Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.1 KB, 21 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật trong
truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) - Ngữ văn 12
Dàn ý:
1. Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm:
a. Kim Lân là một cây bút đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại với đề tài: đời sống làng
q. Ơng đã có nhiều đóng góp cho thể loại truyện ngắn viết về đề tài này. Đó là sự hiểu
biết sâu sắc về nỗi thống khổ của người nông dân và sự đổi đời của họ.
b. Truyện ngắn "Vợ nhặt" thực ra là một chương trong tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" (1946).
Tác phẩm được viết ngay sau CMT8 1945 nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau ngày
hòa bình 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết tiếp truyện ngắn này.
c. "Vợ nhặt" là một truyện ngắn xuất sắc không chỉ của Kim Lân mà cịn là một kiệt tác
của văn xi Việt Nam hiện đại. Thơng qua tình huống nhặt vợ trớ trêu của Tràng, tác
phẩm đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng của cuộc sống của
những người nơng dân xóm ngự cư, cụ thể là ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt và bà
cụ Tứ.
2. Phân tích: có thể phân tích từng nhân vật để làm rõ vẻ đẹp của tình người và niềm hy
vọng vào cuộc sống của những người dân ngụ cư ngay trong hồn cảnh khốn cùng. Cũng
có thể phân tích theo 2 luận điểm của đề, trong đó lần lượt chứng minh qua các nhân vật.
Dù phân tích theo hướng nào cũng phải làm nổi bật các ý sau:
a. "Sự túng đói quay quắt", "hồn cảnh khốn khổ" khơng làm những người dân ngụ cư từ
bỏ lòng nhân ái. Họ vẫn vượt lên trên cái chết, cái thảm đạm để sống với nhau bằng tình
người đẹp đẽ.
- Vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn Tràng.
+ Hào hiệp, thương người khi chia sẻ miếng ăn với người đàn bà xa lạ đang đói khát; khi
cưu mang thị dù mình cũng đang khốn khổ.
+ Chu đáo, ân cần khi mua cho chị ta cái thúng con, cùng thị đánh một bữa no nê, mua 2
hào dầu để đánh dấu ngày "nhặt vợ".

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188




Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

+ Thái độ tình nghĩa và trách nhiệm: xót xa thương cảm khi nhìn vẻ buồn bã của vợ; trân
trọng thương yêu mà không hề rẻ rúng; mong muốn "dự phần tu sửa lại căn nhà"- nơi
Tràng sẽ sống với những người mà anh yêu thương…
- Vẻ đẹp trong tâm hồn người "vợ nhặt":
+ Lúc đầu đi theo Tràng chỉ vì miếng ăn mong chạy trốn cái đói, thị đã thất vọng khi
chứng kiến hồn cảnh khốn khổ của Tràng nhưng thị vẫn ở lại ngôi nhà ấy vì thị hiểu
mình đã tìm thấy những điều cịn q giá hơn cả miếng ăn, đó là tình người cao đẹp, đó là
tấm lịng nhân hậu của những con người sẵn sàng cưu mang, yêu thương thị khi chính họ
đang đói khát.
+ Người vợ nhặt đã biến đổi sâu sắc sau khi theo Tràng về nhà: vẻ chao chát, chỏng lỏn
đã thay bằng sự hiền hậu đúng mực, mau mắn trong việc làm, ý tứ trong cư xử.
- Vẻ đẹp trong tâm hồn bà cụ Tứ:
Việc con "nhặt vợ" giữa lúc túng đói quay quắt đã khiến bà bất ngờ, ngạc nhiên, nhưng
khi đã "hiểu ra bao nhiêu là cơ sự", trong lịng bà chỉ tràn ngập tình thương: thương con,
thơng cảm với nàng dâu, trăn trở xót xa về bổn phận làm mẹ. Cố tạo niềm vui cho các con
ngay trong bữa cơm ngày đói thê thảm khiến cho món ăn của lồi vật lại thắm đẫm tình
người…
b. "Sự túng đói quay quắt", "hồn cảnh khốn khổ" khơng ngăn cản được những người dân
xóm ngụ cư hy vọng vào cuộc sống- niềm hy vọng đã tạo nên vẻ đẹp rạng rỡ trong tâm
hồn họ.
Nhân vật Tràng: sau cảm giác "chợn" "sờ sợ" khi "thóc gạo này đến cái thân mình cũng
chưa biết có ni nổi khơng lại cịn đèo bòng", Tràng tặc lưỡi, liều lĩnh và từ lúc đó,
Tràng cảm nhận hạnh phúc đang và sẽ đến với cuộc đời mình. Việc mua hai hào dầu thắp,
cảm giác êm ái lửng lơ như trong giấc mơ đi ra, dự liệu về một tương lai khi hắn sẽ cùng
vợ mình sinh con đẻ cái ở đây"… Đặc biệt hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong đầu Tràng
đều là biểu hiện của niềm hy vọng mong manh mà vững chắc về tương lai.


Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

- Người "vợ nhặt": sự biến đổi trong thái độ, trong cách cư xử khi cùng mẹ chồng quét
tước cửa nhà cũng phần nào cho thấy niềm hy vọng và sự đổi đời đang âm thầm diễn ra
trong lòng thị.
- Bà cụ Tứ: là người thể hiện rõ nhất niềm hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn: bà cắt
đặt lo toan công việc, bàn về việc đan phên ngăn phịng, việc ni gà, động viên các con
bằng cả triết lý dân gian "ai giàu ba họ, ai khó ba đời", cùng con thu dọn cửa nhà cho
quang quẻ.
3. Đánh giá chung:
- Tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống đã làm nên vẻ đẹp vừa "thấm thía cảm
động", vừa rạng rỡ trong tâm hồn những người dân xóm ngụ cư.
- Phát hiện và miêu tả vẻ đẹp ấy trong tâm hồn người dân xóm ngụ cư, Kim Lân đã đem
đến cho tác phẩm tình cảm nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.
Bài văn mẫu 1
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân-một nhà
văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với
"thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết
"Xóm ngụ cư" khi hịa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên
truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn "Vợ nhặt" đã ra đời.
Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới,
một điểm sáng soi chiếu tồn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào
cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ
Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc
nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết

về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những
con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn
cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái
chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

sống cho ra con người". Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ
đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con
người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ"
tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng
thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ
lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một khơng gian năm đói thật thảm hại, thê
lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ
giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hồng của đám quạ. Bằng tấm lịng đơn hậu
chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm
sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng
rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ
Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở
cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật sự xuất sắc khi dựng lên tình huống "nhặt vợ" của
anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm
hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn
của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình
huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn,
làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở
các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước "xác
người chết đói ngập đầy đường", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước

"khơng khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người", từng ớn lạnh trước
"tiếng qua kêu từng hồi thê thiết" ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc
động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người
vợ của Tràng nữa.
Một anh thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người-một thân xác
vạm vỡ, lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch thơ kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết
bao nghĩa tình cao đẹp. "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào", vậy mà Tràng vẫn đèo
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

bịng thêm một cơ vợ trong khi anh khơng biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã
thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một
gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người
của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như
hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của
hạnh phúc lứa đơi. Hành động của Tràng dù vơ tình, khơng có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm
phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu
thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng
đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như khơng phải nhưng chính
tình cảm của vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách
nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng
thay đổi hẳn tâm tính. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở
thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như
một cái gì đó cứ "ơm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ
sống lưng". Tình u, hạnh phúc ấy khiến "trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả,
quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua". Và Tràng đã ước ao
hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay
đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp logic. Những thay đổi ấy khơng gì khác ngồi tâm hồn đơn

hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy
sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà
giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý
nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một
cảnh gia đình hạnh phúc. "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "hắn
thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà
cửa. Hành động cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự biến
chuyển lớn. Chính tình u của người vợ, tình mẹ con hịa thuận ấy đã nhen nhóm trong
hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả
người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy khơng thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua
đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước trước sức mạnh của cách
mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các
nhân vật của mình.
Người vợ nhặt khơng phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã
làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn
mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lỏn đến
cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó
chính là tình người, là tình thương u. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh
đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta khơng khinh miệt thị.
Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt quyền
sống con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong thư thế "vân vê tà áo đã
rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho

Tràng, làm biến đổi tất cả, từ khơng khí xóm ngụ cư đến khơng khí gia đình. Thị đã đem
đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa
một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít
song đó lại là nhân vật không thể thiếu đi trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh
Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật
thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lịng ca ngợi sức sống của vẻ
đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật
ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người
ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét
độc đáo vơ cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở
nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của
mình trong bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác
phẩm sẽ khơng có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim
Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế,
các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế
thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh khơng ngừng không những giữa các
nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một
điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo
vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà
trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên
bà cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan
xen lẫn lộn giữa nổi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà
thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cơ con dâu đang "vân vê tà áo đã rách

bợt" mà lòng đầy thương xót. Bà thiết nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn này, người ta
mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ
một câu thơi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vơ cùng: "Thơi, chúng mày phải dun phải kiếp
với nhau u cũng mừng lịng".
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp
nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ
khơng phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng
yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình.
Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn
lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu lịng đầy thương xót, trong tủi
cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khó ấy,
ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong
bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lịng những con
mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà,
rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói tồn truyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại.
Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lịng mình. Đặc biệt chi tiết nồi cám
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn bứ cổ và
đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lịng đơn hậu chất chứa u thương. Bà lão "lễ
mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu: "Chè khoán đây. Ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười
đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện khơng khỏi làm
chạnh lịng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung
chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới
trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành cơng ở
ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi

vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia.
Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ
chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao
cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả
tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân-một nhà văn được
đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
"Cái đẹp cứu vớt con người" (Đôxtôiepki). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể
hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lịng tin u vào cuộc sống là con
nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ơng đã đóng góp cho văn học Việt Nam
nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lịng người và tình người.
Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm
sáng tuyệt vời ấy.
Bài văn mẫu 2
Nạn đói năm 1945 mà thực dân Pháp gây ra cho chúng ta thật sự rất nặng nề, nạn đói
năm ấy không chỉ là vấn đề được nhắc đến trong lịch sử, trong các vấn đề xã hội lúc bấy
giờ mà nó cịn được nhắc đến trong văn học. Tác phẩm tiêu biểu nói về nạn đói năm ấy
chính là truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân – một nhà văn của làng quê. Kim Lân không
chỉ thành công trong việc xây dựng thành công nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng
mà ơng cịn thành cơng với việc miêu tả nạn đói năm 1945 trong truyện ngắn Vợ Nhặt.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đặc biệt tác giả khơng chỉ nói lên nạn đói ấy mà cịn khắc họa những tác động của nạn
đói lên nhân vât của mình mà cụ thể ở đây là Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. trong nạn
đói ấy con người Việt Nam vẫn lấp lánh vẻ đẹp của tình người và niềm tin vào cuộc sống.
Nạn đói năm 1945 được nhà văn Kim Lân miêu tả thật đau thương, nhưng chính cái
hồn cảnh đau thương ấy mới thấy được những vẻ đẹp của người dân Việt Nam ta. cái đói
đã tìm đến xóm ngụ cư của mẹ con Tràng. Buổi sáng ra đường đã thấy mấy cái xác bốc

