Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU TRUYỀN THỐNG NHẬT BẢN (BUNRAKU-NOH-KABUKI)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.5 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
Khoa Xã hội và Nhân văn

TIỂU LUẬN

SÂN KHẤU TRUYỀN THỐNG NHẬT BẢN
GVHD: ThS. Dương Ngọc Phúc
Mơn học: Văn hóa Nhật Bản
Lớp học phần: KXH - 212_DDP0070_02
Nhóm sinh viên thực hiện:
1. 197DP02304 - Huỳnh Thị Mỹ Nhi
2. 197DP01885 - Lê Ngọc Y Bình
3. 197DP01892 - Nguyễn Thị Minh Châu
4. 197DP02706 - Lê Ngọc Đan Vy
5. 197DP02577 - Nguyễn Thị Thùy Trang
6. 197DP02729 - Trần Thị Tường Vy
7. 197DP06567 - Trịnh Thị Minh Thư

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 4 năm 2022


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, chúng em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy Dương Ngọc
Phúc và các anh chị trợ giảng. Trong quá trình tìm hiểu và học tập bộ mơn
Văn hóa Nhật Bản, chúng em đã nhận được sự giảng dạy và hướng dẫn rất tận
tình, tâm huyết của thầy cũng như là các anh chị. Thầy đã giúp chúng em tích
lũy thêm nhiều kiến thức hay và bổ ích. Từ những kiến thức mà thầy truyền
đạt, chúng em xin trình bày lại những gì đã tìm hiểu về đề tài “Sân khấu
truyền thống Nhật Bản” gửi đến thầy.
Tuy nhiên, kiến thức về bộ môn Văn hóa Nhật Bản của chúng em vẫn cịn


những hạn chế nhất định. Do đó, khơng tránh khỏi những thiếu sót trong q
trình hồn thành bài tiểu luận này. Mong thầy xem và góp ý để bài tiểu luận
của chúng em được hồn thiện hơn.
Kính chúc thầy ln hạnh phúc và thành công hơn nữa trong sự nghiệp
“trồng người”, luôn dồi dào sức khỏe để tiếp tục dìu dắt nhiều thế hệ học trò
đến những bến bờ tri thức. Bên cạnh đó, chúng em cũng xin chúc anh chị trợ
giảng gặt hái được nhiều thành công trong học tập.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

1


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 3
2. Đặt vấn đề ................................................................................................. 4
3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu đề tài .................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................5
B. PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG .......................................................... 6
CHƯƠNG 2. BA LOẠI HÌNH SÂN KHẤU TRUYỀN THỐNG CHÍNH
CỦA NHẬT BẢN ...................................................................................... 12
2.1. KỊCH BUNRAKU .............................................................................. 12
2.2. KỊCH NOH ..........................................................................................34
2.3. KỊCH KABUKI ...................................................................................69
CHƯƠNG 3. TẦM ẢNH HƯỞNG VÀ CÁC GIÁ TRỊ ......................... 110
CỦA SÂN KHẤU TRUYỀN THỐNG ................................................... 110
C. KẾT LUẬN .............................................................................................. 114
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 115

E. PHỤ LỤC ................................................................................................. 116
1. Trả lời câu hỏi phản biện ......................................................................116
2. Bảng phân chia công việc .....................................................................120

