Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

“Chiến lược Diễn biến hoà bình, Bạo loạn lật đổ của Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.49 KB, 43 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DBHS: Diễn biến hịa bình
GPDT: Giải phóng dân tộc
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
CNDQ: Chủ nghĩa đế quốc

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………..…….……
1
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu………………………………………...
….2
3. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………..….…
2
B. NỘI DUNG………………………………………………………………….………
3


Chương 1: Lý thuyết cơ bản về chiến lược "Diễn biến hồ bình” …………..
……..3
1.1. Chiến lược "Diễn biến hồ bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
chống phá cách mạng Việt Nam………………………………. ………………….……
3
1.1.1.

Khái

niệm

Chiến



lược

“Diễn

biến

hịa

bình”……………………...3
1.1.2.

Nguồn

gốc

cổ

đại,

cận

đại………………………………………....3
1.1.3.

Nguồn

gốc

hiện


loạn

lật

đại………………………………………………..5
1.1.4.

Bạo

đổ……………………………………………………..9
1.2. Luận điểm của Việt Nam về Chiến lược “Diễn biến hịa bình” ……………
9
1.2.1. Khái niệm chính thống……………………………...……….
…….9
1.2.2.

Đối

tượng

tác

động……………………………………………….11
1.3.2. Mục tiêu.…………………………………………………………11
1.3. Các biện pháp thực hiện chiến lược “Diễn biến hịa bình”…..……………
12
1.3.1. Về chính trị - xã hội………………………………………………
12
1.3.2. Về giáo dục………………………………………………………13

1.3.3. Về truyền thông và văn hóa.……………......................................14
1.4. Diễn biến hịa bình ở Liên Xơ .……………………………………………
15
1.5.

Diễn

biến

hịa

bình



Việt

Nam

hiện

hóa,



nay…………………………………..18
1.5.1.

Diễn


biến

về

văn


hội……………………………………...21
1.5.2.

Diễn

biến

trong

báo

chí



truyền

thơng…………………………..22
1.5.3. Tự diễn biến……………………………………………………...23
Chương 2: Chủ trương vơ hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng của các thế lực thù địch
với luận điểm “phi chính trị hóa” đối với qn đội và công an ………..…………
25
2.1.


Bản

chất

…………………………………………………………….

……..25
2.2. Biểu hiện…………………………………………………………………..25
2.3. Thực tiễn bác bỏ sự phi lý của chủ trương “Phi chính trị hóa” qn
đội….27
Chương 3: Giải pháp phịng chống chiến lược “Diễn biến hịa bình” và trách
nhiệm

của

sinh

viên…

……………………………………………………………………….30
3.1. Những giải pháp nhằm phịng, chống Chiến lược “Diễn biến hịa bình”, bạo
loạn

lật

đổ……………………………………………………………………………...30
3.2. Làm thất bại chủ trương “Phi chính trị hóa” qn đội và công an của các
thế


lực

thù

địch…………………………………………………………………………….32
C.KẾT
LUẬN………………………………………………………………………...37
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..………….…38


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Diễn biến hòa bình”, “Bạo loạn lật đổ” là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và
thế lực thù địch tiến hành với những nước Xã hội Chủ nghĩa mới nói chung và với Việt
Nam nói riêng . Đối với nước ta, cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hịa bình” là nhiệm
vụ của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng và cần
được tiến hành thường xuyên, kiên trì, bền bỉ .
Kể từ khi dành độc lập và thống nhất đất nước đến nay, trên con đường tiến lên
Chủ nghĩa Xã hội , Việt Nam đã và đang là mục tiêu bị thế lực thù địch thực hiện
“Diễn biến hịa bình”, “Bạo loạn lật đổ” nhằm xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng, xóa
bỏ Chủ nghĩa Xã hội, làm cho Việt Nam chuyển hóa theo chế độ Tư bản Chủ Nghĩa và
hoàn toàn lệ thuộc vào chúng .
Các thế lực thù địch đã sử dụng mọi thủ đoạn từ tiến hành những hoạt động trực
tiếp như bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về ngoại giao đến những hoạt động gián
tiếp như gây kích động, bạo loạn trong nước cũng như tài trợ cho các nhóm, tổ chức
phản động trong và ngồi nước chống phá chính quyền, gây chia rẽ khối đại đồn kết
tồn dân tộc hịng chống phá chế độ Xã hội Chủ nghĩa .
Để bảo vệ Đảng , bảo vệ chế độ Xã hội Chủ nghĩa , bảo vệ nền tự chủ dân tộc ,
chúng ta cần phải chống lại “Diễn biến hịa bình” và “Bạo loạn lật đổ”. Việc nhận diện
“Diễn biến hịa bình”, “Bạo loạn lật đổ” trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn ;

đi sâu nghiên cứu quá trình hình thành , phát triển , những thủ đoạn , bản chất của
chiến lược “Diễn biến hịa bình” và “Bạo loạn lật đổ” của Chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động; đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm
trong cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hịa bình”, “Bạo loạn lật đổ ” ở Việt Nam là
điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và hết sức cần thiết .
Xuất phát từ nhận thức trên, nhóm đã chọn đề tài “Chiến lược "Diễn biến hồ
bình", Bạo loạn lật đổ của Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách
mạng Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình .
Trên ý nghĩa đó , thơng qua q trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn những
thủ đoạn mà các thế lực thù địch đã và đang tiến hành, nhóm xin tập trung phân tích

4


một số trường hợp cụ thể đế thấy được âm mưu và thủ đoạn “Diễn biến hịa bình”,
“Bạo loạn lật đổ” ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch . Từ đó địi hỏi Đảng ta
phải có những giải pháp để chống “Diễn biến hịa bình”, “Bạo loạn lật đổ” ở nước ta
một cách triệt để
2.Mục đích và đối tượng nghiên cứu
Bài tiểu luận nhằm làm sáng tỏ những vấn đề cốt lõi về Chiến lược "Diễn biến
hoà bình", Bạo loạn lật đổ của Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá
cách mạng Việt Nam hiện nay, cũng như việc các thế lực thù địch chủ trương vơ hiệu
hóa sự lãnh đạo của Đảng với luận điểm “phi chính trị hóa” đối với qn đội và cơng
an. Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, chúng em sẽ lấy các quan điểm
khoa học về dấu hiệu pháp lý hình sự của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người; các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người; thực tiễn áp dụng pháp luật về các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người trên địa bàn cả nước nói chung và với sinh viên nói
riêng để nghiên cứu những vấn đề của đề tài.
3.Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được phát triển trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm Đảng. Ngoài những phương pháp chung,
phổ biến trong nghiên cứu lý luận về vấn đề dân tộc, giai cấp, tôn giáo, quan hệ quốc
tế, về “Diễn biến hịa bình”, “Bạo loạn lật đổ”, đề tài cịn sự dụng phương pháp nghiên
cứu lịch sử , logic, phương pháp phân tích – tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực
tế …
Các thành viên cùng làm việc nhóm, dựa trên dàn ý của bài tiểu luận, mỗi thành
viên sẽ tự tham khảo sách, báo điện tử, các tài liệu có liên quan v.v. đến vấn đề cần
nghiên cứu. Sau đó nhóm trưởng chọn lọc các ý kiến hay, thống nhất lại và đưa bản
báo cáo ra cho các thành viên cùng xem để quyết định có sử dụng thơng tin đó hay
khơng. Nội dung bài tiểu luận cuối cùng sẽ được các thành viên cùng kiểm tra để tìm
ra các lỗi sai hoặc chưa hợp lý để đạt được sự chính xác cao nhất.