mùi hơi thối, có những người đói nằm dài trên đường trưa về thì họ đã chết. Hôm nào
chẳng vậy phải đến ba bốn cái thây nằm trên đường. trên cao những tiếng quạ kêu thật
thảm thiết. Có thể nói tử thần đang bủa vây nơi đây.
Trước hết là vẻ đẹp tình người trong các nhân vật trong truyện, người đầu tiên cần
nhắc đến là anh Tràng. Anh cùng với mẹ già ở một xóm ngụ cư mà người dân ngụ cư thì
thường bị người ta khinh ghét. Tràng có một ngoại hình vơ xùng xấu xí anh có đơi mắt gà
gà, lưng to như lưng gấu. Anh làm nghề kéo xe thuê, anh thường kéo xe gạo lên tỉnh, có
đợt anh đang kéo thấy mấy cô ả ngồi chơi với nhau nhặt nhạnh những hạt lúa hạt thóc vãi
trên đường. Anh ngẫu hứng hị lên một câu:
“Có ăn cơm trắng với giị này
Lại đây mà đẩy xe bị với anh nì”
Khơng ngờ những cơ gái kia đã đáp lại Tràng, họ đẩy một cô gái ra chỗ anh và cười
tít. Chuyện cũng bắt đầu từ đấy, Tràng hứa thế nhưng anh cũng có hơn cơ gái đó là bao.
Sau chuyện ấy có lần anh đang ngồi uống nước thì thị chạy đến trơng thị khác lắm. cái
mặt gầy sọp lại nhìn như cái lưỡi cày. Thị như hiện thân của cái đói. Thế rồi thị địi ăn kêu
Tràng hơm trước nói dối, thị ăn liền bốn bát bánh đúc. Anh Tràng tưởng thế mà hào phóng
q. Nhưng thật sự mà nói trơng thị như thế Tràng cũng khơng nỡ từ chối, đó chính là cái
tình thương của anh Tràng dành cho Thị. Thị ăn xong theo anh về nhà Tràng, tràng nghĩ
bây giờ đến thân mình cịn chưa lo xong lại cịn đèo bịng nhưng anh vẫn tặc lưỡi mà đưa
Thị về nhà mình. Người trong xóm ngụ cư ai nhìn thấy cũng lo cho anh Tràng nhưng biết
làm sao được dẫu nạn đói hồnh hành nhưng tình thương người của Tràng đã khơng thể

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

bỏ mặc người phụ nữ kia được, thế là anh đã có vợ rồi, một người vợ nhặt ngồi đường.
Thế đấy trong nạn đói con người bị coi như cỏ rác có thể nhặt mà mang về được.
Vẻ đẹp tình người cịn thể hiện rõ trong người vợ nhặt kia, Thị xuất hiện thật xấu và

ghê gớm. Kim Lân cho Thị với một vẻ như hiện thân của cái đói, gầy gị “ mặt nhu lưỡi
cày”. Cái đói kia chính là ngun nhân làm cho Thị trở nên chỏng lỏn và mất đi vẻ duyên
dáng ấy. nghe anh Tràng tán gẫu thì tin ngay chạy ton ton ra đây xe bò với anh này. Gặp
lại anh Thị chẳng ngại gì nữa mặc cho khơng nhận ra mình Thị nhận lại để quen, rồi xà
xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc, ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng. có lẽ Thị
đói q nên khơng cịn để ý được sự tế nhị dịu dàng của một cô gái nữa. Thị chẳng biết đi
đâu nữa Thị theo Tràng về nhà, Thị nghĩ mình sẽ được sung sướng. Nhưng khi về nhà
Tràng thì mới vỡ lẽ ra, những điều Thị mơ tưởng thực sự không giống thực tại trước mắt.
Mặt Thị sầm lại nhưng Thị lại chấp nhận và quyết định ở lại cùng chán. Đó cũng là một
tình người đáng quý không thấy người sang bắt quàng làm họ khơng thấy nghèo khó mà
nỡ bỏ người ta ra đi.
Về phần bà cụ Tứ, bà là một người mẹ cao cả và giàu đức hi sinh. Đã ở cái tuổi xế
bóng chiều nhưng bà vẫn phải đi làm kiếm ít tiền để đối mặt với nạn đói. Khi trở về bà
thấy hành động của anh Tràng thấy bà linh cảm có điều gì đó. Khi vào trong sân nhìn vào
nhà thấy người đàn bà nọ, cụ Tứ giật mình rồi ngạc nhiên tự hỏi chính mình khơng biết
phải con cái Đục khơng. Nhưng khơng khi hiểu rõ sự tình cụ chỉ biết quay mặt đi dấu
những hàng nước mắt của mình. Cụ nghĩ tới cảnh đói mà nhà lại thêm một miệng ăn
nhưng dù sao như thế thì con cụ cũng có vợ. tình thương người trong cụ dâng lên, cụ
thương con trai, cụ thương cả con dâu nữa. Cụ nhìn người đàn bà mân mê vạt áo đã rách
bươm mà lấy làm thương xót. Cụ chỉ biết nói “ thôi chúng mày đã phải duyên phải kiếp
với nhau thì u cũng mừng”. tình thương của cụ thể hiện rất rõ khi cụ chấp nhận Thị và
khuyên răn họ rằng khơng ai nghèo ba họ khơn ai khó ba đời, chỉ cần qua cái đợt này thì
chúng mày cũng yên bề gia thất. Cụ không những thương con, nhân hậu, có hậu mà cịn
khun nhủ con hướng các con mình đến một tương lại sáng lạng hơn.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Và như thế ba con người ấy trong nạn đói thương lấy nhau, thơng cảm cho nhau và
cùng nhau vượt qua nạn đói. Đêm tân hơn của đơi vợ chồng trẻ thật sự khơng có rượu
nồng ấm, ngày cưới khơng có nồi đồng chén ngọc, mâm xơi con lớn béo, vò rượu tâm.
Tất cả chỉ là những tiếng khóc của những nhà có người chết và tiếng quạ kêu.
Khơng chỉ đẹp về tình thương người họ cịn lấp lánh một niềm tin vào tương lai tươi
sáng. Niềm tin ấy được thể hiện ở buổi sáng hôm sau. Khi mọi người thức dậy buổi sáng
hôm ấy khác với những buổi sáng thường ngày. Thức dậy chẳng ai bảo ai mỗi người một
tay làm việc nhà, Tràng dậy sau cùng thấy nhà của hôm nay tươm tất sạch sẽ quá. Cái áng
khô cong đã được kéo nước đầy ắp, người vợ của anh đang phụ mẹ chồng quét dọn nhà
cửa xong lại nhổ những búi cỏ trong vườn. Tràng cảm thấy anh phải có trách nhiệm và gia
đình nhỏ của mình rồi. bữa sáng được dọn ra đó là niêu cháo lõng bõng nước nhưng họ
vẫn ăn rất vui vẻ. Trong lúc ăn cụ Tứ cịn nói chuyện tương lại với hai con. Cụ tính chỗ
vườn kia sẽ ni một đàn gà, họ nói chuyện về tương lai với một niềm tin đổi đời. Đang
vui thì cháo hết, bà cụ Tứ mang lên một nồi chè khoản, hai vợ chồng Tràng háo hức
nhưng khi ăn miếng “chè” thì Thị phải nuốt cố vì nó q chát. Khổ đến mức phải ăn cả
cám nhưng có những nhà cám khơng có mà ăn. Thế rồi tiếng trống giục thuế kêu lên, Thị
kể về những người cướp xe thóc của giặc đầy đê và mang theo lá cờ đỏ sao vàng. Từ lúc
đó trong đầu Tràng cứ phấp phới lá cờ đỏ sao vàng ấy. Có lẽ đó là con đường mà Tràng
đang dần dần giác ngộ đi tới. Nhà văn Kim Lân đã mở một con đường tương lai mới cho
nhân vật của mình.
Qua đây có thể khẳng định ngay cả trong nạn đói nhân dân ta vẫn cứ yêu thương đùm
bọc lấy nhau, lá lành đùm lá rách. Trước thực tại đau khổ và chết chóc họ khơng thơi nhìn
về tương lai với một niềm tin đổi đời và thật sự ở cuối tác phẩm đã lóe sáng một con
đường đổi đời mới làm tác giả muốn nhắc đến. hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng như thể hiện
quy luật đến với cách mạng của những người dân Việt Nam.
Bài văn mẫu 3
Số lượng tác phẩm ít, nhưng sáng tác nào của Kim Lân cũng đều chứa đựng những
giá trị cốt lõi quý giá, lấy nền tảng hiện thực làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

