Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Lý luận của kinh tế chính trị học Mác – Lênin về dịch vụ và một số hàng hoá đặc biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.49 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………..…….……
1
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu………………………………………...
….1
3. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………..….…
1
B. NỘI DUNG………………………………………………………………….………
2
Chương

1:



luận



bản…………………………………………………………….2
1.1. Dịch vụ………………………………………...……………………………
2
1.1.1. Khái niệm dịch vụ theo Kinh tế Chính trị Mác – Lê
Nin………….2
1.1.2.

Một

số


quan

niệm

khác

về

dịch

vụ………..

……………………….2
1.2.

Khái

niệm



đặc

điểm

của

các

loại


hàng

hóa

đặc

biệt……………………..4
1.2.1. Quyền sử dụng đất đai……………………………... ……….
…….4
1.2.1.1.

Khái

niệm………………………………………………...4
1.2.1.2 Đặc điểm. …………………...……………………………
4
1.2.2.

Thương

hiệu.

……………………………………………………...5
1.2.1.1.

Khái

niệm………………………………………………...5
1.2.1.2 Đặc điểm. …………………...……………………………



5
1.2.3. Chứng khoán, chứng quyền và một số giấy tờ có giá ………….…
6
1.2.3.1. Chứng khốn……………………………………….….…
6
1.2.3.2. Chứng quyền và chứng quyền có bảo đảm..
……………...6
1.2.3.3. Một số giấy tờ có giá ………………………………….…
7
Chương 2: Sự phát triển của dịch vụ và các loại hàng hóa đặc biệt ở Việt Nam
hiện

nay….…………………………..……………………………………………..

………10
2.1. Dịch vụ y tế trước và trong thời buổi dịch bệnh COVID-19 ở Việt Nam...10
2.1.1. Dịch vụ y tế tư nhân………………………………………….
…..10
2.1.1.1. Vai trò của dịch vụ y tế tư nhân trong phát triển hệ thống
y

tế

..………………..

………………………………………………………........12
2.1.1.2. Quản lý Nhà nước đối với dịch vụ y tế tư nhân….
……..13

2.1.2.

Dịch

vụ

y

tế

nhà

nước…………………………………………….14
2.2.

Một

số

vấn

đề

của

các

loại

hàng


hóa

đặc

biệt……………………………...18
2.2.1. Bất cập trong chứng khốn………………………………………18
2.2.2. Vi phạm về thương hiệu…………………………………………20
2.2.3.

Khó

khăn

trong

quản



đất

đai…………………………………..21
C.KẾT
LUẬN………………………………………………………………………...24
PHỤ

LỤC




BẢNG

PHÂN

CƠNG

NHIỆM

VỤ

TRONG


NHÓM………………..25
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..………….…26


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới khơng chỉ đơn thuần có những sản phẩm vật chất cụ thể mà cịn có
sự hiện diện của sản phẩm dịch vụ. Dịch vụ đóng góp lớn vào sự tăng trưởng nhanh
chóng của nền kinh tế thế giới và của từng quốc gia, tạo công ăn việc làm cho rất
nhiều lao động. Trên cán cân thanh toán, thương mại dịch vụ chiếm đến 15% giá trị
tổng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ toàn thế giới. Các Mác cũng cho rằng: dịch vụ là
con đẻ của nền sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, khơng phải ai cũng nhận thức rõ ràng
được về khái niệm, quy mô và những vấn đề liên quan đến dịch vụ cũng như một vài
loại hàng hóa đặc biệt. Nhất là trong thời buổi chuyển giao công nghệ 4.0 như hiện
nay, việc bổ sung những kiến thức và hiểu biết về dịch vụ và các loại hàng hóa đặc biệt
là rất cần thiết.

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, với đề tài tiểu luận cuối kì mơn
Kinh tế Chính trị Mác - Lênin, nhóm em xin chọn đề tài “Lý luận của kinh tế chính trị
học Mác – Lênin về dịch vụ và một số hàng hoá đặc biệt. Liên hệ thực tiễn.” để nghiên
cứu với mong muốn giúp người đọc được hiểu cũng như biết rõ hơn về vấn đề trên.
2.Mục đích và đối tượng nghiên cứu
Bài tiểu luận nhằm tìm hiểu và phân tích để làm sáng tỏ khái niệm, cấu trúc và
những vấn đề hiện nay của dịch vụ cũng như các loại hàng hóa đặc biệt, đó có thể là
những bất cập trong chứng khoán, những vi phạm thường xuyên xảy ra trong vấn đề
thương hiệu hay là hiện trạng của một số loại giấy tờ có giá. Đồng thời bài tiểu luận
liên hệ tới dịch vụ y tế ở Việt Nam trong thời buổi đấu tranh với sự trở lại mạnh mẽ
của đại dịch COVID – 19.
3.Phương pháp nghiên cứu
Các thành viên cùng làm việc nhóm, dựa trên dàn ý của bài tiểu luận, mỗi thành
viên sẽ tự tham khảo sách, báo điện tử, các tài liệu có liên quan v.v. đến vấn đề cần
nghiên cứu. Sau đó nhóm trưởng chọn lọc các ý kiến hay, thống nhất lại và đưa bản
báo cáo ra cho các thành viên cùng xem để quyết định có sử dụng thơng tin đó hay
khơng. Nội dung bài tiểu luận cuối cùng sẽ được các thành viên cùng kiểm tra để tìm
ra các lỗi sai hoặc chưa hợp lý để đạt được sự chính xác cao nhất.

4


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1. Dịch vụ
1.1.1. Khái niệm dịch vụ theo Kinh tế Chính trị Mác – Lê Nin
Dịch vụ là một loại hàng hóa, nhưng đó là một loại hàng hóa vơ hình.
Để có được các loại dịch vụ, người ta cũng phải hao phí sức lao động và mụ
đích của việc cung ứng dịch vụ cũng là nhằm thỏa mãn nhu cầu của người có nhu cầu
về loại hình dịch vụ đó. Giá trị của dịch vụ cũng là lao động xã hội tạo ra dịch vụ. Giá

trị sử dụng của dịch vụ không phải là phục vụ trực tiếp người cung ứng dịch vụ.
Thời kỳ C.Mác nghiên cứu, dịch vụ chưa phát triển mạnh mẽ như ngày nay. Khi
đó, khu vực chiếm ưu thế của nền kinh tế vẫn là sản xuất hàng hóa vật thể hữu hình.
Khu vực dịch vụ chưa trở thành phổ biến. Cho nên trong lý luận của mình, C.Mác
chưa có điều kiện để trình bày dịch vụ một cách sâu sắc. Điều này làm cho nhiều
người ngộ nhận cho rằng, C.Mác chỉ biết tới hàng hóa vật thể. Trái lại, theo C.Mác,
dịch vụ nếu đó là dịch vụ cho sản xuất thì nó thuộc khu vực hàng hóa cho sản xuất,
cịn dịch vụ cho tiêu dùng thì nó thuộc phạm trù hàng hóa cho tiêu dùng. Về tổng quát,
dịch vụ về thực chất cũng chỉ là một kiểu hàng hóa mà thơi.
Khác với hàng hóa thơng thường, dịch vụ là hàng hóa khơng thể cất trữ. Việc
sản xuất và tiêu dùng dịch vụ được diễn ra đồng thời. Trong điều kiện ngày nay, do sự
phát triển của phân công lao động xã hội dưới tác động của sự phát triển khoa học
cơng nghệ, dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu văn
minh của con người.
1.1.2. Một số quan niệm khác về dịch vụ
Dịch vụ là sản phẩm của lao động, không tồn tại dưới dạng vật thể, quá trình
sản xuất và tiêu thụ xảy ra đồng thời, nhằm đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng.
Theo như nghĩa rộng, sản phẩm dịch vụ là một lĩnh vực kinh tế thứ 3 thuộc vào
nền kinh tế quốc dân. Nó bao gồm nhiều hoạt động về kinh tế bên ngoài 2 lĩnh vực
chính đó là nơng nghiệp và cơng nghiệp.