5


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ
CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HỊA BÌNH”
1.1. Chiến lược “Diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
chống phá cách mạng Việt Nam:
1.1.1. Khái niệm Chiến lược “Diễn biến hồ bình”
“Diễn biến hồ bình" là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước không tuân theo sự lãnh đạo của chúng từ bên
trong bằng biện pháp phi quân sự. Nội dung chính của chiến lược "diễn biến hồ
bình" là kẻ thù sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hố, xã hội, đối
ngoại, an ninh..., để phá hoại, làm suy yếu từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Kích động các mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra các lực lượng chính trị đối lập núp dưới
chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, sắc tộc, khuyến khích tư nhân

hố về kinh tế và đa ngun về chính trị, làm mơ hồ giai cấp và đấu tranh giai cấp
trong nhân dân lao động.
Đặc biệt, chúng coi trọng khích lệ lối sống tư sản và từng bước làm phai nhạt
mục tiêu, lí tưởng xã hội chủ nghĩa ở một bộ phận học sinh. Triệt để khai thác và lợi
dụng những khó khăn, sai sót của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tạo nên sức ép, từng bước chuyển hoá và thay đổi đường lối
chính trị, chế độ xã hội theo quỹ đạo chủ nghĩa tư bản.
1.1.2. Nguồn gốc cổ đại, cận đại
Trong lịch sử, rất nhiều đế chế, quốc gia vĩ đại được thành lập với những chiến
tích huy hoàng, thống trị những vùng đất rộng lớn, quân đội hùng mạnh, nhưng lại dần
suy thoái và sụp đổ sau một thời gian hịa bình kéo dài, ví dụ như Đế chế La Mã, Đế
quốc Mông Cổ, Đế quốc Ba Tư, các triều đại Nhà Tống, nhà Minh, nhà Thanh... ở
Trung Quốc.

6


Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà sử học đã tổng kết nguyên nhân sụp đổ của các
đế chế, triều đại sau một thời gian sống trong hịa bình và thịnh vượng. Theo lời của
Alexander Tytler, giáo sư lịch sử thế kỷ 19 ở Scotland thì các quốc gia hùng mạnh đã
phát triển nhờ vào đạo đức tinh thần và sự gắn kết xã hội, nhưng sau khi đã thành
công, đời sống trở nên sung túc thì người dân các nước này bắt đầu suy đồi về đạo
đức, quan chức trở nên tham nhũng và cuối cùng là cả quốc gia suy tàn:
"Tuổi thọ trung bình của các nền văn minh vĩ đại nhất thế giới kể từ khi bắt đầu
lịch sử nhân loại, là khoảng 200 năm. Trong suốt 200 năm đó, các quốc gia này
ln tiến triển qua chuỗi sau: Từ nô lệ dẫn đến đạo đức tâm linh; Từ đạo đức
tâm linh dẫn đến lòng can đảm; Từ lịng can đảm dẫn đến sự giải phóng; Từ sự
giải phóng dẫn đến sự sung túc; Từ sự sung túc dẫn đến sự ích kỷ; Từ sự ích kỷ
dẫn đến sự thờ ơ, từ sự thờ ơ dẫn đến sự lệ thuộc; Từ sự lệ thuộc dẫn đến làm
nô lệ"

Vào thế kỷ 14, học giả Ibn Khaldun, dựa trên nghiên cứu về lịch sử các đế chế
cổ đại, Hồi giáo và Kitơ giáo, đã xác định một mơ hình chu kỳ về sự thành lập, phát
triển rồi diệt vong của 1 quốc gia hoặc triều đại. Tất cả chúng đều trải qua bốn giai
đoạn sau:
a) Giai đoạn đầu tiên: Thiết lập triều đại/xã hội mới.
Các nhà lãnh đạo rất tài năng, người dân thì đồn kết, tơn trọng đạo đức và rất
dũng cảm. Mọi người tin tưởng lẫn nhau và sẵn sàng cống hiến cho tập thể.
b) Giai đoạn thứ 2: Suy thoái.
Xã hội chuyển sang lối sống đề cao xa xỉ, phân hóa giàu nghèo gia tăng, và sự
đoàn kết giữa các tầng lớp bị phá vỡ. Người dân tầng lớp dưới trở nên quen với sự
phục tùng, trong khi tầng lớp trên trở nên xa xỉ, thích hưởng thụ. Nhưng nhiều người
trong số họ vẫn còn các đức tính cũ và vẫn hy vọng rằng lối sống đạo đức tồn tại trong
thế hệ trước có thể trở lại.
c) Giai đoạn thứ 3: Mục rỗng.
Xã hội đã hoàn toàn quên đi những giai đoạn tủi nhục, khốn khổ trong lịch sử,
như thể giai đoạn đó chưa bao giờ tồn tại, bởi vì họ đã quen sống trong thịnh vượng và

7


dễ dàng. Qua thời gian dài sống trong hưởng thụ, tầng lớp thống trị trở nên mềm yếu
giống như phụ nữ và trẻ em, họ khơng cịn khả năng chiến đấu và lãnh đạo. Cịn tầng
lớp bình dân thì chứng kiến quá nhiều sự bất công nên ngày càng chán ghét đất nước,
lịng ích kỷ và tư lợi ngày càng gia tăng, khơng mấy ai cịn muốn cống hiến cho xã hội
hoặc chiến đấu vì tập thể. Tinh thần đồn kết cộng đồng gần như biến mất hoàn toàn,
xã hội giống như một tòa nhà đã mục ruỗng cột trụ, chỉ cần một biến cố nhỏ là có thể
sụp đổ tan tành.
d) Giai đoạn thứ 4: Sụp đổ.
Đất nước và triều đại sụp đổ do nội loạn hoặc do sự chinh phục từ một quốc
gia/triều đại khác vẫn còn đang trong giai đoạn 1 đầy mạnh mẽ.

Chu kỳ nói trên vẫn đúng ở mọi quốc gia trong thời kỳ hiện đại. Có phân tích
cho rằng văn minh phương Tây (Mỹ và Tây Âu) hiện đã bước vào giai đoạn thứ 3. Các
nước này đứng hàng đầu thế giới về kinh tế và công nghệ, người dân sống sung túc
(giống như Đế chế La Mã trước kia), nhưng lối sống hưởng thụ lại khiến đạo đức xã
hội bị thụt lùi. Kể từ sau Thế chiến 2, chủ nghĩa cá nhân, quan hệ tình dục trước hơn
nhân, phim ảnh khiêu dâm, phong trào cổ vũ đồng tính luyến ái, chuyển giới, hơn nhân
đồng tính... nảy nở mạnh ở Mỹ và Tây Âu, chúng đã phá hủy phần lớn các giá trị đạo
đức tinh thần và đức tin Ki-tô giáo trong xã hội. Nhà bình luận Mark Steyn phân tích
rằng xã hội các nước Tây Âu đang tự sát và đi đến hấp hối bởi tỷ lệ kết hôn và sinh sản
giảm xuống quá thấp, giới trẻ thì mất hẳn đạo đức truyền thống và niềm tin vào Ki-tô
giáo, trong khi dân số Hồi giáo di cư đến Tây Âu đang tăng nhanh và con cháu họ vẫn
duy trì rất tốt niềm tin Hồi giáo của mình. Mark Steyn nói rằng đã q muộn để cứu
vãn các nước Tây Âu:
“Châu Âu thời kỳ hậu Ki-tơ giáo khơng thực sự có niềm tin và nó cũng khơng có
chuẩn mực gia đình. Họ đang biến dần vào quá khứ. Xã hội của họ, về cơ bản, đã
bị phá vỡ thành những mảnh nhỏ”.
Nhà nghiên cứu Richard Dawkins cảnh báo rằng sự sụp đổ của các xã hội Kitô
giáo ở Tây Âu không phải là điều xa vời. Với tình trạng này, thì tới khoảng năm 2050 2070, người Hồi giáo sẽ trở thành nhóm dân cư chiếm đa số tại các nước Tây Âu. Khi