rộng, ảnh hưởng lớn đến tâm hồn của người đọc. Chính vì lẽ ấy, thế nên Kim Lân một tác
giả khơng học hành nhiều, nhưng có óc sáng tạo phong phú, đi sâu vào đời sống của nhân
dân, đồng thời thấu hiểu nội tâm và vẻ đẹp tâm hồn của họ đã vinh dự được xếp vào là
một trong 10 tác giả tiêu biểu nhất cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Cùng viết về chủ
đề người nông dân khốn khổ trước cách mạng tháng 8, thế nhưng khác hẳn với Nam Cao
hay Thạch Lam, luôn mang đến cho độc giả những cái chết xa hoặc gần, những cái tăm
tối, bế tắc khơng hồi kết, thì ở Vợ nhặt, Kim Lân đã khéo léo mang lại ánh sáng cho
người đọc giữa một khung cảnh ngột ngạt của nạn đói năm 1945. Ánh sáng đó xuất phát
từ vẻ đẹp của tình người ấm áp và niềm hy vọng sống còn vẫn tiềm ẩn trong mỗi một
nhân vật Tràng, Thị, và bà cụ Tứ, dẫu rằng phận đời của họ cũng mấp mé cảnh chết đói.
Bối cảnh câu chuyện diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu
đồng bào ta ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói, đó là cái nạn đói khủng khiếp mà nhà
văn Nam Cao đã không khỏi ám ảnh nhắc lại rằng "có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng
ta vẫn cịn kể lại cho nhau nghe để rùng mình". Ở xóm ngụ cư, nơi diễn ra câu chuyện,
giữa nạn đói ấy Kim Lân đã gợi lại một viễn cảnh thê thảm, tiêu điều của một giai đoạn
đau thương nhất lịch sử dân tộc bằng những câu văn nhẹ nhàng ẩn chứa nhiều nỗi niềm
đau xót. Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt, thất thểu đi trên đường làng, ai nấy
đều "xanh xám như bóng ma", người đói "ngổn ngang khắp lều chợ", thần chết có lẽ đã
triển khai ngay một cuộc tàn sát khi mà "người chết như ngả rạ", "khơng khí vẩn lên mùi
ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Những người cịn sống có lẽ cũng đã xác
định trước cái chết của mình, họ lầm lũi bước chầm chậm về phía nghĩa địa, kẻ "dật dờ
lặng lẽ đi lại như bóng ma". Bao trùm lên tồn bộ khơng gian ấy là tiếng quạ kêu thảm
thiết từng hồi, như một loại kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết khơng có chỗ chơn.
Bởi lẽ lúc ban đầu người ta cịn có sức chơn, sau vì đói, vì người chết nhiều q nên
người ta mặc kệ. Thậm chí, cái đói nó cịn hóa thú cả con người, những kẻ sống sót từ nạn
đói ấy có lẽ cũng có vài người nghe đến tên món thịt người cứu đói. Chao ơi, cái sự sống
khốn khổ trong văn của Kim Lân nó thật thấm thía và nhiều ám ảnh.


Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Tuy nhiên Kim Lân, khơng cốt để phản ánh hiện thực chết chóc, đau thương hay lên
án cái xã hội đày đọa bất công này, mà ông tập trung nhiều hơn về con người và vẻ đẹp
tiềm ẩn trong họ. Từ nạn đói, bước ra 3 nhân vật rất tiêu biểu ấy là Tràng, Thị và bà cụ
Tứ, những con người cũng bị cái đói hành hạ đến thê thảm. Trước hết nói về nhân vật
Tràng, là một người dân ngụ cư, xấu xí, và nghèo đói, tính tình vơ tư khơng lo nghĩ, chính
vì thế Tràng khơng có nổi một tấm vợ. Anh cùng người mẹ già của mình nương tựa nhau
trong một cái chịi rách phía rìa làng, ngày ngày anh làm nghề kéo xe bị th để kiếm
miếng ăn, nhưng ngày càng đói kém và công việc của anh cũng trở nên bấp bênh, bữa
được bữa mất. Tuy nhiên cuộc đời khốn khó và bế tắc của Tràng bỗng có một bước ngoặt
lơn khi anh "nhặt" được một cơ vợ giữa buổi đói kém. Một cô vợ theo không anh chỉ sau
hai lần gặp gỡ và bốn bát bánh đúc. Từ một câu nói bơng đùa "Muốn ăn cơm trắng mấy
giị, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh" khởi đầu nhân duyên và một lời cầu hôn cũng nửa
thật nửa đùa hợp với tính vơ tư của Tràng "Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi
cùng về", người đàn bà cong cớn, sưng sỉa, tàn tạ ấy đã sẵn sàng theo không Tràng, không
cần mối lái, cưới xin, lễ hỏi gì sất, hai người đã thành vợ chồng dễ dàng như thế. Có thể
nói rằng chưa có lúc nào mà con người ta lại xuống giá đến mức ngang bằng cọng rơm
cọng rác có thể nhặt bất cứ đâu ở ngoài đường như thế, khốn khổ cho một kiếp người bị
cái ăn, cái đói ép uổng. Tràng khơng ngờ rằng mình lại có được vợ bằng cái cách ấy, ban
đầu anh cũng khơng có cái gọi là tình u trai gái gì với thị, chỉ đơn giản rằng anh đồng
cảm, thương xót cho người đàn bà khốn khổ đã đói đến mức vật vờ, sắp chết nên đãi thị
bốn bát bánh đúc. Đó là cái lịng lương thiện, là tình người khi sống với nhau ở trên đời
của Tràng, người ta đâu thể hứa suông rồi không làm, người ta cũng đâu thể chứng kiến
một mảnh đời tàn tạ, tội nghiệp sắp lìa đời, trong khi bản thân có thể giúp đỡ họ bằng 4
bát bánh đúc. Nhưng khi đã thành vợ, thành chồng, dường như trong lòng Tràng có cái gì

đó nảy nở, Tràng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải săn sóc và quan tâm đến cái người đàn
bà đang đi bên cạnh mình. Tràng bỗng lột xác từ anh chàng khù khờ, cục mịch trở thành
một người đàn ông tinh tế, thấy vợ rách nát tàn tạ q, lại khơng có đồ đạc gì ngồi cái
nón rách, anh dẫn thị vào chợ tỉnh mua lấy một cái thúng con và vài đồ lặt vặt. Thương thị
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

khơng có được một đám cưới đàng hoàng, Tràng lại dẫn vợ đi ăn mừng cưới một bữa no
nê, thậm chí phá lệ mua hai hào dầu về thắp đèn, cho cửa sáng sủa để đón thị về làm dâu
mới cho có khơng khí. Tràng bỗng nhiên trưởng thành, thứ tình cảm với thị khơng chỉ cịn
nằm ở lòng thương hại, mà giờ đây đã trở thành tình thân, tình yêu, thứ tình cảm ấy khiến
con người ta trưởng thành, nhân hậu và tinh tế hơn hẳn. Một niềm hy vọng sống và mưu
cầu hạnh phúc mãnh liệt đã thắp lên trong tâm hồn Tràng "trong một lúc Tràng như quên
hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả
những tháng ngày trước mặt". Tình yêu, hạnh phúc lứa đơi đã xóa mờ đi tất cả những khó
khăn chất chồng, sự đe dọa của đói kém, mở ra trong lòng nhân vật những cảm xúc,
những hy vọng mới mẻ, niềm tin mãnh liệt về một cuộc sống khấm khá hơn. Sau đêm tân
hôn, trước "cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm
động. Bỗng nhiên hắn thấy thương u gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng", Tràng cảm
nhận được rõ "một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng". Tràng đã nhận thức
được trách nhiệm của bản thân với cuộc sống, với gia đình "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên
người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này" và biến nó thành hành
động "hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
căn nhà". Việc ý thức được phải lo lắng cho gia đình sau này, hay hành động tu sửa căn
nhà rách nát chính là biểu hiện rõ nét nhất về niềm hy vọng vào một cuộc sống tương lai
tốt đẹp đang đón chờ của nhân vật. Trách nhiệm và ý thức về cuộc sống hiện tại, đã mở ra
trong lòng Tràng khao khát đổi đời, thay đổi cái sự sống khốn khó này bằng một cách nào
đó. Hình ảnh "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới" chính là giải pháp, là niềm tin,

niềm hy vọng mới của Tràng, mở ra cho anh một con đường sáng, đưa cả gia đình thốt
khỏi cảnh bế tắc và tối tăm này.
Nhân vật thị, một người đàn bà khốn khổ, không tên tuổi, quê quán, dân ngụ cư, cong
cớn sưng sỉa vì miếng ăn, cuối cùng theo khơng anh Tràng cũng vì miếng ăn, vì muốn
tránh khỏi cái lưỡi hái của Tử thần. Cuộc đời của thị chính là tiêu biểu cho một loạt các
cuộc đời có số phận tựa rơm rác giữa nạn đói năm 1945, bần cùng, thê thảm và tàn tạ. Ban
đầu độc giả có thể có chút ác cảm với thị, một người đàn bà đã xấu người lại còn được cái
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