5


Tuy nhiên theo nghĩa hẹp, sản phẩm dịch vụ lại là các hoạt động có ích của con
người nhằm mang tới những sản phẩm không tồn tại được dưới dạng hình thái vật chất
và khơng dẫn tới việc sở hữu hay chuyển giao quyền sở hữu. Thế nhưng vẫn có thể
đáp ứng được đầy đủ và nhanh chóng, văn minh những nhu cầu về sản xuất và đời
sống trong xã hội.
Dịch vụ là những sản phẩm kinh tế gồm công việc dưới dạng lao động thể lực,

quản lý, kiến thức, khả năng tổ chức và những kỹ năng chuyên môn nhằm phục vụ cho
nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân và tổ chức. Hay
theo Philip Kolter:
“Dịch vụ là bất kỳ hoạt động hay lợi ích nào mà chủ thể này có thể cung cấp
cho chủ thể kia. Trong đó đối tượng cung cấp nhất định phải mang tính vơ hình và
khơng dẫn đến bất kỳ quyền sở hữu một vật nào cả. Còn việc sản xuất dịch vụ có thể
hoặc khơng cần gắn liền với một sản phẩm vật chất nào”.
Trong kinh tế học dịch vụ được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa nhưng
là phi vật chất. Có những sản phẩm thiên về sản phẩm hữu hình và những sản phẩm
thiên hẳn về sản phẩm dịch vụ, tuy nhiên đa số là những sản phẩm nằm trong khoảng
giữa sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu
cầu nhất định của số đơng, có tổ chức và được trả công.
Từ điển Wikipedia: Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những
thứ tương tự như hàng hoá nhưng phi vật chất Theo quan điểm kinh tế học, bản chất
của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang, chăm
sóc sức khoẻ...và mang lại lợi nhuận.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật giá năm 2012, dịch vụ là hàng hóa
mang tính vơ hình, trong q trình sản xuất và tiêu dùng khơng hề tách rời nhau, bao
gồm những loại dịch vụ trong hệ thống các ngành sản phẩm Việt Nam theo quy định
của pháp luật.

6


Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cung ứng dịch vụ rất đa dạng, phong
phú. Đó có thể là các dịch vụ tiêu dùng như ăn uống, sửa chữa nhà cửa, máy móc gia
dụng; các dịch vụ cơng cộng như cung ứng điện, nước, vệ sinh đô thị; các dịch vụ hỗ
trợ cho sản xuất kinh doanh như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải; các dịch vụ mang tính
nghề nghiệp chun mơn cao như kiểm tốn, tư vấn kiến trúc, bác sĩ, tư vấn pháp

luật...

1.2. Khái niệm và đặc điểm của các loại hàng hóa đặc biệt
Nền sản xuất hàng hóa ngày nay hình thành quan hệ mua bán nhiều yếu tố
khơng hồn tồn do lao động hao phí mà có. Những yếu tố này được xem là những
hàng hóa đặc biệt. Tính đặc biệt của các hàng hóa đó thể hiện ở điểm, chúng có các
đặc trung như: có giá trị sử dụng, có giá cả, có thể trao đổi, mua bán nhưng lại khơng
do hao phí lao động trực tiếp tạo ra như các hàng hóa thơng thường khác.
Khi xuất hiện hiện tượng trao đổi, mua bán các hàng hóa đặc biệt như vậy, làm cho
nhiều người ngộ nhận cho rằng lý luận về hàng hóa của C. Mác khơng cịn phù hợp.
Thực chất do họ chưa phân biệt được hàng hóa và những yếu tố có tính hàng hóa.
Quyền sử dụng đất đai, thương hiệu (danh tiếng), chứng khốn, chứng quyền là một
yếu tố điển hình trong số đó. Sau đây sẽ xem xét về các yếu tố này.
1.2.1. Quyền sử dụng đất đai
1.2.1.1. Khái niệm
Quyền sử dụng đất đai là quyền tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân phát sinh trên cơ sở quyết định giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền
sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc từ các giao dịch nhận chuyển
quyền sử dụng đất.
1.2.1.2. Đặc điểm
Khi thực hiện mua, bán quyền sử dụng đất, nhiều người lầm tưởng đó là mua
bán đất đai. Trên thực tế, họ trao đổi với nhau quyền sử dụng đất.
Quyền sử dụng đất, có giá trị sử dụng, có giá cả nhưng khơng do hao phí lao

7


động tạo ra theo cách như các hàng hóa thơng thường. Thực tế, giá cả của quyền sử
dụng đất nảy sinh là do tính khan hiểm của bề mặt vỏ quả địa cầu và do trình độ phát
triển của sản xuất,

Sự phát triển của sản xuất gia tăng làm nảy sinh nhu cầu cần mặt bằng để kinh
doanh; sự gia tăng quy mô dân số thúc đẩy nhu cầu về mặt bằng để cư trú. Trong khi
quyền sử dụng đất lại được ấn định cho các chủ thể nhất định. Cho nên, xuất hiện nhu
cầu mua, bán quyền sử dụng đất. Trong quan hệ đó, người mua và người bán phải trả
hoặc nhận được một lượng tiền. Đó là giá cả của quyền sử dụng đất.
Ngày nay, do nhu cầu nguồn lực và mặt bằng để phục vụ sản xuất, kinh doanh,
người ta có thể mua, bán cả quyền sử dụng mặt nước, thậm chí một phần mặt biển,
sơng, hồ... những hiện tượng này chỉ là sự phái sinh của việc sử dụng mảnh vỏ quả địa
cầu để trao đổi, mua bán dựa trên quyền sử dụng đã được thừa nhận mà thôi.
Trong xã hội hiện đại, xuất hiện hiện tượng một bộ phận xã hội trở nên có số
lượng tiền nhiều (theo quan niệm thơng thường là giàu có) do mua bản quyền sử dụng
đất. Vậy bản chất của hiện tượng này là gì? Xét về bản chất, số lượng tiền đó chính là
hệ quả của việc tiền từ túi chủ thể này, chuyển qua túi chủ thể khác. Tiền trong trường
hợp như vậy là phương tiện thanh toán, không phải là thước đo giá trị.
Nhưng do thực tế, có nhiều tiền là có thể mua được các hàng hóakhác, nên người ta
thường cho rằng có nhiều giá trị (hay giàu có). Sự thực, khơng phải như vậy. Từng cá
nhân có thể trở nên giàu có nhờ bn bán quyền sử dụng đất, do so sánh số tiền mà họ
bỏ ra với số tiền mà họ thu được là có chênh lệch dương. Nhưng, một xã hội chỉ có thể
giàu có nhở đi từ sản xuất tạo ra hàng hóa (bao gồm cả dịch vụ), của cải chứ khơng thể
chỉ đi từ mua bản quyền sử dụng đất.
1.2.2. Thương hiệu (danh tiếng)
1.2.2.1. Khái niệm
Thương hiệu là tên gọi, thuật ngữ, thiết kế, hình tượng hoặc các dấu hiệu
khác giúp phân biệt một tổ chức hoặc một sản phẩm với đối thủ trong mắt của
người tiêu dùng.
1.2.2.2. Đặc điểm
Trong thực tế ngày nay, thương hiệu của một doanh nghiệp (hay danh
tiếng của một cá nhân) cũng có thể được trao đổi, mua bán, được định giá, tức chúng