8


đó, văn minh Hồi giáo sẽ "đánh chiếm" được Tây Âu mà không cần súng đạn, và văn
minh Tây Âu bản địa sẽ tàn lụi. Đó sẽ là ví dụ minh họa rõ ràng cho định luật
của Alexander Tytler và Ibn Khaldun: “Khi một đất nước giàu có về vật chất nhưng lại
mất đi giá trị tinh thần và đạo đức, thì đất nước đó sẽ sớm bị thơn tính bởi một xã hội
khác vẫn duy trì được nền tảng tinh thần và đạo đức”.
1.1.3. Nguồn gốc hiện đại
Chiến lược “Diễn biến hồ bình” đã ra đời, phát triển cùng với sự điều chỉnh
phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động

quốc tế để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến lược "Diễn biến hồ bình" của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn
khác nhau.
a) Giai đoạn từ 1945 – 1980:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trước sự lớn mạnh của Liên Xô sự ra đời của
một loạt nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh
chóng... chủ nghĩa đế quốc thực hiện chiến lược toàn cầu: Ngăn chặn" sự bành trướng
của chủ nghĩa cộng sản. Chiến lược này do Tổng thống Mỹ Tru-man khởi xướng ngày
12 tháng 3 năm 1947, trong đó coi trọng dùng thủ đoạn quân sự đe doạ, bao vây, can
thiệp vũ trang, cùng với tiến hành chiến tranh để "ngăn chặn" ảnh hưởng của Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa.
Trước đó ngày 22 tháng 12 năm 1946, Ken-man đại diện lâm thời của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ tại Liên Xơ trình nên chính phủ Mĩ một bức điện 8000 từ về kế
hoạch chống Liên Xơ tồn diện hơn bao gồm: Bao vây quân sự, phong toả kinh tế; lật
đổ chính trị; thậm chí dùng vũ lực can thiệp. Cũng trong thời gian này, giám đốc CIA (
cơ quan tình báo Mĩ ) tuyên bố: Mục tiêu là phải reo rắc ở Liên Xô sự hỗn loạn và phải
bắt đầu bằng chiến tranh tâm lí thay giá trị của Liên Xơ bằng đồ rởm và tìm mọi cách
ủng hộ và nâng đỡ đám gọi là “nghệ sĩ” để họ truyền bá bạo lực, đồi trụy, chủ nghĩa vơ
liêm sỉ, phản bội vào Liên Xơ. Tóm lại, mọi thứ vơ đạo đức. Từ đó chiến tranh tâm lí
chống Liên Xô được nâng lên hàng quốc sách ở Mĩ, gọi là chiến tranh tâm lí tổng lực.

9


Tháng 4 năm 1948, Quốc hội Mĩ chính thức phê chuẩn kế hoạch Mác San, tăng
viện trợ để khích lệ lực lượng dân chủ, cài cắm gián điệp vào các đảng cộng sản để
phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Tây Âu, hướng
họ phụ thuộc vào Mĩ. Trong hai năm 1949 - 1950 Mĩ đã chi 50 triệu đô la cho hoạt
động chiến tranh tâm lí chống Liên Xơ . Năm 1949 Mĩ lập Uỷ ban châu Âu tự do có
đài phát thanh riêng. Tháng 7 năm 1947, khi đã trở về Oa-sinh-tơn giữ chức Phó giám

đốc học viện quốc phịng, chuyên trách về đối ngoại, Ken- nan lại trình bầy những
biện pháp bổ xung cho chiến lược "ngăn chặn": bên cạnh việc tăng cường vũ lực và
sẵn sàng sử dụng vũ lực, cần tăng cường viện trợ cho các nước xung quang Liên Xô.
Như vậy, cho đến đầu thập kỷ 50, với chủ nghĩa Tru-man ý tưởng "diễn biến
hồ bình " đã được bổ xung cho chiến lược tiến công quân sự của Mĩ chống Liên Xô.
Từ năm 1953, Ai-Xen-Hao nhận chức tổng thống và 1956 lại trúng cử nhiệm kỳ
II đến năm 1961, chính phú Mĩ đã đề ra chiến lược quân sự "trả đũa ồ ạt" Ai-Xen-Hao
dựa vào sức mạnh của răn đe vũ khí hạt nhân để thực hiện "ngăn chặn" chủ nghĩa cộng
sản. Mĩ đã đưa quân đi khắp thế giới, can thiệp vào nội bộ chính trị các nước trong thế
giới thứ ba. Trong đó chúng coi chiến trường Việt Nam là mục tiêu chính để phá hoại
CNXH và phong trào đáu tranh giải phóng dân tộc (GPDT).
Song song với chiến lược trả đũa ồ ạt, học thuyết “Ngăn chặn phi vũ trang” của
Ken-man được tán dương và hưởng ứng, bổ xung bởi các học giả của tập đoàn thống
trị Mĩ, xuất hiện ý tưởng “hồ bình giải phóng” của AlenDalet. Như vậy, ý tưởng
“diễn biến hồ bình” được bổ xung và trở thành biện pháp của chiến lược “Ngăn chặn”
của đế quốc Mĩ.
Đến tháng 01/1961, Ken-nơ-đi thay Aixenhao và đã đưa ra chiến lược "phản
ứng linh hoạt" cùng chiến lược "hồ bình", thực hiện chính sách "mũi tên và cành
Ơliu"..Từ đây, "diễn biến hồ bình" đã bước đầu trở thành chiến lược cơ bản của chủ
nghĩa đế quốc và luôn đi cùng sức mạnh quân sự.
Tháng 12/1963 Kennơ đi bị ám sát, phó tổng thống Giôn xơn thay thế, kiêm
nhiệm tới năm 1969, Giôn xơn thúc đẩy chậy đưa vũ trang, triệt để dùng sức mạnh

10


quân sự đi kèm với những hoạt động phá hoại bằng chính trị mà điển hình là: các vụ
bạo loạn ở CHDC Đức (1953), Ba lan, Hungary (1956) Tiệp khắc (1968). Do lực
lượng các nước XHCN trong đó có Liên bang Xô viết lớn mạnh, chúng lấy chiến lược
“phản ứng linh hoạt” thay cho chiến lược “trả đũa ồ ạt” và tìm kiếm những biện pháp

