệp

Tỷ suất doanh lợi vốn chủ sở hữu càng cao thì chứng tỏ rằng hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp càng lớn. Nếu so với roe của ngành mà kèm hơn thì
chứng tỏ lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp quá thấp, điều đó nói chung sẽ
không làm thoả mãn các chủ sở hữu của doanh nghiệp.
- Tỷ suất doanh lợi tài sản.
Là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để so sánh giá khả năng sinh lợi của
một đồng vốn đầu tư viết tắt là roa, được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế
(hoặc thu nhập trước thuế cho tổng tài sản).

TNST x 100% TNTT
ROA = = x 100%
TS TS

Doanh lợi tài sản của doanh nghiệp chịu sự chi phối của 2 chỉ tiêu là
+ Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm




Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu
X 100%

+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản




(chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ
số giữa doanh thu và tổng tài sản, nó cho biết 1 đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng

doanh thu)
+ Nếu 2 chỉ tiêu này thấp thì chỉ tiêu doanh lợi tài sản của doanh nghiệp cũng
thấp. Nếu so với mức trung bình của ngành mà thấp hơn thì chứng tỏ đầu tư không
hiệu quả đem lại quá ít lợi nhuận.
- Tỷ suất lợi nhuận giá thành
Là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm trong kỳ, được xác định bằng cách chia thu nhập trước thuế hoặc sau thuế cho
giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ.
TNST x 100% TNTT x 100%
= hoặc
Tổng giá thành Tổng giá thành
Hàng hoá đã tiêu thụ hàng hoá đã tiêu thụ
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LỢI NHUẬN CỦA DOANH
NGHIỆP
Tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu, là động lực, là đòn bẩy kinh tế mà các
doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh đơanh đều muốn hướng tới. Bởi
vậy để đạt được cái đích đó thì các nhà đoanh nghiệp phải tìm hiểu, nghiên cứu các
nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó tiến hành phân tích, đưa ra
các biện pháp khắc phục hạn chế các nhân tố tiêu cực, hoặc những nhân tố chủ quan
để góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh thu
Tổng tài sản
X 100%




Lợi nhuận 1à một khái niệm rất phức tạp, nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều
nhân tố, các khâu, các mặt trong quá trình sản xuất kinh doanh ngay từ khâu các
nhân tố, các khâu tìm hiểu nhu cầu thị trường đến khi quyết định sản xuất hàng hoá,

và tung sản phẩm ra thị trường, cũng như chiến lược hoặc mục tiêu lợi nhuận trong
từng giai đoạn cụ thể mà bị các nhân tố khác nhau tác động. Điều đó chứng tỏ lợi
nhuận của doanh nghiệp chịu sự tác động tổng hợp của nhiều nhân tố kinh tế, kỹ
thuật, tổ chức và xã hội, thị trường trong và ngoài nước, tình hình kinh tế chính trị
của đất nước.
Nhưng có thể chia các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận thành hai nhóm
chính- Nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
1. Nhân tố khách quan
1.1. Quan hệ cung cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường
Mục đích kinh doanh là cái mà nhà kinh doanh cần đạt tới. Lãi là cái cuối
cùng xuyên suốt quá trình kinh doanh. Nhưng để có lãi nhà kinh doanh đụng chạm
tới nhiều đối tượng. Người quyết định sự phát triển hay phá sản của nhà kinh doanh
chính là người tiêu dùng hay là thị trường, do quy luật cung cầu của thị trường
quyết định. Bởi vì doanh nghiệp thương mại cung cấp hàng hoá ra thị trường là
nhằm mục đích phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng để kiếm lợi. Sự biến động của
cung và cầu trên thị trường ảnh hưởng đến khối lượng hàng hoá bán ra của doanh
nghiệp. Nếu cung lớn hơn cầu chứng tỏ nhu cầu về mặt hàng kinh doanh đã được
đáp ứng tương đối đầy đủ, người tiêu dùng không còn ham tiêu thụ mặt hàng đó cho
dù doanh nghiệp có dùng những biện pháp khuyến khích khách hàng Lúc này
việc tăng khối lượng hàng bán ra rất khó khăn và cuối cùng lợi nhuận của doanh
nghiệp sẽ giảm. Ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu chứng tỏ mặt hàng đang kinh
doanh của doanh nghiệp được người tiêu dùng quan tâm và ưa thích, nói cách khác
doanh nghiệp chưa đáp ứng hết nhu cầu trên thị trường, lúc này doanh nghiệp dễ
dàng đẩy mạnh hoạt động bán ra, tăng doanh thu và lợi nhuận. Khi nhắc đến thị
trường, ta không thề bỏ qua yếu tố cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh
tranh là một yếu tố xảy ra giữa các nhà kinh doanh cùng bán một loại hàng hoá,