8



có giá cả, thậm chí có giá cả cao. Đây là những yếu tố có tính hàng hóa và gần với lý
luận hàng hóa của C. Mác. Bởi lẽ, thương hiệu hay danh tiếng khơng phải ngay tự
nhiên mà có được, nó phải là kết quả của su nỗ lực của sự hao phí sức lao động của
người nắm giữ thương hiệu, thậm chí là của nhiều người. Ngay kể cả một cầu thủ đá
bóng được định giá rất cao, thì cầu thủ đó cũng đã phải hao phí thần kinh, cơ bắp thực
sự cùng với tài năng. Người ta mua bán hoạt động lao động là đá bóng của cầu thủ đó,
nghĩa là mua cái cách thức đá bóng của cầu thủ đó chứ khơng phải mua cái cơ thể sinh
học. Nhưng vì hoạt động đá bóng của cầu thủ đó gắn với cơ thể sinh học của anh ta,
nên người ta nhầm tưởng đó là mua bán danh tiếng của anh ta. Sở dĩ giá cả của các vụ
mua bán đó rất cao là vì sự khan hiếm của cái lối chơi bóng của cầu thủ đó khác với
lối chơi bóng của cầu thủ khác. Mà cái lối chơi này, khơng phải ai cũng có được, nó
cịn do năng khiếu bẩm sinh. Giá cả trong các vụ mua bán như vậy vừa phản ánh giá
trị hoạt động lao động đá bóng, vừa phản ánh yếu tố tài năng, vừa phản ánh quan hệ
khan hiếm, vừa phản ánh lợi ích kỳ vọng của câu lạc bộ mua.
1.2.3. Chứng khoán, chứng quyền và một số giấy tờ có giá
Ngày nay, chứng khốn (cổ phiếu, trái phiếu) do các cơng ty, doanh nghiệp cổ
phần phát hành, chứng quyền do các công ty kinh doanh chứng khoán chứng nhận và
một số loại giấy tờ có giá (ngân phiếu, thương phiếu) cũng có thể mua bán, trao đổi và
đem lại lượng tiền lớn hơn cho người dùng.
1.2.3.1. Chứng khoán
Một chứng khoán tức là một sản phẩm tài chính có thể giao dịch trên thị
trường. Chứng khốn là một cơng cụ tài chính có giá trị, có thể mua bán và nắm giữ
như tiền. Chứng khoán là xác nhận bằng chứng chỉ (certificate), bút toán sổ sách
(book-entry) hay dữ liệu điện tử thể hiện quyền và lợi ích về sở hữu tài sản hoặc phần
vốn đối với các cơng ty cổ phần.
Chứng khốn thể hiện mối quan hệ sở hữu đối với công ty (được xem là
cổ phiếu), thể hiện mối quan hệ chủ nợ (trái phiếu…) hay chứng khoán lai (trái phiếu
chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi) hoặc các loại quyền chọn.

1.2.3.2. Chứng quyền & chứng quyền có bảo đảm
Chứng quyền (CW – Covered Warrant) là một loại chứng khốn cho
phép, nhưng khơng bắt buộc người nắm giữ có thể mua/bán một chứng khoán cơ sở tại

9


một mức giá xác định ở một thời điểm xác định trong tương lai.
Chứng quyền có bảo đảm là chứng quyền được đảm bảo bởi tổ chức phát
hành, khi phát hành chứng quyềncho nhà đầu tư, tổ chức phát hành sẽ có các biện pháp
bảo đảm bằng cách mua chứng khốn cơ sở trên thịtrường.
Có 2 loại chứng quyền có bảo đảm:
• Chứng quyền mua (kiếm lời theo chiều tăng của chứng khốn cơ sở Đang được triển khai)
• Chứng quyền bản (kiếm lời theo chiều giảm của chứng khoán cơ sở Chưa triển khai).
1.2.3.3. Một số giấy tờ có giá
a) Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng
khác được quy định tại Điều 4 Luật Các cơng cụ chuyển nhượng 2005
Hối phiếu địi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, u cầu người bị ký
phát thanh tốn khơng điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời
điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh tốn
khơng điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định
trong tương lai cho người thụ hưởng.
Séc là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân
hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh tốn được phép của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người
thụ hưởng.
b) Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ gồm trái phiếu chính phủ, trái
phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác được quy định tại
Điểm c Khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối 2005

Trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu do Bộ Tài chính phát hành nhằm huy
động vốn cho ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn cho cơng trình, dự án đầu tư cụ
thể (khoản 17 Điều 3 Luật Quản lý nợ cơng 2009)
Trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khốn nợ do doanh nghiệp phát hành,
xác nhận nghĩa vụ trả gốc, lãi, và các nghĩa vụ khác (nếu có) của doanh nghiệp đối với

10


chủ sở hữu trái phiếu (khoản 1 Điều 2 Nghị định 90/2011/NĐ-CP)
Kỳ phiếu là giấy tờ có giá do tổ chức, cá nhân phát hành để cam kết trả nợ gốc
và lãi cho người sở hữu kỳ phiếu khi đến hạn thanh toán.
Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành (khoản 2 Điều 6 Luật Chứng
khốn 2006).
c) Cơng cụ nợ là tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, cơng trái và công cụ
khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại khoản 16 Điều 3 Luật
Quản lý nợ cơng 2009
Tín phiếu là giấy tờ có giá ngắn hạn, trong đó xác nhận món nợ phải thanh tốn
giữa chủ thể phát hành tín phiếu với người sở hữu tín phiếu vào ngày đáo hạn.
Cơng trái là một loại trái phiếu chính phủ được phát hành để hưy động vốn
nhằm giúp Chính phủ thực hiện các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng về kinh tế-xã hội của
đất nước.
d) Các loại chứng khoán gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng
tương lai, nhóm chứng khốn hoặc chỉ số chứng khốn; hợp đồng góp vốn đầu
tư; các loại chứng khốn khác do Bộ Tài chính quy định
Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối
với một phần vốn góp của quỹ đại chúng (Khoản 4 Điều 6 Luật Chứng khoán).
Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành nhằm

mang lại cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phần mới theo điều kiện đã được xác
định (khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán).
Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái
phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một
số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ
nhất định (Khoản 6 Điều 6 Luật Chứng khoán).
Quyền chọn mua, quyền chọn bán là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép
người mua lựa chọn quyền mua hoặc quyền bán một số lượng chứng khoán được xác
định trước trong khoảng thời gian nhất định với mức giá được xác định trước (Khoản 7
Điều 6 Luật Chứng khoán).

11


Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khốn, nhóm
chứng khốn hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất
định vào ngày xác định trước trong tương lai (Khoản 8 Điều 6 Luật Chứng khốn).
Hợp đồng góp vốn đầu tư là hợp đồng góp vốn bằng tiền hoặc tài sản giữa các
nhà đầu tư với tổ chức phát hành hợp đồng nhằm mục đích lợi nhuận và được phép
chuyển đổi thành chứng khoán khác (khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Luật
Chứng khốn).
Tóm lại :
“Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu,
chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp
luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”.
Ngày nay, các nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp hơn, do đó hệ
thống thị trường cũng biến đổi phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của nền kinh
tế. Vì vậy, để tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải hiểu rõ
về bản chất hệ thống thị trường, những quy luật kinh tế cơ bản của thị trường và các
vấn đề liên quan khác.


CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DỊCH VỤ VÀ CÁC LOẠI
HÀNG HÓA ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Dịch vụ y tế trước và trong thời buổi dịch bệnh COVID – 19 ở Việt Nam
Dịch vụ y tế là loại hàng hoá mà người sử dụng (người đi khám sức khỏe) khơng
thể tự mình dễ dàng lựa chọn loại dịch vụ theo ý muốn mà phụ thuộc rất nhiều vào bên
cung ứng (cơ sở y tế). Cụ thể, khi người dân có nhu cầu khám chữa bệnh, việc điều trị
bằng phương pháp nào, thời gian bao lâu hoàn toàn do thầy thuốc quyết định. Như vậy,
người ta chỉ có thể lựa chọn nơi điều trị và ở một chừng mực nào đó, người chữa chứ
khơng chủ động lựa chọn được phương pháp điều trị cho mình. Mặt khác, do dịch vụ y
tế là loại hàng hố gắn liền với tính mạng con người nên mặc dù khơng có tiền nhưng
người bệnh vẫn phải khám chữa bệnh (mua dịch vụ). Điểm đặc biệt này không giống
các loại hàng hóa khác, đó là đối với các loại hàng hóa khơng phải là sức khỏe, người
mua có thể có nhiều giải pháp lựa chọn, thậm chí tạm thời khơng mua nếu chưa có khả
năng tài chính.

12


Trước khi dịch bệnh Covid-19 diễn ra mạng lưới bệnh viện ở Việt Nam khá rộng
khắp. Có tổng số 1.531 bệnh viện, trong đó hơn 86% là bệnh viện cơng và gần 14% là
bệnh viên tư, chủ yếu tập trung ở các khu vực đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội
và Đà Nẵng. 1.318 bệnh viện cơng được quản lý theo hệ thống phân cấp, được phân
loại theo tuyến trung ương, tuyến tỉnh và tuyến huyện hoặc tuyến xã. Trong đó, các
bệnh viện tư nhân đã đóng góp khơng nhỏ trong nâng cao chất lượng khám, chữa
bệnh, giảm quá tải bệnh viện.
2.1.1. Dịch vụ y tế tư nhân
a) Hình thức
+ Y học dân gian cổ truyền (truyền thống) với những bà mụ vườn, thầy lang,
thầy cúng, thầy mo, người bán thảo dược, các nhà tiên tri, thầy bói. Những người này

thường xác định rằng bệnh tật chịu ảnh hưởng của các lực lượng tự nhiên, siêu nhiên
và rồi tìm các cách tương ứng để chữa trị.
+ Hệ thống chữa bệnh chuyên nghiệp cổ truyền phương Đông hết sức đa dạng.
+ Dịch vụ chăm sóc sức khỏe theo y học hiện đại được sự cấp phép của Nhà
nước hoặc các dịch vụ làm “chui” không hợp pháp.
+ Dịch vụ bán thuốc.
Và các dịch vụ y tế theo y học hiện đại của các tổ chức phi chính phủ (các tổ
chức nhà thờ, Hội chữ thập đỏ quốc tế, ...).
b) Đặc điểm
Xét về mặt quan hệ sản xuất thì các dịch vụ y tế tư nhân thuộc thành
phần kinh tế tư nhân. Mặc dù hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng các cá nhân và
tổ chức tham gia cung cấp dịch vụ y tế tư nhân vẫn phải đáp ứng được những yêu cầu
về chuyên môn, về đạo đức và lương tâm nghề nghiệp. Tính phối hợp cơng - tư là một
thực tế trong cung cấp dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam. Xét về mặt bằng chung, các cơ
sở cung ứng dịch vụ y tế tư nhân ở Việt Nam hầu hết đều thuộc loại vừa và nhỏ, trang
thiết bị đơn giản, đội ngũ y bác sỹ vừa thiếu về số lượng lại vừa chưa đáp ứng được
yêu cầu về chất lượng, số cơ sở tiếp cận được với những công nghệ mới hiện đại trong
khám, chữa bệnh cịn ít. Các dịch vụ y tế tư nhân hoạt động dưới sự giám sát và quản
lý vĩ mơ của Nhà nước.
Tóm lại, theo “Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân” thì các dịch vụ y tế tư

13


nhân ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
+ Hành nghề y tư nhân;
+ Hành nghề dược tư nhân;
+ Hành nghề y dược học cổ truyền tư nhân;
+ Hành nghề vacxin, sinh phẩm y tế tư nhân;
+ Hành nghề trang thiết bị y tế tư nhân.

c) Thực trạng
Tính đến nay, cơng tác xã hội hóa trong lĩnh vực y tế đạt được nhiều kết quả
tích cực. Đặc biệt là y tế tư nhân tiếp tục phát triển cả về quy mô và số lượng.
Số bệnh viện tư nhân tăng từ 102 bệnh viện với 5800 giường bệnh từ năm 2010
lên 231 bệnh viện (19,4% tổng số bệnh viện trong cả nước) với khoảng 16.000 giường
bệnh (chiếm 5% tổng số giường bệnh, đạt 1,7 giường/vạn dân) và trên 35.000 phòng
khám tư nhân, góp phần đáng kể vào cung cấp dịch vụ y tế, cả khám chữa bệnh và
phòng bệnh (cung cấp 43% dịch vụ ngoại trú và 2,1% tổng số dịch vụ nội trú).
Bên cạnh một số bệnh viện 100% vốn nước ngồi, bệnh viện tư nhân có trang
thiết bị hiện đại, cung cấp dịch vụ y tế kỹ thuật cao. Một số nhà đầu tư đã thành lập
chuỗi bệnh viện như Tập đoàn Y khoa Hoàn Mỹ, Hệ thống y tế Vinmec, đã xuất hiện
mơ hình cơ sở y tế tư nhân hoạt động khơng vì lợi nhuận (Hệ thống y tế Vinmec) đáp
ứng nhu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân dân, nhất là người có thu nhập thấp.
Về dược tư nhân, hệ thống bán bn có khoảng trên 550 công ty dược phẩm
trong nước chuyên phân phối thuốc, 2000 cơ sở bán buôn thuốc, 43.000 nhà thuốc bán
lẻ, nhà thuốc trong bệnh viện (mật độ khoảng 2123 người có một cơ sở bán lẻ thuốc),
hình thành một số hệ thống chuỗi nhà thuốc.
2.1.1.1. Vai trò của dịch vụ y tế tư nhân trong phát triển hệ thống y
tế
Các bằng chứng về hiệu quả, chất lượng và công bằng trong cung cấp
dịch vụ y tế giữa công và tư cái nào hơn khơng thống nhất và khơng có tính
khẳng định rõ ràng. Tuy nhiên sự phát triển của khu vực tư nhân trong cung
cấp dịch vụ và sự đóng góp của cá nhân vào các nguồn tài chính y tế là không
thể phủ định. Việc kết hợp công và tư trong y tế là điều cần thiết để cải thiện
chất lượng, hiệu quả và cơng bằng trong chăm sóc sức khỏe. Những người ủng hộ chủ