mới đi song song cùng các hoạt động quân sự hòng chống phá hệ thống XHCN.
Từ năm 1961 Mĩ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh Cục bộ”
chúng đã dưa 50.000 quân Mĩ vào Miền Nam, bị quân và dân ta đánh cho thất bại
thảm. hại. Tháng 3/1968 Giôn iXơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bon Miền Bắc
Việt Nam, Phải tiến hành đàm phán tại hội nghị Pari, “chiến lược phản ứng linh hoạt”
bị phá sản.
Từ năm 1968 đến năm 1972 Nic xơn trúng cử tổng thống trong bối cảnh so
sánh lực lượng Mĩ - Xô đã thay đổi nhất là lực lượng hạt nhân chiến lược đang ở thế
cân bằng, thất bại trong chiến trường Trung đông, Việt Nam. Nicxơn thực hiện chiến
lược quân sự “răn đe thực tế” mà mục đích cơ bản là ngăn chặn phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng XHCN đang diễn ra trên toàn thế giới.
Cũng trong thời gian này Mĩ thực hiện chính sách ngoại giao "cây gậy và củ cà
rốt " tuy vẫn coi trọng răn đe vũ khí hạt nhân nhưng đã chủ trương tăng cường tiếp
xúc, hoà hoãn với các nước xã hội chủ nghĩa, tiến hành thẩm thấu tư tưởng văn hoá,
gieo rắc hạt giống chống phá từ bên trong... thúc đẩy tiến trình, “diễn biến hồ bình"
đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Chính Nícxơn đã nêu ra chính sách đối ngoại của
Mỹ đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là dùng đối thoại thay cho đối đầu.
Đàm phán trên thế mạnh là thủ đoạn của Nícxơn để thực hiện "diễn biến hồ bình"
Đến tháng 12 năm 1957, Tổng thống Aixenhao đã tuyên bố "Mĩ sẽ giành thắng
lợi bằng hoà bình" và mục đích của chiến lược để làm suy yếu và lật đổ các nước xã
hội chủ nghĩa.
b) Giai đoạn từ năm 1980 đến nay:

11


Bước vào thập kỷ 80, chủ nghĩa Tư bản đạt được ổn định và có bước phát triển.
Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, thực hiện đường lối cải tổ, cải
cách sai lầm, càng dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Lợi dụng cơ hội đó, chủ nghĩa đế
quốc hồn chỉnh chiến lược "diễn biến hồ bình" và ráo riết thực hiện. Nhằm làm sụp

đổ Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Có thể lấy năm 1988, Ních-Xơn xuất bản cuốn sách "1999, chiến thắng không cần
chiến tranh" làm mốc cho sự hoàn chỉnh chiến lược "diễn biến hồ bình".
Thất bại trong chiến lược sử dụng lực lượng quân sự mà điển hình là Việt Nam
- Trong nhiệm kỳ 2 (giữa những năm 80) của tổng thống Ri gân, bắt đầu điều chỉnh
chiến lược toàn cầu từ “răn đe thực tế bằng quân sự” sang “chiến lược DBHB” đối với
các nước XHCN mà khởi nguồn là chính sách ngoại giao của cựu ngoại trưởng Mĩ
Hen - Kit - xin - giơ và cơng cuộc cải tổ chính trị của nguyên Tổng bí thư ĐCSLX M.
C. Gobachov mà kết quả của nó là sự tan rã của các nước XHCN ở đơng Âu và Liên
Xơ, sự thối trào của CNXH.
Sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục ra sức sử dụng chiến lược "Diễn biến hồ bình"
để thực hiện âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Các thế lực thù địch
cho rằng, phải làm xói mịn tư tưởng, đạo đức và niềm tin cộng sản của thế hệ trẻ để
"tự diễn biến", tự suy yếu, dẫn đến sụp đổ, tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số
nước còn lại.

1.1.4. Bạo loạn lật đổ
Bạo loạn lật đổ là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng
phản động hay lực lượng li khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến
hành gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa
phương hay trung ương.

12


Về hình thức của bạo loạn, gồm có bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang hoặc bạo loạn
chính trị kết hợp với vũ trang.
Trên thực tiễn, bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực phản động gắn liền với chiến lược "diễn biến hồ bình" để xố bỏ chủ nghĩa xã

hội. Khi tiến hành bạo loạn lật đổ, các thế lực thù địch thường kích động những phần
tử quá khích, làm mất ổn định trật tự an toàn xã hội ở một số khu vực và trong một
thời gian nhất định (thường chỉ diễn ra trong không gian hẹp và thời gian ngắn) tiến tới
lật đổ chính quyền ở địa phương hoặc nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quy mô bạo loạn lật đổ, có thể diễn ra ở nhiều mức độ, từ quy mô nhỏ đến lớn.
Phạm vi địa bàn xảy ra bạo loạn lật đổ có thể ở nhiều nơi, nhiều vùng của đất nước,
trọng điểm là những vùng trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hố của Trung ương và
địa phương, nơi nhạy cảm về chính trị hoặc ở các khu vực, địa bàn mà cơ sở chính trị
của địa phương yếu kém.
1.2. Luận điểm của Việt Nam về Chiến lược “Diễn biến hịa bình”
1.2.1. Khái niệm chính thống
Theo định nghĩa của Từ điển Bách khoa Việt Nam của Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam thì:
“Diễn biến hịa bình chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động quốc tế, được thực hiện dưới một phương thức, thủ đoạn mới để chống
phá, đẩy lùi và đi đến xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Đối tượng của chiến lược Diễn
biến hịa bình là các nước có khuynh hướng phát triển phi tư bản chủ nghĩa.
Bản chất của chiến lược Diễn biến hịa bình là chống chủ nghĩa xã hội. Nội
dung cơ bản là phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa về các mặt chính trị, tư
tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, v.v... Phương thức và thủ đoạn chủ yếu là tạo
dựng và thúc đẩy những nhân tố phản động, chống đối từ bên trong, đẩy đối
phương vào khủng hoảng toàn diện, từng bước chuyển hố chế độ chính trị
theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc bị chính các thế lực chống đối
dùng bạo lực lật đổ.

13


Diễn biến hịa bình được tiến hành thường là tổng hợp nhiều biện pháp buộc
đối phương trong cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế lực, nhiều hoạt động

chống đối, thúc đẩy cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội thành khủng hoảng
chính trị, tạo ra tình thế bạo loạn lật đổ chế độ”.
Những ý tưởng ban đầu về Diễn biến hịa bình do các nhà hoạch định chiến
lược phương Tây soạn thảo từ cuối những năm 40 thế kỉ 20, sau được tiếp tục bổ sung;
cuối thập kỉ 80 thế kỷ 20, được nâng lên và hoàn chỉnh thành chiến lược. Trong điều
kiện mới của so sánh lực lượng trên thế giới, chiến lược Diễn biến hịa bình được tiến
hành chủ yếu bằng các thủ đoạn phi quân sự, nhằm "chuyển hóa hịa bình" các nước xã
hội chủ nghĩa theo tư bản chủ nghĩa. Sau biến động ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu, phương Tây công khai tuyên bố chuyển hướng chiến lược "kiềm chế"
sang chiến lược "mở rộng" với hai nội dung cơ bản: "dân chủ hố về chính trị" và "tự
do hoá về kinh tế". Vấn đề "nhân quyền" và "dân chủ" được coi là vũ khí lợi hại.
Tóm lại, “Diễn biến hồ bình" là một chiến lược chống phá các nước XHCN
bằng hình thức tổng hợp phi vũ trang là chính của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch, với mục đích giành "chiến thắng mà khơng cần chiến tranh". Đó là một chiến
lược phản động, cực kỳ nguy hiểm, nhằm xoá bỏ CNXH, hoặc chuyển hoá các nước
XHCN vào quỹ đạo các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN). Ngày nay, chiến lược "Diễn
biến hịa bình" đang được các thế lực thù địch sử dụng với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt hơn và đang phát triển từ "Diễn biến hịa bình" kết hợp với bạo loạn, lật đổ sang
"Diễn biến hịa bình" kết hợp ly khai, bạo loạn lật đổ. Đối với Việt Nam, các thế lực
thù địch đang đẩy mạnh chiến lược này với mục tiêu khơng che đậy như nhiều chính
khách phương Tây tun bố: “chuyển hố chế độ chính trị ở Việt Nam theo kiểu Đơng
Âu", cụ thể là: xố bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ chế độ
XHCN, chuyển hóa Việt Nam theo hướng Tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, "Diễn biến hịa
bình" đã và đang là một trong những thách thức của cách mạng Việt Nam, bởi thách
thức đó đã đi sâu vào bên trong nội bộ của chúng ta.