xấu nết, thế nhưng sau tất cả người ta mới thấy rằng vì thị thiếu thốn quá, thiếu ăn thiếu
mặc, thiếu sự bảo bọc chở che, sắp chết tới nơi thì người ta cịn biết cái gì là liêm sỉ, mặt
mũi nữa, thị khao khát được sống, cầu được sống, thị trân trọng mạng sống của mình. Thế
nên thị buộc phải cong cớn, sưng sỉa để được ăn và cuối cùng là về làm vợ Tràng, ngẫm
cảnh thị khép nép theo chồng về nhà, ngồi trong nhà Tràng một cách ngượng nghịu, người
ta lại thấy thương hơn thấy ghét. Thật là một người đàn bà tội nghiệp. Thế rồi thấy cái
cách chị hành xử trong gia đình, người ta mới dần nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của thị, khi
nhìn thấy cái căn chịi rách nát của Tràng thị đã không khỏi thất vọng, thở dài, thế nhưng
thị không tỏ ý chê trách, đỏng đảnh mà trái lại thị chọn im lặng, quyết tâm cùng chồng
vun vén, tạo dựng hạnh phúc cho gia đình. Có lẽ rằng trong lòng thị vẫn còn nhớ cái ân
nghĩa của người chồng cho thị 4 bát bánh đúc, cứu thị khỏi chết đói, và thị cảm động bởi
cái sự săn sóc của Tràng. Cuối cùng thị cũng có một mái ấm, một tình thân, và thị càng
trân quý hơn cái tình cảm của bà mẹ chồng dành cho mình, bà đã không chê thị là loại con
dâu theo không, trái lại cịn bảo ban, săn sóc. Sau đêm tân hơn, thị đã dậy sớm, ra sức vun
vén, thu dọn nhà cửa, đem quần áo rách ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang
hoàng nhà cửa, lột xác trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, biết chăm lo. Điều
ấy đã chứng tỏ trong lòng thị thật sự trân q thứ tình thân vừa mới có được và thị muốn
hết lịng vì nó. Trong bữa cơm sáng, trước món "chè khốn", đắng ngắt và khó khăn, mắt

thị tối lại, thị tủi thân, nhưng hơn hết là thị thương bà cụ, một người mẹ già nghèo khó
khơng có tiền bạc chuẩn bị cho con cái được bữa chè mừng cưới, buộc lịng bà phải đãi
món chè khốn. Chính vì thế thị đã giấu đi nỗi thất vọng và buồn tủi của mình cốt để bà
cụ khỏi buồn, và khơng phá vỡ đi cái khơng khí gia đình đang đầm ấm, n vui này. Bên
cạnh đó ngồi vẻ đẹp tình thân, ở nhân vật thị cũng toát lên một niềm hy vọng vào cuộc
sống rất mãnh liệt, thị đã nhắc đến chuyện người ta đi phá kho thóc của nhật, và lòng thị
cũng dần rộn lên những suy nghĩ về việc đi cướp thóc, cải thiện cuộc sống, thị tin rằng
tương lai bằng đôi bàn tay của thị, Tràng và bà cụ Tứ sẽ ngày một tốt đẹp hơn, tươi sáng
hơn.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Với nhân vật bà cụ Tứ, có lẽ rằng đây là nhân vật bộc lộ một cách rõ nét nhất về tình
thân và niềm hy vọng vào cuộc sống, mặc dù bà cụ đã là người gần đất xa trời. Người phụ
nữ hiền hậu, nghèo khó cả đời buôn ba khốn khổ nuôi con khôn lớn, khi con lớn rồi thì bà
lại cứ mãi day dứt về chuyện không thể cưới nổi vợ cho con. Thế nên khi nghe chuyện
Tràng cưới vợ, bà cụ ban đầu là sửng sốt, hoang mang, sau ấy là trở nên tủi hơn "cúi đầu
nín lặng". Bà xót xa cho cái phận mình, phận con, người ta cưới xin lúc ăn nên làm ra,
nhà có của dư của để, đãi làng đãi xóm, cịn con mình lại lấy vợ ngay giữa nạn đói, khơng
cỗ bàn, cưới hỏi, giữa cái khơng khí thê thảm, tiêu điều của làng xóm, nghĩ mà thêm chua
xót. Lịng của người mẹ thương con khơng chỉ buồn bã, tủi phận mà cịn lo lắng một nỗi
rằng khơng biết rồi đơi vợ chồng có thể dìu dắt nhau qua được cái nạn đói khủng khiếp
này khơng. Từ nỗi lo bà cụ là người từng trải, nên cũng nhanh chóng lạc quan và thông
suốt bà thương con và thương cả người đàn bà đã theo con mình, phải vào bước đường
cùng thì người ta mới chịu lấy con mình, chứ nào đâu có dễ dàng gì, vì thế bà lại càng
thêm quý trọng mối nhân duyên này. Bà cụ đã thật hiền từ mà nhanh chóng gật đầu cho
mối hơn sự "Ừ thơi thì các con đã phải dun phải kiếp với nhau u cũng mừng lắm". Rồi

xuất phát từ tấm lòng của người mẹ bao dung, nhân hậu bà liên tục cho các con những lời
dặn dò, động viên tinh thần để các con chăm lo làm ăn, ổn định cuộc sống, cùng xây dựng
hạnh phúc gia đình. Tuy ít học hành, nhưng bà cụ Tứ thật xứng đáng là người mẹ hiền,
thơng tuệ, có tấm lịng u thương con sâu sắc, biết chia sẻ và giúp đỡ các con trong cơn
đói kém bằng sức mạnh của tình thân, tình người. Sau đêm tân hơn, bà cụ đã xua đi cái
khơng khí u ám, buồn rầu của nạn đói bằng cách liên tục kể các câu chuyện vui, gieo vào
lòng con trai con dâu những niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng với các kế
hoạch làm ăn, nuôi gà,... vạch ra một chặng đường tương lai đầy hứa hẹn khiến khơng khí
gia đình trở nên sơi nổi, hạnh phúc. Lòng người mẹ thương con, còn bộc lộ thơng qua
hình ảnh nồi chè khốn, bà cụ Tứ nghèo khó khơng có tiền đãi con được bữa chè ngon
ngọt, chỉ có một nồi cháo cám, đắng ngắt, nghẹn bứ ở cổ, nhưng ấy là tấm lòng của người
mẹ, đang cố xua đi những cái đói, cái u ám của sự tử vong dần lan trên xóm ngụ cư.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc, ở đó vẻ đẹp của
tình thân tình người, niềm tin và niềm hy vọng vào cuộc sống vẫn hiện lên một cách tiềm
tàng và âm ỉ trong tâm hồn mỗi con người, mà khơng hề bị cái đói, cái chết vùi dập, chôn
lấp. Trái lại dựa vào sức nuôi dưỡng mạnh mẽ của tình thân, thì hy vọng sống cịn của con
người càng trở nên mạnh mẽ và tỏa sáng, mở đường cho con người thoát khỏi cảnh bế tắc,
khốn cùng.
Bài văn mẫu 4
Bằng tài năng nghệ thuật cùng vốn hiểu biết sâu sắc về cuộc sống và tâm hồn của
những người nông dân nhà văn Kim Lân đã tái hiện thành công chân dung của những
người nông dân nghèo. Truyện ngắn Vợ nhặt, một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của
mình, Kim Lân khơng chỉ thể hiện sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống của người nông dân
mà cịn thể hiện được vẻ đẹp tình người cùng khát vọng mãnh liệt về một cuộc sống tươi