14


trương phát triển khu vực tư nhân trong cung cấp dịch vụ và tài chính y tế, trong đó có

ngân hàng thế giới lập luận rằng tư nhân hoạt động hiệu quả và có khả năng cung cấp
dịch vụ chất lượng cao. Họ thường nêu lên bốn điểm yếu kém của y tế công cộng là:
kém hiệu quả trong phân bố nguồn lực, kém hiệu quả trong phát huy ưu thế về kỹ
thuật, kém hiệu quả về công bằng và kém chất lượng. Một trong những lý do họ ủng
hộ chủ trương phát triển khu vực y tế tư nhân là để giải phóng các nguồn lực. Hiện tại
ở Việt Nam khu vực tư nhân đang bị coi là đối tượng mà y tế cơng phải đối phó nhiều
hơn là xem họ như đối tác có thể hợp tác nhằm thúc đẩy chất lượng, hiệu quả và công
bằng trong chăm sóc sức khỏe. Vì vậy thời gian tới Nhà nước cần thay đổi quan điểm
trong quản lý y tế tư nhân, cần chuyển từ quan điểm mang tính kiểm sốt sang quan
điểm hợp tác và khuyến khích đối với y tế tư nhân.
Thực tế, trong hơn 20 năm tồn tại và phát triển, y tế tư nhân có những vai trò
trong phát triển hệ thống y tế ở Việt Nam như sau:
Một là, góp phần huy động các nguồn lực cho phát triển dịch vụ y tế:
+ Huy động nguồn vốn: Y tế tư nhân góp phần huy động nguồn vốn nhàn rỗi
tham gia vào lĩnh vực y tế, góp phần chia sẻ gánh nặng tài chính với khu vực y tế
công.
+ Huy động nguồn nhân lực: Khu vực y tế tư nhân phát triển làm tăng cầu về
bác sỹ, y tá, vì vậy đã tạo động lực kích thích nguồn cung các lực lượng này.
Hai là, tạo môi trường cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ y tế:
+ Tạo nên sự cạnh tranh giữa khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân.
+ Tạo sự cạnh tranh của bản thân các cơ sở y tế tư nhân.
+ Tạo nên năng lực cạnh tranh với các dịch vụ y tế quốc tế.
Ba là, đa dạng hóa sự lựa chọn của người tiêu dùng: Tư nhân tham gia
thị trường dịch vụ y tế đã làm tăng thêm sự lựa chọn cho người có nhu cầu khám chữa
bệnh.
Bốn là, giảm tải cho khu vực y tế công: Y tế tư nhân tham gia vào thị trường
chăm sóc sức khoẻ góp phần giảm tải cho các bệnh viện công. Cụ thể trước làn sóng
trở lại mạnh mẽ của COVID – 19, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đồng ý giao cho các
cơ sở y tế tư nhân thực hiện xét nghiệm chẩn đoán COVID-19 theo đề nghị của Bộ Tài
chính. Theo đó, Văn phịng Chính phủ vừa phát Cơng văn số 2769 truyền đạt ý kiến


15


chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về đề nghị của Bộ Tài chính và Bộ Y tế
trong việc giao cơ sở y tế tư nhân thực hiện xét nghiệm chẩn đoán COVID-19. Thủ
tướng đồng ý về chủ trương cho phép các cơ sở y tế tư nhân được đặt hàng cung cấp
dịch vụ xét nghiệm chẩn đoán COVID-19 như đề nghị của 2 bộ. Thủ tướng yêu cầu Bộ
Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ Tài chính, Tư pháp và các cơ quan liên quan khẩn
trương hồn thiện, trình Thủ tướng phê duyệt Quyết định về việc đặt hàng cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công theo quy định tại Nghị định 32 năm 2019 của Chính phủ quy
định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách
nhà nước từ nguồn kinh phí thường xuyên theo đúng quy định của pháp luật.
Trước đó, Bộ Tài chính có văn bản số 4072 ngày 6.4 và Bộ Y tế có văn bản số
1889 ngày 4.4 về việc giao cơ sở y tế tư nhân thực hiện việc xét nghiệm chẩn đoán
COVID-19.
2.1.1.2. Quản lý Nhà nước đối với dịch vụ y tế tư nhân
Để phát triển ngành y tế, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, quản lý
nhà nước về y tế đóng vai trị rất quan trọng:
+ Định hướng phát triển ngành y tế Việt Nam:
Trên cơ sở đánh giá những khó khăn, thách thức, những thành tựu và năng lực
của ngành y tế và xu thế phát triển chung của xã hội, Nhà nước xây dựng định hướng
phát triển ngành y tế Việt Nam giai đoạn 2010 - 2021 và tầm nhìn năm 2030 với mục
tiêu cơng bằng - hiệu quả - phát triển.
+ Đảm bảo công bằng trong việc cung cấp các dịch vụ y tế:
Công tác y tế là công tác nhân đạo, việc đảm bảo sức khoẻ cho tất cả mọi
người là trách nhiệm của ngành y và quyền lợi của mỗi công dân, là quyền được Hiến
pháp của Nhà nước ta công nhận, mọi công dân đều phải được hưởng dịch vụ y tế khi
có nhu cầu. Cơng bằng trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân là một dạng cơng bằng xã
hội nhưng nó khác ở chỗ sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người, và bất kể ai

cũng có nhu cầu được chăm sóc một cách tốt nhất. Thuốc và dịch vụ y tế là một hàng
hố đặc biệt. Có nhiều loại dịch vụ y tế là hàng hoá dịch vụ cơng cộng. Do vậy sẽ
khơng có một tổ chức y tế cá nhân nào có thể đứng ra cung cấp một cách thường
xun

cho

cộng

đồng



khả năng thu hồi vốn chậm và khơng có lợi nhuận. Vì vậy chỉ có Nhà nước đại diện

16


cho lợi ích chung của cả cộng đồng mới có thể đảm bảo sự công bằng trong việc cung
cấp các dịch vụ này cho cộng đồng. Đảm bảo công bằng góp phần giữ được bản chất
nhân đạo của y tế nước ta, định hướng xây dựng nền y tế xã hội chủ nghĩa.
2.1.2. Dịch vụ y tế nhà nước
Lại nói về dịch vụ y tế nhà nước trong lần bùng phát dịch đầu tiên ở nước ta,
sau khi phát hiện ra 6 bệnh nhân nhiễm virus SARS-COV-2, Việt Nam đã tuyên bố
virus gây bệnh này là dịch. Đây là một trong những quốc gia đầu tiên làm như vậy. Tổ
chức Y tế Thế giới khen ngợi Việt Nam rằng: “Việc phát hiện, cách ly sớm và điều trị
tích cực là vô cùng quan trọng. Những hành động ban đầu của Việt Nam đã ngăn chặn
sự lây lan thêm của dịch bệnh, cứu sống hàng nghìn người”.
Mặc dù có chung đường biên giới dài 1400km với Trung Quốc, tâm điểm của
đợt dịch bùng phát COVID-19, Việt Nam với dân số 96 triệu người đã ngăn chặn sự

lây lan của virus một cách kể. Là một nước có điều kiện kinh tế đang phát triển với
năng lực cơng nghệ cịn hạn chế song sự phản ứng của Việt Nam đối với đợt bùng phát
dịch bệnh đã nhận được sự hoan nghênh vì tính tức thời, hiệu quả và minh bạch, trái
ngược với sự chậm trễ ở Trung Quốc và sự chuẩn bị kém ở Mỹ và các nước Châu Âu.
Việt Nam đã chứng minh rằng cách phịng ngừa sớm có thể là yếu tố phá vỡ chuỗi
virus chết người này. Ngày 25/9/2020, Việt Nam ghi nhận không ca nhiễm mới
COVID-19 nào, đánh dấu ngày thứ 23 liên tiếp khơng có sự lây lan của virus. Tổng số
ca mắc COVID-19 tại Việt Nam là 1.069 ca, trong đó có 35 trường hợp tử vong. Thủ
tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã gọi những nỗ lực của Việt Nam chống lại
COVID-19 là “cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 2020”.
Trong cuộc chiến với COVID-19, Việt Nam đã tiến hành một cuộc chiến chống
lại kẻ thù vơ hình bằng cách huy động mọi nguồn lực của mình, bao gồm cả qn đội
để đối phó với dịch bệnh. Ngày 1/2, Việt Nam đưa ra một loạt biện pháp nhằm ngăn
chặn sự lây lan của COVID-19, bao gồm đình chỉ tất cả các chuyện bay đến và đi từ
Trung Quốc và đóng cửa tất cả các trường học, đại học; đình chỉ việc miễn thị thực
cho cơng dân một số nước; đóng cửa rạp chiếu phim, câu lạc bộ, quán bar, tiệm
massage và phòng hát karaoke và cấm tụ tập trên 10 người.
Ngay từ đầu, chính phủ đã đưa ra những quyết định chắc chắn để ưu tiên và bảo
vệ sức khoẻ của người dân, ngay cả khi điều đó phải trả giá bằng nền kinh tế. Hơn