1.2.2. Đối tượng tác động

14



Để đạt được mục tiêu đề ra, phạm vi tác động của "Diễn biến hịa bình" về tư
tưởng và lý luận tập trung hướng tới bao gồm.
-

Một bộ phận cán bộ trong Đảng, kể cả cán bộ cấp cao, đang giữ những vị trí trọng
trách trong bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống chính trị, cán bộ hoạch định

-

chiến lược, cán bộ làm công tác tư tưởng lý luận, cơng tác, tổ chức...
Trí thức và tầng lớp văn nghệ sĩ - một lực lượng nhạy cảm chính trị xã hội cao,

-

thường chịu sự tác động rất nhanh nhạy trước những biến cố xã hội.
Thanh niên, sinh viên, lực lượng đơng đảo và có vai trị to lớn trong đời sống xã
hội, là bộ phận năng động, nhạy bén, có khả năng tiếp nhận và thích nghi với cái
mới nhanh, nhiệt tình, xơng xáo; nhưng vốn sống và kinh nghiệm ít, kiến thức và
bản lĩnh chính trị hạn chế, mức độ kiềm chế và năng lực đề kháng trước những

-

cám dỗ thấp, dễ bị lôi kéo bởi những luồng thơng tin sai lệch.
Những phần tử cơ hội chính trị có quan điểm sai trái, đối lập với chủ trương
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đây là những thành
phần cực đoan giàu tham vọng chính trị, sẵn sàng tiếp tay cho nước ngồi, tập

-


hợp lơi kéo xây dựng lực lượng chống phá ra từ bên trong.
Một bộ phận nhân dân do thiếu hiểu biết, hoặc bị lợi dụng, mua chuộc dụ dỗ, đặc
biệt là dân tộc ít người, đồng bào theo các tơn giáo... Bộ phận này thường bị kích
động, lơi kéo, trở thành qn cờ chính trị trong tay các thế lực nước ngồi. Bộ
phận này có vai trị như một cơng cụ gây áp lực chính trị, buộc chính phủ Việt
Nam nhượng bộ thay đổi đường lối.
1.2.3. Mục tiêu.
Mục tiêu của Diễn biến hịa bình tập trung ở các khía cạnh:
a) Về hệ tư tưởng: Dùng nhiều kế hoạch và phương tiện, tuyên truyền nhằm

xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Marx-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như những
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam, từ đó gây ra "tự diễn biến", hòng tạo ra sự khủng hoảng về lý tưởng chính
trị, làm suy thối về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Từ đó làm chệch hướng và sụp đổ chế độ chính trị, từng bước thay thế chủ nghĩa
Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh bằng ý thức hệ tư bản chủ nghĩa.
b) Về định hướng phát triển: Xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, mục tiêu, lý tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Tạo áp lực và gây sức ép buộc Việt
Nam quay trở lại chủ nghĩa tư bản.
15


c) Về thể chế pháp luật: Địi xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp, thủ tiêu vai trò lãnh
đạo của Đảng, thực hiện đa nguyên, đa đảng.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh “Diễn biến hịa bình” chống phá
nước ta toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hố, xã hội,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại... Và khơng loại trừ, khi có điều kiện và thời cơ, chúng
kết hợp cả “Diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ với biện pháp vũ trang, tiến hành
chiến tranh xâm lược. Song, trọng tâm, then chốt vẫn là phá hoại về chính trị-tư tưởng,
trong đó lấy phá hoại về tư tưởng- văn hố là khâu đột phá. Để thực hiện điều này,

chúng đã và đang tổ chức phối hợp lực lượng phản động trong nước tập trung xuyên
tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam; kêu gọi và kích động địi "đa ngun chính trị", "đa
đảng đối lập", địi "tự do hố về chính trị" theo hướng dân chủ tư sản; núp dưới chiêu
bài " dân chủ", "nhân quyền" để truyền bá tư tưởng tư sản và các quan điểm “xã hội
dân chủ” ở Việt Nam. Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, chống tham nhũng và những
sơ hở, yếu kém của một bộ phận tổ chức, cán bộ trong quản lý kinh tế, xã hội để kích
động, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân.
1.3. Các biện pháp thực hiện chiến lược “Diễn biến hịa bình”
1.3.1. Về chính trị – xã hội
Phối hợp đồng bộ giữa bên ngoài và bên trong mà chủ yếu là triệt để khai thác
các phần tử bất mãn chống đối trong nước, nhất là một số trí thức và cán bộ biến chất,
các phần tử cơ hội chính trị, tập trung xuyên tạc và phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh với mưu đồ dùng chính cộng sản chống lại và phản bác chủ nghĩa
cộng sản. Trọng tâm là làm cho quần chúng nhân dân, kể cả một bộ phận cán bộ, đảng
viên xa rời chủ nghĩa Marx, xa rời tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sử dụng chính những kẻ cơ hội và Đảng viên biến chất. Mục tiêu của tự diễn
biến trong nội bộ Đảng là tách Đảng ra khỏi dân, đối lập Đảng với dân. Thơng qua thổi
phồng khuyết điểm, yếu kém của chính những phần tử cơ hội, bọn quan liêu, tham
nhũng để quy chụp, đánh đồng những Đảng viên xấu, hủ bại với những Đảng viên tốt,
trung kiên; nhằm làm cho quần chúng nhân dân lẫn lộn tốt-xấu, đánh đồng những cá
nhân biến chất với lý tưởng cộng sản và tổ chức Đảng nói chung.

16


Thơng qua các hiện tượng cụ thể có thật, những yếu kém, bất cập của chính
phủ, nhưng được nhào nặn, bóp méo, cường điệu với dụng ý xấu, nhằm quy kết và phủ
định những thành quả của đổi mới, xuyên tạc nhằm bôi đen chế độ, phủ định con

đường chủ nghĩa xã hội.


Về xã hội: lợi dụng các mâu thuẫn, khiếu kiện, các chiêu bài "dân chủ", "nhân
quyền" và "tôn giáo" để can thiệp vào tình hình nội bộ, phá hoại sự ổn định của
Việt Nam.



Về quốc phịng - an ninh: xun tạc đường lối, chính sách quốc phịng-an ninh, đối
ngoại của Đảng-Nhà nước. Thực hiện mưu đồ "phi chính trị hóa" Qn đội nhân
dân Việt Nam và cơng an nhân dân… làm mất lý tưởng, sức chiến đấu của lực
lượng vũ trang để sẵn sàng tạo cớ răn đe, can thiệp quân sự hoặc xâm lược khi điều
kiện chín muồi.



Về kinh tế: xun tạc đường lối, chính sách kinh tế; thúc đẩy chuyển hoá cơ cấu
kinh tế, thành phần kinh tế, xâm nhập, chiếm lĩnh các địa bàn, các lĩnh vực kinh tế
quan trọng nhằm tước bỏ vai trò điều hành nền kinh tế của Nhà nước; từ đó thúc
đẩy, chuyển hóa nền kinh tế sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.