2


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhật Bản hay còn gọi là “Đất nước mặt trời mọc” từ trước đến nay được
cả thế giới ngã mũ ngưỡng mộ bởi tính cách và con người Nhật mang đậm
chất văn hóa văn minh sâu sắc. Nhật Bản cịn gắn liền với hình ảnh xứ sở hoa
anh đào, hình tượng núi Phú Sĩ, những bộ phim hoạt hình đầy ý nghĩa hay
những bộ đồ Kimono truyền thống... tất cả những hình ảnh đẹp ấy là một
trong những lý do chúng em trở thành sinh viên ngành Nhật Bản học với
mong muốn tìm hiểu và khám phá những nét đẹp văn hóa của đất nước này.
Mặt khác, với mong muốn học hỏi và giao lưu văn hóa của sinh viên ngành
Nhật Bản học, chúng em muốn tìm hiểu cũng như nghiên cứu sâu hơn về con
người nơi đây qua các vở kịch truyền thống để cảm nhận, tiếp thu được nét
đẹp văn hóa đặc trưng về bộ mơn nghệ thuật này.
Cũng như du khách nước ngoài khi đến Việt Nam, họ muốn được thưởng
thức các vở chèo, tuồng, múa rối nước, cải lương mang đậm nét văn hóa của
dân tộc, thì khi đặt chân đến Nhật Bản chắc hẳn một lần ai cũng muốn tận mắt
đắm chìm trong bầu khơng khí của nước Nhật cổ xưa qua các vở kịch truyền
thống như Bugaku, Kyogen, Bunraku, Noh hay Kabuki ở nhà hát. Chính vì
những lý do trên, nhóm chúng em đã chọn đề tài nghiên cứu này với mong
muốn được hiểu rõ hơn về văn hóa nước Nhật từ xa xưa và muốn giới thiệu
rộng rãi đến sinh viên đã và đang theo ngành Nhật Bản học hay những người
muốn tìm hiểu về đất nước, văn hóa và con người Nhật Bản. Muốn trau dồi
kiến thức của mình về văn hóa truyền thống ở “Đất nước mặt trời mọc” thì

hy vọng bài tiểu luận này sẽ góp phần đem đến những kiến thức bổ ích cho
người đọc.

3


2. Đặt vấn đề
Đối với Nhật Bản cũng như các quốc gia trên thế giới, khi mà nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội cùng khoa học – kỹ thuật và cơng nghệ đang mang
những giá trị có tính tồn cầu, thì văn hóa chính là “tấm căn cước” khẳng định
những nét đặc trưng riêng vốn có của quốc gia đó và để giao lưu với các quốc
gia khác. Là một thành tố quan trọng cấu thành văn hóa Nhật Bản, kịch nghệ
truyền thống Nhật Bản với những giá trị nhân văn mang đậm bản sắc dân tộc
Nhật Bản đã và đang phát huy vị trí, vai trị trong đời sống văn hóa, nghệ
thuật đất nước. Đặc biệt tính cách người Nhật Bản ln được cả thế giới kính
trọng từ xưa đến nay, vậy nguyên nhân là gì? Một trong những nguyên nhân
mà người Nhật được thế giới ngưỡng mộ là họ rất chú trọng giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc. Người Nhật nổi tiếng với những nét văn hố truyền thống
vơ cùng đặc sắc, họ ln tự hào và khơng ngừng gìn giữ chúng. Bên cạnh
việc phát triển và du nhập của các nét văn hoá phương Tây, người Nhật
chủ động tiếp cận và biến chúng thành phong cách của họ nhưng không
làm mất đi bản sắc văn hố truyền thống của dân tộc mình. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển và biến đổi không ngừng của xã hội hiện nay, khi
mà công nghệ thông tin phát triển, nhiều loại hình mới ra đời thu hút sự
chú ý của khán giả hơn thì loại hình truyền thống dần bị quay lưng, khơng
cịn được nhiều người săn đón như trước. Vậy làm thế nào để môn nghệ
thuật sân khấu truyền thống này tồn tại và phát triển, không đánh mất đi
nét đẹp truyền thống của Nhật Bản trong các vở kịch sân khấu mà vẫn giữ
được nét riêng cho đến ngày nay. Để biết rõ hơn về môn nghệ thuật này,
ta cùng tìm hiểu sâu hơn về quá trình hình thành cũng như các giá trị mà

nó mang lại qua bài nghiên cứu.