17


nữa, đã trải qua các dịch bệnh chết người khác, bao gồm dịch SARS năm 2004, cúm
gia cầm, sốt rét và các dịch bệnh khác, phản ứng của nền y tế nhà nước ở Việt Nam là
rất nhanh chóng và chủ động. Bước đi đầu tiên, Việt Nam đã khởi động các đợt kiểm
dịch hàng loạt, truyền thông sức khoẻ cộng đồng hiệu quả, chế độ xét nghiệm tập trung
và tính minh bạch đặc biệt.Việt Nam đã chọn cách phịng ngừa sớm và có trọng tâm.
Thay vì bắt tay vào thử nghiệm hàng loạt, Việt Nam tập trung vào việc cách ly những
người nhiễm bệnh tại các cơ sở y tế nhà nước và theo dõi những người tiếp xúc với họ.

Ngồi việc truy vết ca bệnh ráo riết, Chính phủ Việt Nam còn áp dụng các biện pháp
bao gồm bắt buộc cách ly, huy động sinh viên y khoa, bác sĩ và y tá tham gia vào cuộc
chiến chống đại dịch.
Hiện nay các chỉ số về tình trạng sức khỏe của người dân đều đạt mức tương
đương hoặc tốt hơn các quốc gia có cùng mức phát triển kinh tế. Các thành tựu của hệ
thống y tế nhà nước đã góp phần quan trọng vào kiểm sốt tốt các dịch bệnh nguy
hiểm, như: SARS, cúm A(H5N1), đặc biệt là đại dịch Covid-19 đang gây ra thiệt hại
rất lớn đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Chúng ta là một trong bốn nước đầu tiên
phân lập được vi-rút SARS-CoV-2, là nước đầu tiên chế tạo bộ kít để phát hiện loại virút này.
Tuy nhiên, vẫn chưa có sự cơng bằng giữa dịch vụ y tế tư nhân và y tế Nhà
nước ln là vấn đề nóng hổi của nước ta. Theo bà Nguyễn Thị Quang Hiền - Phó Chủ
tịch hiệp hội Bệnh viện tư nhân:
Thứ nhất, về đào tạo và chính sách của ngành y tế đối với các cơ sở khám chữa
bệnh: Những chương trình đào tạo lại, nhiều chương trình đào tạo có kinh phí của Nhà
nước, nhưng chỉ cơ sở công lập mới được tham gia, cịn các cơ sở tư nhân, bệnh viện
tư nhân khơng được quan tâm.
Thứ hai, về sự hỗ trợ của các tổ chức phi Chính phủ, thực tế nhiều tổ chức phi
chính phủ muốn hỗ trợ cơ sở vật chất cho các bệnh viện tư nhân, nhưng cơ chế để
bệnh viện tư nhân được nhận hỗ trợ thì hầu như khơng có, mà chỉ có đầu tư cho các cơ
sở của Nhà nước.
Thứ ba, chúng ta có chủ trương phối hợp mơ hình hợp tác cơng tư theo Nghị
quyết 93/2014 của Chính phủ về một số cơ chế, chính sách phát triển y tế. Tuy nhiên,
chủ trương này gây ra nhiều bất cập. Đó là sự mất cơng bằng trong đầu tư, không rõ

18


ràng giữa công và tư.
Mặc dù được thiết lập tốt nhưng các bệnh viện công tại Việt Nam hiện đang
phải đối mặt với một số thách thức lớn. Hầu hết các bệnh viện công trong nước đã

được xây dựng cách đây hơn hai thập kỷ, cơ sở hạ tầng đã cũ và lạc hậu, cần được
nâng cấp.
Mặt khác, tình trạng quá tải thường xuyên xảy ở các bệnh viện chuyên khoa sâu
hay một số bệnh viện nổi tiếng đầu ngành. Số lượng bệnh nhân muốn được điều trị ở
các bệnh viện tuyến trung ương q đơng do có đầy đủ trang thiết bị y tế và đội ngũ y
bác sỹ tay nghề cao. Kết quả là các bác sĩ và y tá bị quá tải, phải phục vụ số lượng lớn
bệnh nhân, làm việc nhiều giờ trong điều kiện căng thẳng với mức lương khá thấp.
Như vậy, phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống y tế nước ta theo định
hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở, mạng lưới y tế
dự phịng, bảo đảm cho việc chăm sóc sức khỏe nhân dân là chủ trương quan trọng của
Ðảng và Nhà nước ta. Tránh để việc người dân sợ đến các bệnh viện cơng lập vì lo sợ
thủ tục rườm rà, thái độ phục vụ chưa chu đáo, một số y bác sĩ chưa tuân thủ theo
châm ngôn “Lương y như từ mẫu”.
Công tác khám, chữa bệnh đã phát triển được nhiều công nghệ kỹ thuật cao,
ngang tầm khu vực. Bảo đảm đủ thuốc thiết yếu cho nhu cầu khám, chữa bệnh của
người dân; nhiều đơn vị trong ngành y tế đã áp dụng công nghệ thông tin vào công tác
quản lý giảm thiểu sức lao động, tiến đến nền y tế thông minh. Nhân lực y tế, số lượng
cán bộ y tế được đào tạo tăng nhiều, trong đó số bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng và kỹ
thuật viên y học, trình độ tay nghề ngày càng được nâng cao. Các bệnh viện lớn đã
phẫu thuật thành công nhiều ca khó, phức tạp như tách đơi cặp song sinh, ghép tạng,
có trường hợp ghép nhiều tạng cùng một lúc. Mạng lưới y tế cơ sở, hệ thống bệnh
viện, trung tâm y tế, trạm y tế từ Trung ương đến địa phương được quan tâm đầu tư, đủ
năng lực đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nâng cao chất lượng
khám, điều trị, phòng chống dịch. Nhà nước có chính sách hỗ trợ người nghèo và các
nhóm dễ tổn thương trong khám, chữa bệnh.
Ðể nâng cao năng lực ngành y tế, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước thời gian tới, tơi nghĩ cần tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng và chính
quyền, phát huy sự tham gia của các đồn thể chính trị - xã hội trong bảo vệ, chăm sóc