những loại hàng hoá có thể thay thế lẫn nhau làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của
doanh nghiệp.
1.2. Chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước
Doanh nghiệp là một tế bào của hệ thống kinh tế quốc dân, hoạt động của nó
không chl chịu tác động của các quy luật kinh tế thị trường (bàn tay vô hình) mà
còn chịu sự chi phối của nhà nước thông qua chính sách vĩ mô. Nền kinh tế thị
trường của việt nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự
quản lý của nhà nước, do đó vai trò chủ đạo của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường được thể hiện thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà
nước khuyến khích định hướng, hay hạn chế hoạt động của các tổ chức kinh tế nói
chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng, bằng các chính sách, luật lệ và công
cụ tài chính. Trong đó thuế là công cụ giúp cho nhà nước thực hiện tốt công việc
điều tiết vĩ mô của mình. Thuế và các chính sách kinh tế khác của nhà nước ảnh
hưởng rất lớn đến vấn đề đầu tư, tiêu dùng xã hội, giá cả hàng hoá dịch vụ trên thị
trường. Vì vậy nó tác động rất lớn đến các mặt hoạt động của đoanh nghiệp và
ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.3. Sự biến động của giá trị tiền tệ
Là nhân tố khách quan ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi giá
trị đồng tiền trong nước thay đổi thì tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ với đồng đó sẽ
biến động tăng hoặc giảm; và điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh
nghiệp, đặc biệt là đoanh nghiệp thương mại có hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái tăng thì lợi nhuận của nhà nhập khẩu lại giảm và ngược
lại. Mặt khác, khi giá trị đồng tiền thay đổi dẫn đến khả năng phục vụ sản xuất kinh
doanh của đồng vốn cũng thay đổi và nếu các nhà quản lý không chú ý tới việc bảo
toàn phát triển vốn thì rất có thể đây là hiện tượng lãi giả lỗ thật.
2. Nhân tố chủ quan
Bên cạnh các nhân tố khách quan kể trên, các nhân tố chủ quan ảnh hưởng
rất 1ớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp đó là:
2.L. Nhân tố con người





Có thể nói con người luôn đóng vai trò trọng tâm và có ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả hoạt động kinh doanh hiện nay. Khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau
một cách gay gắt thì con người lại càng khẳng định được mình là yếu tố quyết định
tạo ra lợi nhuận. Trình độ quản lý, trình độ chuyên môn cũng như sự nhanh nhạy
của người lãnh đạo. Tính linh hoạt, sáng tạo, mạo hiểm trước sự biến động của thị
trường cũng như môi trường kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh đa đạng phong phú,
đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải biết lựa chọn, nắm bắt được cơ hội, đứng trước
nguồn vốn có hạn, sao cho có hiệu quả nhất. Bởi vậy yếu tố con người ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Với một phương án kinh doanh
khả thi và trình độ tổ chức thực hiện phương án một cách linh hoạt, mềm dẻo sẽ
giúp doanh nghiệp đạt được lợi nhuận tối ưu. Bên cạnh đó, trình độ công nhân viên
cũng rất quan trọng quyết định đến sự thành công của mỗi doanh nghiệp. Với đội
ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ cao thích ứng với yêu cầu của thị trường,
doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả lao động, từ đó tạo điều kiện nâng cao lợi
nhuận.
2.2. Khả năng về vốn
Vốn là tiền đề vật chất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy
nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh và
lợi nhuận của đoanh nghiệp. Trong quá trình cạnh tranh trên thị trường, doanh
nghiệp nào trường vốn, có lợi thế về vốn thì sẽ có lợi thế kinh doanh. Khả năng về
vốn dồi dào sẽ giúp doanh nghiệp giành được thời cơ trong kinh doanh, có điều kiện
để mở rộng thị trường từ đó tại đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng doanh thu và
tăng lợi nhuận.
2.3. Việc tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá, dịch vụ
Tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá là quá trình thực hiện sự kết
hợp chặt chẽ giữa các yếu tố lao động, vật tư, kỹ thuật. Để tạo ra sản phẩm hàng
hoá. Quá trình này tiến hành tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng rất 1ớn đến việc tạo ra số

lượng sản phẩm, đặc biệt là chất lượng sản phẩm và chi phí sử dụng các yếu tố để
sản xuất ra hàng hoá (giá thành). Vấn đề được đặt ra ở đây là sau khi đã lựa chọn
được quy mô sản xuất kinh doanh tối ưu, các doanh nghiệp cần tiếp tục lựa chọn

×