4


3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài đóng góp phần nhỏ vào lịch sử các cơng trình nghiên cứu về văn
hóa Nhật Bản. Tìm hiểu về nghệ thuật sân khấu truyền thống của Nhật Bản.
Từ những tìm hiểu của bài nghiên cứu, đề tài sẽ đưa đến cho người đọc những
giá trị văn hóa, từ đó tiếp thu và học hỏi giá trị tinh hoa của nhân loại, nâng
cao sự hiểu biết lên tầm cao mới.
3.2. Mục tiêu
- Khái quát, tìm hiểu về lịch sử và quá trình hình thành của ba loại hình
kịch chính, đó là Bunraku, Noh và Kabuki để chúng ta có cái nhìn mới
về văn hóa truyền thống Nhật Bản.
- Tìm hiểu sâu hơn về văn hóa Nhật Bản qua loại hình nghệ thuật sân
khấu truyền thống.
- Tổng hợp và phân tích các yếu tố đặc sắc, làm rõ các giá trị nghệ thuật
truyền thống đối với đời sống xã hội Nhật Bản qua các loại hình kịch
khác nhau.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các loại hình sân khấu truyền thống, đặc biệt là loại hình kịch Bunraku,
Noh và Kabuki. Đây là đề tài thuộc lĩnh vực văn hóa truyền thống bao gồm
nhiều yếu tố khác nhau. Trong bài nghiên cứu này sẽ tìm hiểu về lịch sử quá
trình hình thành và những nét đặc sắc của các loại kịch nghệ này.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử: tạo cho bài viết trình bày theo một phong cách
khoa học, rõ ràng cùng những sự kiện có liên quan đến đề tài.


5


- Phương pháp phân tích – tổng hợp: báo, trang web…thu thập, tổng hợp,
phân tích các dữ liệu lại nhằm đảm bảo tính hệ thống và hồn chỉnh của
bài viết.

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG

1.1. Giới thiệu về văn hóa kịch truyền thống của Nhật Bản
Nhật Bản nổi tiếng là một đất nước có nền văn hóa nghệ thuật truyền
thống độc đáo và đa dạng. Trong văn hóa Nhật Bản, các loại hình nghệ thuật
truyền thống từ lâu đã là nguồn đam mê và cảm hứng trong nhiều thế kỷ qua,
từ nghệ thuật Ikebana đến trà đạo. Đặc biệt là các loại hình kịch nghệ nổi
tiếng như kịch Bugaku, Kyogen, Bunraku, Noh và Kabuki đầy sức lôi cuốn và
được nhiều nơi trên thế giới biết đến và đã trở thành những nghệ thuật đầu
tiên của Nhật Bản được ghi vào danh sách của UNESCO năm 2008 giúp nhấn
mạnh tầm quan trọng của những nghệ thuật này đối với di sản và lịch sử biểu
diễn của Nhật Bản.
Trong bài nghiên cứu này sẽ khai thác sâu tìm hiểu về 3 loại kịch chính đó
là kịch múa rối Bunraku, kịch Kabuki và kịch Noh. Trước khi đi sâu vào nội
dung ta cùng tìm hiểu sơ lược về nét văn hóa nổi bật của từng loại kịch này.
Đầu tiên là kịch múa rối Bunraku. Đây là loại hình nghệ thuật truyền
thống của Nhật được phát triển tại Osaka vào khoảng thế kỷ XVIII thời
kỳ Edo và được kế thừa cho đến ngày nay. Khi nghe đến kịch múa rối,
chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ đây là loại hình dành cho trẻ em, nhưng thực tế
là dành cho người lớn. Cốt truyện của vở kịch thường xoay quanh những