Về lịch sử: xuyên tạc lịch sử dân tộc và bơi nhọ uy tín của các nhà lãnh đạo cách
mạng Việt Nam.
1.3.2. Về giáo dục
Thông qua các chương trình đưa cán bộ ra nước ngồi học tập, nghiên cứu bằng

nhiều nguồn vốn khác nhau, nhất là nguồn tài trợ nước ngồi, hịng tạo ra một “thế hệ

cán bộ thân phương Tây”, sau này nắm dần các cương vị trọng yếu trong hệ thống
chính trị. Mặt khác, thơng qua việc hợp tác đào tạo tại Việt Nam để truyền bá các quan
điểm xa lạ, gạt bỏ hệ tư tưởng cách mạng trong học viên.
Tổng thống Mỹ Ronald Reagan từng tuyên bố: "Đầu tư cho học sinh - sinh viên
các nước Xã hội chủ nghĩa đang du học ở Mỹ là một khoản đầu tư lâu dài, hãy gây
ảnh hưởng tư tưởng với họ, hun đúc họ trong lối sống và giá trị quan niệm văn minh
Mỹ, chờ họ từng bước trở thành rường cột của xã hội họ, rồi thơng qua cái đầu của họ
biến đất nước đó chuyển mình theo nền văn minh tư bản của ta".

17


Ngay từ thập niên 1960, Mao Trạch Đông cũng lưu ý rằng các nước phương
Tây sẽ thông qua việc tài trợ cho các du học sinh để đào tạo các phần tử có tư tưởng
thân phương Tây, ủng hộ văn hóa phương Tây, rồi sau đó nhóm này sẽ về nước và
thâm nhập vào hệ thống chính trị, báo chí, truyền thơng, từ đó dần làm biến chất Đảng
Cộng sản Trung Quốc từ bên trong: "Chủ nghĩa đế quốc gửi gắm tham vọng Diễn biến
hịa bình vào thế hệ thứ 3, thứ tư của chúng ta, phải đặc biệt cảnh giác những kẻ dã
tâm và những kẻ có mưu đồ cá nhân muốn tiếm quyền lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước".
1.3.3. Về truyền thơng và văn hóa:
a) Về truyền thơng, báo chí:
o

Thơng qua con đường hợp tác trên các lĩnh vực giáo dục đào tạo, báo chí,
truyền thơng, hội thảo, triển lãm, tài trợ… để từng bước hình thành các tổ hợp,
tập đồn, câu lạc bộ, báo chí tư nhân, nhà xuất bản tư nhân, trang thông tin điện
tử, cơ quan ngơn luận ngầm ủng hộ Diễn biến hịa bình. Thơng qua mơ hình
liên doanh - liên kết để vơ hiệu hóa vai trị kiểm duyệt của các nhà xuất bản,
nhằm tung ra thị trường các văn hóa phẩm độc hại, trái với thuần phong mỹ

tục, chuẩn mực đạo đức của dân tộc.

o

Tăng cường trun truyền về 3 mơ hình: quảng bá xã hội dân sự, cổ vũ việc
xóa bỏ vai trò điều tiết của Nhà nước trong kinh tế thị trường, quảng bá mơ
hình nhà nước theo hướng tư bản chủ nghĩa.

o

Tài trợ tiền bạc cho các nhà báo, tịa soạn báo, các quan chức chính quyền... để
họ viết bài bôi đen, xuyên tạc thực trạng xã hội; hoặc cho đăng những bài báo,
ý kiến cổ vũ hợp pháp hóa các tệ nạn như mại dâm, địi luật pháp cơng nhận
các quan hệ giới tính bất thường như đồng tính luyến ái, hơn nhân đồng
tính và chuyển đổi giới tính.

b) Về văn hóa: Thơng qua việc cấp tiền cho các tổ chức phi chính phủ nhằm đẩy
mạnh truyền bá lối sống suy đồi, đề cao vật chất, văn hóa hưởng thụ, đả kích bản
sắc văn hóa dân tộc, tung hơ "cái tơi cá nhân ích kỷ" và tơn sùng lối sống kiểu
phương Tây, bao gồm:

18


o

Cổ súy cho chủ nghĩa thực dụng và tình dục trước hơn nhân, cổ vũ các quan hệ
giới tính bất thường như đồng tính luyến ái, hơn nhân đồng tính và chuyển đổi
giới tính... nhằm phá hủy cơ cấu gia đình truyền thống và lan rộng các hành vi
lệch lạc giới tính trong thanh thiếu niên.


o

Cổ vũ hợp pháp hóa mại dâm, sòng bạc, cá độ... nhằm khiến người dân trở nên
băng hoại về lối sống, ngại khó - ngại khổ, gây tan vỡ gia đình, lãng quên hoặc
phủ nhận các giá trị truyền thống của dân tộc, văn hóa gia đình và tinh thần
sống vì cộng đồng.
Bản chất của chiến lược “Diễn biến hịa bình” là khơng hề thay đổi, song

phương thức, biện pháp tiến hành “Diễn biến hòa bình” thì biến hóa khơn lường và
ngày càng tinh vi, đa dạng. Mục tiêu của “Diễn biến hịa bình” về văn hóa là tập trung
phá hoại truyền thống văn hóa dân tộc, văn hóa cách mạng, các chuẩn mực đạo đức,
lối sống xã hội chủ nghĩa. Dùng nhiều biện pháp để các sản phẩm văn hóa độc hại xâm
nhập vào quần chúng, đặc biệt là thế hệ thanh niên, làm chuyển đổi giá trị thẩm mỹ,
chuyển đổi các thang bậc giá trị đạo đức của xã hội theo chiều hướng xấu; biến thế hệ
trẻ thành công cụ và lực lượng xã hội chủ yếu của Diễn biến hịa bình.
"Diễn biến hịa bình về văn hóa" là biện pháp âm thầm nhưng hậu quả mà nó
gây ra lại lâu dài nhất. Đánh vào văn hóa chính là đánh vào tương lai của cả dân tộc.
Kinh tế hoặc chính trị suy thối thì có thể khơi phục lại sau vài năm, cịn văn hóa - đạo
đức suy đồi thì phải mất nhiều thế hệ mới khơi phục được, thậm chí khơng bao giờ
khôi phục lại được. Một dân tộc mất đi bản sắc văn hóa, con người sống khơng có đạo
đức, khơng tơn trọng chuẩn mực xã hội, văn hóa trở nên lai căng thì dân tộc đó cũng sẽ
sớm suy tàn hoặc sẽ bị đồng hóa bởi văn hóa ngoại lai.
1.4. Diễn biến hịa bình tại Liên Xơ
Tại Liên Xơ, phương Tây đã thành công trong việc cài cắm những nhân vật có
tư tưởng sùng bái phương Tây nắm quyền tại các cơ quan truyền thơng, báo chí, tun
truyền lớn của đất nước. Ví dụ, từ 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ
báo có ảnh hưởng lớn tại Liên Xô được thay thế bởi những người ủng hộ chủ trương
“Tây hóa”, từ đó các tờ báo này đã gây khuynh đảo dư luận, làm cho nhiều người ngộ
nhận và ảo tưởng đối với chủ nghĩa tư bản phương Tây, tạo tiền đề để gây sự bất mãn