đẹp qua các nhân vật anh cu Tràng, chị vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ là tác phẩm tiêu biểu bậc nhất trong sự nghiệp sáng
tác của nhà văn Kim Lân mà còn là tác phẩm đặc sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Vợ nhặt là câu chuyện về anh cu Tràng vơ tình nhặt được vợ trong thời điểm khủng khiếp
nhất của nạn đói, qua đó tác giả Kim Lân cũng thể hiện được vẻ đẹp của tình người, của
khát vọng sống mãnh liệt và niềm tin của những con người nghèo khổ về một tương lai
tươi sáng. Vẻ đẹp sự sống tuyệt vời này được bao trùm trong toàn tác phẩm, qua những
nhân vật trong câu chuyện như: anh Tràng, bà cụ Tứ, chị vợ Nhặt.
Cái đói, cái nghèo dữ dội, khủng khiếp, nó đẩy con người ta vào sự đau thương của
chết chóc, chia lìa, đặt con người đứng trên ranh giới của sự sống và cái chết nhưng bằng
tình thương, lịng nhân ái, những con người đói khổ ấy vẫn vươn lên cái chết, cái ảm đạm
để thắp sáng niềm tin cho cuộc sống của chính mình.
Trước hết là nhân vật Tràng, theo miêu tả của nhà văn Kim Lân, đây là một người đàn
ơng nghèo khổ sống ở xóm Ngụ cư, tính cách thật thà, chịu khó làm ăn nhưng lại có phần
hơi ngờ nghệch. Tuy nhiên, vẻ bề ngồi thơ kệch lại nghèo khó khơng thể phủ nhận được
con người tình nghĩa, “hào phịng” bên trong của anh Tràng. Trong cái đói khủng khiếp,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

miếng ăn là nhu cầu cần thiết và trên hết nhưng anh Tràng vẫn sẵn sàng chia sẻ miếng ăn
cho người phụ nữ đã đẩy xe bò thóc cho mình, chấp nhận cưu mang người đàn bà xa lạ
trong khi cuộc sống của mình cũng khơng mấy khá khẩm hơn.
Qua hành động mua hai hào dầu để thắp sáng trong đêm đầu tiên chị vợ nhặt về nhà
đã thể hiện sự hào phóng cũng như tình nghĩa của anh Tràng. Hành động mua dầu vơ
cùng hào phóng này khơng chỉ nhằm mục đích tạo ra sự đặc biệt như một sự chào đón với
người vợ mới mà còn thể hiện sự trân trọng của anh Tràng đối với chị vợ Nhặt và với
hạnh phúc khó khăn lắm mới có được này của mình.
Anh Tràng là người sống có tình nghĩa và trách nhiệm, tuy hồn nhiên ngờ nghệch

nhưng anh vẫn nhận ra sự buồn bã, thất vọng cố giấu của người vợ, cũng từ đó anh tự đặt
ra trách nhiệm với bản thân để lo cho vợ con, tinh thần trách nhiệm này thể hiện qua suy
nghĩ tu sửa căn nhà, nơi anh sẽ sống những ngày tháng tươi đẹp với vợ, con.
Chị vợ nhặt là người chao chát, chỏng lỏn nhưng khi theo anh Tràng về nhà chị đã
thay đổi với sự hiền hậu đúng mực. Trước gia cảnh nghèo khó của mẹ con anh Tràng, tuy
thất vọng nhưng chị vẫn cố giấu sự thất vọng trong tiếng thở dài. Cũng như anh Tràng, chị
vợ Nhặt cũng rất trân trọng đối với hạnh phúc bất ngờ có được trong nạn đói này. Chị chủ
động bắt chuyện với bà cụ Tứ, dậy sớm chuẩn bị cơm nước, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ
chồng.
Bên trong người đàn bà ấy là vẻ hiền hậu cùng với trái tim khát khao hạnh phúc, có lẽ
bởi vậy mà chị chấp nhận cái nghèo vây hãm, chấp nhận ở lại cùng mẹ con anh Tràng.
Cũng bởi ở ngôi nhà lụp xụp nhưng ấm áp tình thương này cho chị cảm giác hạnh phúc
của một người vợ, người con.
Bà cụ Tứ lại là nhân vật điển hình cho những người mẹ Việt Nam trong xã hội bây
giờ. Trước sự tình con trai “nhặt” được vợ, bị đặt vào sự đã đành nhưng sau giây phút bất
ngờ bà đã chấp nhận sự xuất hiện của một người con dâu xa lạ. Trách nhiệm của người
mẹ khiến bà xót xa vì chưa lo được cho con đầy đủ, người mẹ ấy cũng cố gắng tạo ra
niềm vui cho các con bằng những câu chuyện về tương lai tốt đẹp.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Trong khơng gian u ám, đen tối của nạn đói, tình người và sự sống mãnh liệt trong
tâm hồn những con người xóm Ngụ cư vẫn tỏa rạng, làm cho bức tranh nạn đói trở nên
tươi sáng hơn. Thấu hiểu và khắc họa thành công những vẻ đẹp tiềm ẩn ấy, nhà văn Kim
Lân đã cho người đọc thấy được tinh thần nhân đạo sâu sắc trong Vợ nhặt.
Bài văn mẫu 5
Kim Lân là nhà văn có sở trường về đề tài nông thôn, người nông dân, những tác