6



người anh hùng thời cổ đại, tình yêu nam nữ thời kỳ Edo và cả những vụ
tự sát vì tình (tự sát của những cặp đơi u nhau),...
Bên cạnh đó, trên các sân khấu nhỏ bằng gỗ khắp Nhật Bản, kịch Noh vẫn
đang được biểu diễn. Các diễn viên phục sức lộng lẫy với những khoảnh khắc
diễn xuất xuất thần, giọng nói buồn thảm kèm theo tiếng sáo và trống, tạo nên
cảm giác như một giấc mơ. Một trong số tín đồ người Nhật của loại hình này
là ơng Toshio Hosokawa, nhà soạn nhạc đã kết hợp sự nghiệp tiên phong
thành công ở châu Âu và sự tuân thủ trung thành với cội nguồn Nhật Bản.
Kịch Noh đã cuốn hút ông bằng khả năng thanh tẩy qua cách tiếp xúc với thế
giới tinh thần, thông qua sự phụ thuộc vào sức mạnh của sự im lặng, qua diễn
xuất những cử chỉ nghi thức của các nhạc công và diễn viên trước một tiếng
trống hoặc một lần vung kiếm. Ông Hosokawa nói: "Âm nhạc của tơi là thư
pháp vẽ trên tấm vải của không gian và thời gian", "Chuyển động lặng lẽ
trong khơng khí – như khi người chơi trống thực hiện các cử chỉ - cũng sống
động chẳng kém gì âm thanh. Và chuyển động như vậy ẩn chứa trong âm
nhạc của tơi."
Cùng với kịch Bunraku và kịch Noh, hình thức nghệ thuật nổi tiếng
nhất đó là Kabuki. Kabuki ra đời vào đầu thế kỷ XVII, dưới hình thức biểu
diễn tạp kỹ, sau đó trở thành một loại hình kịch nghệ được ưa chuộng nhất
trong thời kỳ Edo (1603-1868). Loại hình kịch này trình diễn nhiều cảnh bạo
lực, máu me và cảnh quan hệ kích động giữa những người nam giả nữ. Bằng
sự kết hợp giữa nghệ thuật diễn xuất, múa và âm nhạc, Kabuki là môn nghệ
thuật hết sức độc đáo và hiện được công nhận là một trong những loại hình
kịch nghệ truyền thống vĩ đại của thế giới.
Khơng thể phủ nhận cả ba loại hình nghệ thuật này được giữ gìn và bảo
tồn đến tận ngày nay chính bởi thơng điệp rất riêng được truyền tải vơ cùng
tinh tế và sâu sắc. Khi thật sự thấu hiểu chúng, khán giả sẽ cảm nhận được
không gian khơi gợi trí tưởng tượng của Noh cùng với những mẫu chuyện cổ


7


điển đầy tính sáng tạo của Bunraku. Và nếu muốn ngắm nhìn một sân khấu
được bài trí tuyệt đẹp cùng sự diễn xuất tuyệt vời của các nam diễn viên trong
vài tiếng đồng hồ, có khi là cả ngày cho một vở Kabuki là khơng hề lãng phí.
Quả vậy, với sự tồn tại và được thừa nhận của Bunraku, Noh và Kabuki, sức
sống mãnh liệt của văn hóa truyền thống một lần nữa lại được chứng minh
trong dòng chảy của xã hội hiện đại Nhật Bản.
1.2. Lịch sử hình thành
Vào thời Nara (710 – 794), cùng với trào lưu du nhập văn hóa Trung Hoa,
một loại hình âm nhạc mang phong cách đại lục có tên là Sangaku ( 散 楽 )
cũng bắt đầu được biết đến tại Nhật Bản. Cùng với Nhã nhạc Gagaku (雅楽),
Sangaku chủ yếu được trình diễn trong cung đình. Vào khoảng giữa thời
Heian (794 – 1185), Sangaku dần được bản địa hóa và bắt đầu biểu diễn rộng
rãi trong xã hội với cái tên mới là Sarugaku (猿楽). Sarugaku chính là nền
tảng của kịch Noh (能). Theo dịng chảy lịch sử q trình phát triển nghệ
thuật kịch Noh ra đời từ thế kỷ XIII phát triển thành mơn hình nghệ thuật lãnh
đạo người biểu diễn, nhà soạn kịch thiên tài Kannami (1333-1384) và con trai
ông, Zeami (1363-1443) Kịch Noh bao gồm múa và diễn kịch bằng điệu bộ.
Kịch Noh phát triển thịnh vượng vào thời kỳ ông Zeami, dưới sự bảo trợ
tướng quân Ashikaga Yoshinitsu. Sau này, vào thời kỳ Edo (1603-1868), kịch
Noh trở thành mơn nghệ thuật biểu diễn chính thức. Về lịch sử nghệ thuật rối
Nhật Bản, sách có ghi lại vào kỷ XI. Người ta cho rằng thậm chí trước đó,
những thợ săn lang thang kiếm tiền thêm bằng cách dùng con rối nhỏ diễn
kịch mua vui tại các thị trấn. Về sau nhiều người định cư tại Sanjo đảo Awaji,
nơi sinh ngành kịch rối chuyên nghiệp. Kịch Bunraku phát triển qua từng thời
đại và đỉnh cao là thời Edo, ông Chikamatsu Monzaemon, góp phần chuyển
Bunraku từ hình thức giải trí quần chúng thành nhà hát nghệ thuật.