19



và nâng cao sức khỏe nhân dân. Nâng cao hiệu quả cơng tác phịng, chống dịch bệnh,
ứng phó kịp thời với các tình huống khẩn cấp. Bảo đảm đủ vắc-xin cho các đối tượng
tiêm chủng.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức, mạng lưới và trang thiết bị cho hệ thống y tế dự
phòng, bảo đảm cho các cơ sở y tế dự phòng đủ điều kiện và năng lực thực hiện tốt
nhiệm vụ chun mơn, đáp ứng u cầu phịng bệnh cho nhân dân. Nâng cao chất
lượng khám, chữa bệnh, khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện. Tiếp tục đổi
mới, kiện toàn mạng lưới y tế, hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế từ Trung ương đến địa
phương theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và hội nhập quốc tế. Tăng cường đầu
tư và đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại ngân sách nhà nước trong lĩnh vực y tế để có
nguồn lực triển khai tồn diện cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa.
Tăng cường công tác quản lý dược, thực phẩm, trang thiết bị y tế. Công khai, minh
bạch trong quản lý, cấp phép, đấu thầu, mua sắm thuốc, trang thiết bị y tế; công khai
giá thuốc, giá trang thiết bị, giá khám bệnh, chữa bệnh. Ðẩy mạnh việc sản xuất thuốc,
trang thiết bị y tế trong nước; thúc đẩy phát triển dược liệu; thiết lập hệ thống kiểm
chuẩn theo tiêu chuẩn quốc tế; tăng cường quản lý an toàn thực phẩm, tăng cường
kiểm tra việc thực hiện đấu thầu mua sắm của các đơn vị y tế và xử lý nghiêm các sai
phạm.
Tăng cường đầu tư, đổi mới cho ngành y tế nhà nước sẽ đóng góp quan trọng
vào việc thực hiện thành công những mục tiêu trong phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2021 - 2030 của đất nước.
2.2. Một số vấn đề của các loại hàng hóa đặc biệt
2.2.1 Bất cập trong chứng khốn






Độ biến động cao.
Khơng phù hợp với những người về hưu.
Quá nhiều lựa chọn.
Rủi ro về quyền sở hữu.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động của thị trường chứng
khoán Việt Nam vẫn cịn có những hạn chế, bất cập mà một trong những nguyên nhân
chủ yếu là khuôn khổ pháp lý về chứng khốn và thị trường chứng khốn chưa hồn

20


thiện. Nội dung một số điều khoản của Luật còn chưa rõ ràng, cụ thể, dẫn đến cách
hiểu khác nhau và gây khó khăn trong áp dụng; một số điều khoản của Luật khơng cịn
hợp lý hoặc khơng cịn phù hợp với thực tiễn; Luật chưa quy định một số vấn đề mà
thực tiễn đòi hỏi cần phải thể chế hóa bằng Luật; một số điều khoản chưa tương thích
với thông lệ quốc tế tốt, chưa phù hợp với yêu cầu và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế
(như quy định về chào bán chứng khốn; cơng ty đại chúng; tổ chức thị trường giao
dịch chứng khoán; các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn thị trường chứng khoán; tổ
chức kinh doanh chứng khoán; thẩm quyền của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm...)
Tuy nhiên, đánh giá tồn diện thì thể chế thị trường chứng khốn Việt Nam vẫn
cịn một số hạn chế, bất cập, cụ thể:
Thứ nhất, khung pháp lý cho thị trường chứng khoán vẫn chưa bao quát mọi
hoạt động của thị trường, một số cơ chế chính sách chưa theo kịp diễn biến của các
giao dịch, cung cầu về hàng hóa ln mất cân đối, ảnh hưởng đến tính thanh khoản của
chứng khốn.
Thứ hai, về các tổ chức tham gia thị trường. Cho đến nay đã có các tổ chức và
cá nhân tham gia thị trường như: thị trường chứng khốn, quỹ đầu tư, các nhà đầu tư

có tổ chức, nhà đầu tư cá nhân, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán… Trong thời gian
qua, các thị trường chứng khốn, cơng ty quản lý quỹ phát triển nhanh chóng trong khi
quản trị công ty không được coi trọng, quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức
này cịn bất cập, nên khơng ít các cơng ty chứng khốn hoạt động thua lỗ, năng lực tài
chính kém, nguồn nhân lực chất lượng thấp.
Thứ ba, chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước
trong việc định hướng, quản lý, giám sát và hỗ trợ sự phát triển của thị trường chứng
khoán.
 Giải pháp:
Một là, tiếp tục hồn thiện các ngun tắc, khn khổ pháp lý, thúc đẩy thị trường
chứng khoán phát triển một cách sâu, rộng theo hướng minh bạch, đồng bộ, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Hai là, các thành viên tham gia thị trường cần có giải pháp nâng cao chất lượng
hoạt động. Đối với các cơng ty chứng khốn, cơng ty quản lý quỹ … tiếp tục tái cơ cấu
21


theo hướng nâng cao yêu cầu về năng lực tài chính, yêu cầu về cơ sở vật chất, về quản
trị công ty và yêu cầu về nguồn nhân lực, cần giảm bớt số lượng cơng ty chứng khốn
thơng qua việc sáp nhập, mua lại, giải thể, hướng một số công ty chứng khoán lớn là
những nhà tạo lập thị trường hiệu quả.
Ba là, xây dựng cơ chế phối hợp trong việc điều hành các chính sách có liên quan
đến thị trường chứng khốn. Một số chính sách tác động mạnh đến thị trường chứng
khốn là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Trong thời gian qua, việc điều hành
chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước theo hướng nới lỏng hoặc thắt chặt đều tác
động rất mạnh đến tính thanh khoản của thị trường chứng khốn. Thị trường chứng
khoán cũng rất nhạy cảm theo sự mở rộng hay thu hẹp tín dụng của ngân hàng thương
mại.
Bốn là, tạo hàng hóa có chất lượng tốt cho thị trường. Việc thực hiện cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước cần gắn với niêm yết để tạo hàng hóa có chất lượng cho thị

trường chứng khốn.
Năm là, tăng cường cơng tác thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tham
gia thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm đối với các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp
sử dụng phương tiện truyền thơng (báo chí, trang tin…) đưa thơng tin sai lệch, thơng
tin thiếu đầy đủ, làm méo mó thơng tin, hoặc đưa thông tin bất lợi cho thị trường mà
không rõ nguồn gốc.

2.2.2. Vi phạm về thương hiệu
Thực tế hiện nay cho thấy, các hành vi sản xuất, nhập khẩu, tiếp thị, mua bán
các hàng hóa giả mạo, hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu cá nhân tại Việt Nam đang
có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Các mặt hàng giả mạo, hàng hóa xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng đa dạng về chủng loại và tinh vi về hình thức.
Trong khi nhận thức của người tiêu dùng chưa thật sự đầy đủ, nên việc phân biệt hàng
thật – hàng giả đang trở nên khó khăn đối với người tiêu dùng. Các lực lượng chức
năng chưa đủ mạnh ngang tầm nhiệm vụ được giao trong cơng tác đấu tranh bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, phương thức sản xuất, nhập khẩu, tiếp thị, mua bán các