phẩm của ông không chỉ hướng đến thể hiện những hiện tượng nổi bật của xã hội đương
thời mà còn thể hiện được tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ông sáng tác không nhiều nhưng
những sáng tác đều mang giá trị cao. Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc của Kim Lân khi viết đề
đề tài nạn đói năm 1945. Viết về nạn đói nhưng Vợ nhặt khơng nhằm mục đích phơi bày
cái chết chóc, đau thương của nạn đói mà từ cảnh ngộ của mỗi nhân vật, tác giả đã thể
hiện được hơi ấm của tình người cũng như niềm hi vọng vào cuộc sống, điều này được
thể hiện rõ nét qua các nhân vật: anh Tràng, chị vợ nhặt, bà cụ Tứ.
Vợ nhặt viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945, nạn đói hồnh hành khiến cho không
gian xã hội trở nên ngột ngạt, tù túng với ám ảnh khủng khiếp về cái chết. Từ đầu phố đến
cuối ngõ là cảnh người chết như ngả rạ, người sống thì lay lắt, vật vờ như những bóng
ma, đó là những con người đáng thương đang đứng trên bờ vực của sự sống và cái chết.
Tuy nhiên, cũng trên cái nền đen tối, ám ảnh khủng khiếp bởi nạn đói, sự chết chóc ấy
vẫn nổi bật lên ánh sáng của tình người, của niềm hi vọng vào sự sống. Trong những hoàn
cảnh khốn cùng nhất, những con người khốn khổ vẫn khơng đánh mất đi những nét đẹp
vốn có của mình mà vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình thương, của niềm hi vọng.
Tràng là người đàn ông xấu xí, nghèo khổ sống ở xóm Ngụ cư, tuy nhiên trái với vẻ
ngồi xấu xí, gia cảnh nghèo hèn bên ngoài, Tràng hiện lên là một con người ấm áp, giàu
tình thương. Tràng chấp nhận cưu mang người đàn bà xa lạ, đói rách mà bỏ mặc những
gánh nặng khủng khiếp của thời kỳ đói khát. Khơng những thế, sau khi vơ tình “nhặt”
được vợ, Tràng đã khơng tỏ thái độ coi thường mà ngược lại rất trân trọng đối với người
vợ nhặt này.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Trong đêm đầu tiên vợ về nhà, Tràng đã bỏ 2 hào mua dầu, đây được coi là hành động
hào phóng, bởi trong nạn đói nhu cầu cấp thiết là miếng ăn nhưng anh Tràng đã bỏ tiền
mua dầu để làm cho đêm đầu tiên vợ về nhà trở nên đặc biệt hơn. Sau khi có vợ, Tràng ý

thức được việc mình đã có vợ, đã có một gia đình nhỏ đúng nghĩa, từ đó thấy mình có
trách nhiệm lo cho vợ, cho gia đình.
Người vợ nhặt là người đàn bà khốn khổ bị nạn đói vắt kiệt sự sống, thể hiện ở thân
hình tiều tụy, vẻ ngoài rách rưới, ban đầu chị ta tạo ấn tượng với người đọc với vẻ chao
chát, chỏng lỏn không kém phần vơ dun khi vơ tư địi anh Tràng trả cơng đẩy xe bị.
Tuy nhiên, từ khi theo anh Tràng về làm vợ thì người đàn bà ấy đã thay đổi hẳn, khơng
cịn sự chao chát, chỏng lỏn mà đã trở thành người vợ hiền hậu đúng mực. Khi chứng
kiến gia cảnh nghèo khó của anh Tràng, dù thất vọng nhưng chị ta vẫn cố giấu sự thất
vọng trong ánh mắt tối lại, trong tiếng thở dài cố nén.
Dù có chút buồn, thất vọng khi chứng kiến hoàn cảnh nghèo khó của anh Tràng
nhưng khát khao hạnh phúc vẫn nhen nhóm để người đàn bà ấy chủ động nắm giữ, chủ
động vun vén hạnh phúc gia đình: cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa, trong phần cuối tác
phẩm chị vợ nhặt cũng đã thoáng nghĩ đến sự thay đổi, hy vọng vào một tương lai tươi
sáng của cuộc sống thể hiện qua chi tiết nhắc đến chuyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang
người ta khơng chịu đóng thuế, phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo.
Nhân vật bà cụ Tứ đã thể hiện rõ nét nhất vẻ đẹp của tình người. Trước tình thế bất
ngờ khi anh con trai dẫn về người đàn bà lạ mặt, bà cụ Tứ không tỏ ra rẻ rúng, coi thường
đối với người phụ nữ theo khơng con mình về làm vợ “Ừ thơi thì các con đã phải duyên
phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, sau giây phút ngạc nhiên bà đã chấp nhận người
đàn bà như dâu con trong nhà.
Trước hạnh phúc bất ngờ của con trai, bà vừa mừng cho con, vừa tủi cho mình vì thân
là mẹ mà chẳng thể lo cho con, để con phải “nhặt” vợ trong cảnh túng đói. Bao cảm xúc
phức tạp từ vui mừng, lo lắng, buồn tủi, hi vọng của bà cụ Tứ đều xuất phát từ tấm lòng
thương con của bà.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Khơng chỉ thương con mà bà cụ Tứ cịn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai, bà khơng
ngừng động viên các con chịu khó làm ăn với triết lí dân gian “Khơng ai giàu ba họ,
khơng ai khó ba đời”, hướng các con đến ánh sáng của tương lai. Để tạo ra sự đổi thay
của cuộc sống, bà cụ Tứ đã cùng con dâu dọn dẹp nhà cửa, nói những câu chuyện về
tương lai.
Thơng qua ba nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã thể hiện
nỗi đồng cảm với số phận của con người, đồng thời thể hiện sự trân trọng đối với sức
mạnh của tình thương, của niềm hy vọng có thể vượt lên mọi ám ảnh đói khát để tỏa rạng.
Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm />
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×