trong nhân dân, khiến họ quay sang cơng kích chủ nghĩa xã hội. Năm 1959, lần đầu

19


tiên có 4 cán bộ của Liên Xơ sang học ở Mỹ, 2 trong số đó là A. Yakovlev, Ủy viên Bộ
Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng phụ trách cơng tác tư tưởng-lý luận và tướng tình
báo C. Danilovich về sau đã có liên hệ với tình báo Mỹ (CIA).
Đến thập niên 1980, các nước phương Tây bắt đầu tài trợ thành lập một loạt các
tổ chức phi chính phủ ở Liên Xơ. Các tổ chức phi chính phủ này ra sức truyền bá tư
tưởng, lối sống và văn hóa phương Tây để tác động tới tư tưởng văn hóa, đạo đức của
người dân Liên Xơ. Về mặt truyền thông, trước tiên là phá vỡ sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước Liên Xô với hệ thống truyền thông – báo chí, tiếp đó là địi thành lập các
nhà xuất bản tư nhân, báo chí tư nhân, thu hẹp quyền lực của Chính phủ trong các hoạt
động xã hội
Tháng 1/1987, Gorbachev đề xướng phong trào xét lại lịch sử Liên Xô, các nhà
báo thân phương Tây được cài cắm trong các cơ quan báo chí lập tức viết hàng loạt bài
cơng kích: cơng nghiệp hóa đất nước của Stalin là “vơ tích sự”, phóng đại sai sót của
Stalin thời kỳ đầu chiến tranh, thậm chí phủ nhận thắng lợi của chiến tranh Vệ quốc vĩ
đại. Sau đó, việc phê phán Stalin dần dần chuyển sang phê phán, phủ định thành quả
của Cách mạng Tháng Mười, Chủ nghĩa Marx – Lenin. Các loại ấn phẩm, phát thanh
truyền hình quay sang chỉ trích lịch sử cách mạng, mặt trận báo chí của Đảng Cộng
sản Liên Xô dần bị “đánh chiếm”, tư tưởng Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên
dao động dữ dội, lòng tin vào sự nghiệp Cách mạng sụt giảm nghiêm trọng, trong khi
những luận điệu phê phán dù vô căn cứ lại được coi là chân lý. Kết quả là trong lúc
nguy cấp, đã khơng cịn ai đứng lên để bảo vệ Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1994, nhà văn Yuri Boldarev khi nhìn lại tình cảnh của thời kỳ này đã nói:
“Trong sáu năm, báo chí Liên Xơ đã thực hiện được mục tiêu mà quân đội Đức Quốc
xã tinh nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được khi xâm lược nước ta vào những năm
1940. Quân đội Đức có thiết bị kỹ thuật hàng đầu nhưng thiếu một thứ, đó là hàng

triệu ấn phẩm mang vi khuẩn hủy diệt tư tưởng của nhân dân”.
Diễn biến hịa bình trên lĩnh vực báo chí – tư tưởng ở Liên Xô cuối thập niên
1980 thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất, Đảng dần mất đi sự kiểm sốt với truyền thơng, báo chí và giới lý
luận. Xuất hiện rất nhiều bài viết xét lại lịch sử, xét lại chủ nghĩa xã hội trên báo chí
mà không bị ngăn chặn và xử lý.

20


Thứ hai, các “tổ chức phi chính phủ” xuất hiện rất nhiều (hơn 30.000 tổ chức
vào năm 1987), trong đó nhiều tổ chức nhận tài trợ nước ngoài, vận động ngầm hoặc
công khai truyền bá tư tưởng phủ nhận Nhà nước Liên Xơ.
Thứ ba, làn sóng xét lại lịch sử, phủ định lịch sử ở Liên Xô lan rộng. Tháng
6/1988, báo Tin tức cơng khai đăng bài chỉ trích bộ giáo trình Lịch sử Liên Xơ đang
được giảng dạy trong trường học, rồi sau đó chính ngành giáo dục cũng bãi bỏ giáo
trình này. Đến cuối năm 1988, có những tờ báo báo công khai xét lại, phủ nhận vai trò
của Cách mạng Tháng Mười.
Tháng 4/1989, Gorbachev kêu gọi các ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên
Xô tuổi đã cao hãy nghỉ hưu. 115 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã viết
đơn xin nghỉ hưu vì tin rằng đất nước sẽ phát triển hơn với đội ngũ được trẻ hóa. Đây
chính là sai lầm của những người cộng sản trung thành trong Đảng Cộng sản Liên Xô.
Trong ba năm 1987-1989, khoảng 50% cán bộ cơ quan chiến lược trong quân đội, hơn
100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch – chiến lược và 30% tướng lĩnh bị cách chức hoặc
loại khỏi quân đội với lý do “tư tưởng bảo thủ, không ủng hộ cải tổ”, thay thế họ là
những phần tử “cấp tiến”. Từ năm 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ
báo có ảnh hưởng lớn tại Liên Xơ được thay thế bởi những người ủng hộ chủ trương
“Tây hóa” của Gorbachev, từ đó các tờ báo này đã khuynh đảo dư luận, làm cho nhiều
người dân ảo tưởng vào phương Tây
Việc kiểm sốt báo chí, truyền thơng bị bng lỏng, dẫn tới việc báo chí Liên

Xơ bị tiền bạc và lợi ích thương mại chi phối vào cuối thập niên 1980, các tờ báo đua
nhau khai thác những vấn đề gây sốc như tình dục, bạo lực... Ngay cả một số tờ báo
giàu truyền thống như báo Đoàn viên thanh niên cộng sản Mátxcơva cũng trở thành
“báo lá cải vỉa hè”, thường xuyên đăng những nội dung tình dục, loạn luân nhằm thu
hút độc giả. Trên truyền thông xuất hiện những ý kiến địi mở nhà chứa và hợp pháp
hóa mại dâm, có người thậm chí cơng khai kiến nghị thành phố Mátxcơva dành riêng
một “khu đèn đỏ” để tổ chức mại dâm công khai. Dưới ảnh hưởng của thị trường và
cám dỗ vật chất, báo chí, truyền hình, phát thanh cũng như các nhà xuất bản đua nhau
theo đuổi lợi nhuận, khơng những qn đi trách nhiệm chính trị, thậm chí mất đi cả
lương tâm xã hội. Các tác phẩm học thuật nghiêm túc thì gần như vắng bóng, chỉ được
in ấn nội bộ để trao đổi trong phạm vi hẹp.

21


Đảng Cộng sản Liên Xô đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách và đã vượt qua
tất cả: Năm 1917, 35 vạn đảng viên đã lãnh đạo giai cấp cơng nhân Nga lật đổ ách
thống trị của Sa hồng, cùng nhân dân chống lại sự can thiệp vũ trang của 14 nước để
bảo vệ thành công cách mạng. Năm 1941, 5.540.000 đảng viên đã cùng nhân dân
chiến thắng phát xít Đức trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, lãnh đạo công cuộc
xây dựng Liên Xô trở thành siêu cường. Vậy nhưng, năm 1991, Đảng Cộng sản Liên
Xô với 20 triệu đảng viên lại sụp đổ, không phải do kẻ thù bên ngồi, mà chính là do
những mầm mống diễn biến, tự diễn biến tư tưởng bên trong nội bộ Đảng.
1.5 Diễn biến hịa bình ở nước ta hiện nay
Hiện nay, trong khi nhân dân ta đang nỗ lực đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phịng, an ninh, đấu tranh chống
“Diễn biến hịa bình", bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, thì lại có người cho rằng “Diễn
biến hịa bình" là do chúng ta “cố tình nặn ra”, là “sản phẩm trí tuệ khơng có thực tế”;
rằng, chúng ta đã cố tình thêu dệt để hù dọa nhân dân, để che đậy khuyết điểm, chứ
khơng có “Diễn biến hịa bình"! Đây là một sự hồ đồ về chính trị của một số người hay