22


mặt hàng vi phạm về quyền sở hữu cá nhân ngày càng trở nên tinh vi, có tổ chức liên
tỉnh, liên vùng, liên quốc gia và đa dạng, phomg phú về hình thưc, chủng loại nên rất
khó phát hiện, xử lý đối với các cơ quan thực thi.
Về phương thức vi phạm, trong những năm gần đây, các đối tượng vi phạm có
xu hướng chuyển dịch từ tiếp thị, phân phối theo phương thức truyền thống sang hình
thức thương mại điện tử (thông qua các trang bán hàng trực tuyến, website bán hàng
và đặc biệt là các trang mạng xã hội Facebook, Zalo). Vi phạm trên internet là “khơng
có biên giới, khơng có rào cản địa lý”. Do đó, việc phát hiện và xử lý các đối tượng vi
phạm trở nên hết sức khó khăn, địi hỏi đội ngũ cơng chức, thanh tra viên làm công
tác, thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm phải không ngừng được tăng cường về số lượng,

nâng cao về nghiệp vụ, trình độ chuyên, kỹ năng và kinh nghiệm cũng như đòi hỏi sự
phối hợp chặt chẽ, vào cuộc đồng bộ, thống nhất của liên ngành từ Trung ương đến địa
phương.
 Giải pháp:
Địa phương phải quan tâm bố trí nguồn lực (kinh phí, nhân lực), thời gian cho
nhiệm vụ thực thi quyền quyền sở hữu cá nhân, cử cán bộ tham gia các khóa, lớp đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực. Trung ương sẽ tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, đặc biệt cầm tay, chỉ việc trong các vụ việc cụ thể; thông
tin liên lạc giữa các ngành, giữa Trung ương và địa phương cần thường xuyên và thông
suốt hơn. Cụ thể hơn trong năm 2018 và 2019, Thanh tra Bộ thường xuyên phối hợp
với Sở Khoa học và Công nghệ địa phương tiến hành thanh tra các hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ. Qua hoạt động phối hợp thanh tra về sở hữu trí tuệ, lực lượng
Thanh tra của nhiều Sở Khoa học và Công nghệ các địa phương đã nâng cao nhận
thức, học hỏi được nhiều kinh nghiệm hay, bài học quy và kỹ năng chuyên môn của
Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ
Nên tổ chức tập huấn hàng năm của Thanh tra Bộ với nguồn kinh phí từ Trung
ương, Thanh tra Bộ, bàn bạc cùng với các Sở Khoa học và Công nghệ các địa phương
tổ chức tập huấn về sở hữu trí tuệ theo vùng, khu vực cùng tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc mà các địa phương đang phải đối mặt. Kinh phí tổ chức tập huấn chủ yếu
huy động từ nguồn lực do Sở Khoa học và Công nghệ của các địa phương đóng góp,
Trung ương chi hỗ trợ chuyên môn, nghiệp vụ.
23


2.2.3 Khó khăn trong quản lý đất đai
Khó khăn trong quản lý đất, giao đất tại khu vực miền núi: việc lấy ý kiến khi
lập quy hoạch đô thị; chất lượng quy hoạch thấp; điều chỉnh quy hoạch không đảm
bảo…Bên cạnh đó, cịn có hiện tượng một số dự án lớn sử dụng đất đơ thị cịn sử dụng
hình thức chỉ định thầu, sử dụng đất sai mục đích, phân lơ bán nền khi chưa hồn
thành nghĩa vụ thủ tục tài chính, vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhưng khơng được

xử lý…
Hiện tượng sốt đất ảo, nhiều chiêu trò làm giá đất xảy ra hàng năm nay, nhiều
vụ tranh chấp khiếu kiện, khiếu nại về đất đai thường xảy ra ở các địa phương.
Phần lớn diện tích tăng thêm của các cây trồng nói trên được chuyển đổi mục
đích một cách tự phát. Người dân phá rừng trái phép để lấy đất hoặc tự chuyển đổi
diện tích từ loại đất (theo mục đích sử dụng) khi loại cây trồng này có giá trị kinh tế
cao hơn cây trồng khác. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do sự yếu kém
trong quản lý đất đai, sự bất cập của các quy hoạch sử dụng đất khi không căn cứ vào
nhu cầu sử dụng đất thực tế tại địa phương và các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế. Bên cạnh đó, áp lực tăng dân số. Lấy ví dụ, trong năm 2013, việc triển khai các dự
án kinh tế - xã hội trên địa bàn Tây Nguyên đã chiếm dụng nhiều diện tích đất nơng
nghiệp, ảnh hưởng đến sản xuất của người dân. Riêng việc triển khai các dự án thuỷ
điện, với 163 dự án đã và đang nghiên cứu, đầu tư xây dựng, đã có 25.269 hộ dân bị
ảnh hưởng (trong đó 5.617 hộ dân phải tái định cư); chiếm dụng 65.239,2 ha đất các
loại (tương đương 1,2% tổng diện tích đất tự nhiên tồn khu vực), trong đó có 452 ha
đất ở, 742,1 ha đất trồng lúa, 21.819,7 ha đất trồng màu và các cây lâu năm.

 Giải pháp:
Để khắc phục hạn chế trên đại biểu kiến nghị, các địa phương cần thanh tra và
sớm có kết luận trong thực hiện quy hoạch, giao đất khi có dấu hiệu vi phạm quy định.
Xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức có vi phạm và chuyển sang cơ quan điều tra để xử
lý theo thẩm quyền. Qua giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quy

24


hoạch, quản lý, sử dụng đất đai cho thấy, cần chỉ rõ trách nhiệm các địa phương, bộ,
ngành trong các vi phạm về đất đai, nhất các dự án lớn có sai phạm. Đồng thời, đưa
vào chương trình xây dựng để sửa đổi luật đất đai, đầu tư, thống nhất tên gọi các loại
đất tránh chồng chéo. Đặc biệt, cần nghiên cứu để có nghị định trong xử lý vấn đề

trong quản lý sử dụng đất đơ thị và có đánh giá cụ thể để công khai cho công luận
được rõ.
Hiện Bộ Xây dựng kiến nghị 4 vấn đề cơ bản: Chất lượng, tính minh bạch trong
sử dụng; nâng cao chất lượng, tiêu chuẩn, quy chuẩn; cần có sự kiểm soát hiệu quả về
quản lý và thực hiện các dự án phát triển kinh tế; tăng cường hiệu quả quản lý Nhà
nước về sử dụng đất. Cũng theo Bộ trưởng Bộ Xây dựng, đối với vấn đề nâng cao chất
lượng, tính minh bạch trong sử dụng, sau q trình giám sát, Bộ sẽ phối hợp với các sở
ngành, địa phương để bổ sung một số quy định pháp luật để bảo đảm tính đồng bộ,
thống nhất và khả thi của hệ thống pháp luật về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đơ thị.
Bên cạnh đó, để góp phần hạn chế tính tình trạng điều chỉnh quy hoạch tuỳ tiện
như các đại biểu đã nêu, Bộ Xây dựng đã tham mưu Chính phủ để trình Quốc hội
thơng qua nội dung đối với 3 vấn đề liên quan đến quy hoạch. Trong đó nổi bật, đã sửa
đổi việc điều chỉnh quy hoạch được thực hiện theo trình tự, thủ tục đúng như Luật quy
hoạch; bãi bỏ giấy phép về quy hoạch. Trong thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục rà
soát để đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ quá
trình lập, phê duyệt và thực hiện quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch.
Một giải pháp cần chú ý là khi triển khai các dự án kinh tế - xã hội trên địa bàn,
cần nghiên cứu kỹ điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu sử dụng đất của số dân bị thu
hồi đất để có giải pháp bồi thường phù hợp, không để người dân thiếu đất sản xuất. Cụ
thể: Đối với số dân sinh sống hoàn toàn bằng sản xuất nơng nghiệp thì chỉ bồi thường
bằng tiền sau khi đã bảo đảm bố trí đủ quỹ đất để họ có thể duy trì sản xuất, bảo đảm
cuộc sống tốt hơn nơi ở cũ như chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng
thời, có giải pháp hỗ trợ về hạ tầng, điều kiện và kiến thức sản xuất... để họ từng bước
thích nghi được với điều kiện sản xuất và sinh sống tại nơi ở mới. Đối với các dự án
nông – lâm nghiệp, doanh nghiệp – đơn vị triển khai dự án phải bảo đảm cho người bị
thu hồi đất tham gia và hưởng lợi từ dự án (cho thuê đất, góp cổ phần bằng giá trị
quyền sử dụng đất, tuyển dụng lao động...) để họ có thu nhập ổn định, phát triển kinh

25



×