là một thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch. Có lẽ cả hai.
Cần thấy rằng, khái niệm “Diễn biến hịa bình" không phải là sự “sáng tạo” của
những người cộng sản, cũng không phải là con "ngáo ộp" được thêu dệt nhằm hù dọa
nhân dân, mà đó là một chiến lược, là một sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc trong mục
tiêu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. Đối với cách mạng Việt Nam, “Diễn biến hịa bình” là
một nguy cơ, trong tình hình hiện nay, càng được ráo riết đẩy mạnh và quyết liệt hơn
với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
"Diễn biến hịa bình" là sự thực, là thực tế, đã và đang diễn ra hằng ngày, hằng
giờ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta, không phải là một con “ngáo ộp” do
chúng ta “cố tình nặn ra”, là “sản phẩm trí tuệ khơng có thực tế” như có những kẻ rắp
tâm xun tạc và sự lệch lạc trong nhận thức và lập trường chính trị của một số người.
"Diễn biến hịa bình" có hay khơng? Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam
thực hiện đấu tranh chống "Diễn biến hịa bình" hay khơng? Đó là do u cầu khách
quan, xuất phát trực tiếp từ chính âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam
22


của các thế lực thù địch chứ không phải do Đảng Cộng sản Việt Nam "cố tình vẽ ra".
Khơng nên suy nghĩ một cách méo mó, xun tạc rằng khơng có "Diễn biến hịa bình",
để rồi lên mặt khun nhủ Đảng và nhân dân ta "không nên chống nữa", rằng chống
"Diễn biến hịa bình" là "vơ dun", là "vẽ việc ra để làm".
Kêu gọi khơng nên chống "Diễn biến hịa bình" là một luận điệu đặc biệt nguy
hiểm. Đây thực sự là sự "tiếp tay" cho việc thực hiện âm mưu, thủ đoạn "Diễn biến
hịa bình" chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch; và đó cũng là một
chiêu thức mới, một thủ đoạn mới của các thế lực thù địch trong thực hiện "Diễn biến
hòa bình" chống phá cách mạng nước ta.
Âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch đối với cách
mạng Việt Nam đến nay là nhất quán, nhưng đã có nhiều thay đổi, khơng cịn giữ
ngun nghĩa như trước. Nó đã chuyển sang kết hợp thực hiện “Diễn biến hịa bình"
về tư tưởng, lý luận với “Diễn biến hịa bình" trên tất cả các lĩnh vực, với tiến cơng về

chính trị, cơng kích trực tiếp, trực diện vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chúng kết hợp xuyên tạc lịch sử, lên án, phủ định sự nghiệp cách mạng và các
cuộc kháng chiến chống xâm lược đầy hy sinh gian khổ của nhân dân ta, với việc phủ
định những giá trị hiện tại, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, với việc làm lệch
hướng tương lai phát triển của dân tộc. Những thủ đoạn tiến cơng đó được chúng kết
hợp với việc sử dụng con bài pháp lý đòi Việt Nam phải thay đổi chế độ, chính sách,
pháp luật quốc gia; gắn với những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực,
nhất là tình hình Biển Đơng.
Chúng kết hợp đẩy mạnh “Diễn biến hịa bình” với việc khuyến khích, tạo điều
kiện, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Những kiến nghị sửa
đổi Hiến pháp, pháp luật theo quan điểm dân chủ và giá trị phương Tây, đòi hạn chế
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, địi tự do báo chí (ra báo, nhà
xuất bản tư nhân…), tự do lập hội (địi thành lập cơng đồn độc lập), tự do hội họp,
biểu tình, địi xóa bỏ nhiều quy định trong Bộ luật Hình sự liên quan đến lĩnh vực an

23


ninh quốc gia..., cho thấy ngón địn “Diễn biến hịa bình” thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” được chúng thực thi rất ráo riết và đặc biệt nguy hiểm.
Vì thế, trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ phòng, chống “Diễn biến hịa bình”
của nhân dân ta càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Tính phức tạp, khó khăn trong
đấu tranh phịng, chống “Diễn biến hịa bình” biểu hiện ở chỗ, chúng ta khó phân định
rạch rịi đâu là “Diễn biến hịa bình”, đâu là những hạn chế, khuyết điểm của chúng ta.
Đấu tranh phòng, chống “Diễn biến hòa bình” hiện nay là một cuộc đấu tranh mang
tính tổng hợp.
Chúng ta cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế lực thù địch, ngăn chặn đồng
thời nhiều nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ

quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc đổi mới đất nước, bảo vệ
thành quả cách mạng của nhân dân ta trong gần 70 năm qua.
Đảng và nhân dân ta vừa phải đấu tranh phòng, chống “Diễn biến hịa bình”
vừa phải ra sức khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
đặc biệt là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Hay nói cách
khác, chống “Diễn biến hịa bình” phải gắn chặt với đấu tranh khắc phục tình trạng suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ.
Đấu tranh phịng, chống “Diễn biến hịa bình” hiện nay là một cuộc đấu tranh
mang tính sống cịn đối với chế độ xã hội và độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của
nước ta. Cuộc đấu tranh này dù có mn vàn khó khăn, nhưng chúng ta chỉ có một sự
lựa chọn, đó là: phải chiến thắng.
Muốn giành thắng lợi, trước hết chúng ta phải nỗ lực thực hiện tốt những vấn
đề rất cơ bản:
Một là, giữ vững ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và hội nhập quốc tế.

24


Hai là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường,
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ba là, nâng cao khả năng "miễn dịch", sức đề kháng của cơ thể xã hội, của hệ
thống chính trị, đặc biệt là của Đảng và cán bộ, đảng viên.
Bốn là, thực hiện tốt vừa đấu tranh phịng, chống “Diễn biến hịa bình”, vừa
kiên quyết ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, lấy ngăn chặn "tự
diễn biến", gột rửa, loại trừ cái xấu đã lây lan làm chính.
Năm là, thực hiện thật tốt nhiệm vụ “then chốt” xây dựng Đảng mà Đại hội XI,
đặc biệt Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa XI của Đảng đã xác
định. “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ,

đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; khơng dao động trong bất
cứ tình huống nào”1.Tạo sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, nhất là xây dựng cơ
quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
1.5.1 Diễn biến về văn hóa xã hội
Hiện thời văn hóa Việt Nam đang mang trong nó một số vấn đề thực sự cản trở
sự phát triển. Con người tha hóa, đạo đức xuống cấp, giáo dục yếu kém, y tế kém nhân
văn, chính sách văn hóa bất cập, lễ hội ít văn hóa… là những vấn đề nóng của bản thân
văn hóa Việt Nam. Vấn đề của tất cả những vấn đề ấy, theo nhóm, đây là sự sự lệch lạc
về giá trị. Bảng giá trị của người Việt hiện nay đã xuất hiện một số ngụy giá trị. Giả
dối đã tương đối phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việt Nam sẽ khó trở thành quốc gia thành cơng, nếu ngụy giá trị vẫn tiếp tục
chiếm chỗ của chân giá trị, nếu giả dối vẫn lấn át sự tử tế và chân thật. Đầu tư cho giáo
dục tăng nhưng đầu tư cơng (ngồi Nhà nước) vẫn thấp. Đào tạo nhiều, các giải pháp
nâng chất lượng đã có, nhưng chất lượng giáo dục – đào tạo vẫn chưa nâng lên như kỳ
vọng. Thất nghiệp ở những người được đào tạo vẫn cao và vẫn tăng. Trong khi đó tình
trạng thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn trầm trọng. Tâm lý thực dụng trong
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 255

25


×