8


Có thể nói kịch Kabuki và Bunraku có mối liên hệ qua lại. Các diễn viên
Kabuki chịu ảnh hưởng phong cách của những người kể chuyện Bunraku và
thậm chí bắt chước những điệu bộ được cách điệu hóa của những con rối. Khi
Kabuki mới ra đời, có phụ nữ tham gia diễn xuất, từ sau năm 1653 Kabuki
mới ra đời và chỉ có đàn ơng trưởng thành mới được diễn. Cho đến thời
Genroku, cấu trúc của kịch Kabuki mới định hình và có nhiều yếu tố cách
điệu hóa. Nối tiếp thời Minh Trị Duy tân, trong thời kì Kabuki có nhiều biến
động nhưng bên cạnh không phần thành công.
1.3. Khái niệm
Sân khấu truyền thống Nhật Bản là sự kết hợp đầy màu sắc và cuốn hút
của vũ đạo, kịch và nhạc đệm. Sân khấu truyền thống là một loại hình nghệ
thuật đặc biệt, là sản phẩm của nền văn hóa, nơi kết tinh tâm hồn, trí tuệ, góp
phần làm nên nét độc đáo của bản sắc văn hóa dân tộc. Trải qua hàng ngàn
năm lịch sử, nghệ thuật sân khấu truyền thống đã đem đến những món ăn tinh
thần bổ ích, ni dưỡng, giáo dục và hình thành nên những đức tính, phẩm
chất tốt đẹp cho con người.
Có thể nói một cách cụ thể hơn, sân khấu truyền thống Nhật Bản là các vở
kịch. Kịch là loại hình nghệ thuật tổng hợp. Có sự tham gia của nhiều yếu tố,
nhiều người thuộc các lĩnh vực khác nhau: tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn
viên, nhạc công, họa sĩ thiết kế… Là sự kết hợp giữa 2 yếu tố bi và hài
kịch. Đặc trưng của bộ môn nghệ thuật này là phải hành cuộc sống bằng các
hành động kịch, thông qua các xung đột tính cách xảy ra trong q trình xung
đột xã hội, được khái quát và trình bày trong một cốt truyện chặt chẽ với độ
dài thời gian không quá lớn.
Căn cứ vào nội dung kịch, có thể chia thành các thể loại: hài kịch, bi
kịch, bi hài kịch, chính kịch... Cũng có thể căn cứ vào nội dung của các đề tài

mà chia kịch thành: kịch cổ điển, kịch dân gian, kịch thần thoại, kịch hiện đại.

9


1.4. Vai trò
Sân khấu truyền thống Nhật Bản được coi là suối nguồn của văn hóa xã
hội. Góp phần đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân cách, nâng
cao nhận thức về các mối quan hệ xã hội, quan hệ huyết thống và luân lý đạo
đức đời thường. Là nguồn cảm hứng nội tâm, nâng cao ý chí nghị lực trong
cuộc sống. Ngồi ra, cịn tạo nên những cung bậc cảm xúc tinh tế. Tính giáo
dục của sân khấu truyền thống ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống con người.
Văn học nghệ thuật nói chung và nghệ thuật sân khấu nói riêng là tấm gương
phản chiếu của hiện thực đời sống, đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh cho
con người. Qua tác phẩm sân khấu, qua sự diễn xuất của diễn viên, những
hồn cảnh, những tình huống đã lột tả những tính cách, số phận của con người
được tái hiện chân thực, sinh động, vừa mang tính cụ thể, lại vừa có tính khái
qt cao. Các tác phẩm sân khấu có vị trí quan trọng trong việc chuyển tải các
lý tưởng, nguyên tắc đạo đức tới mọi đối tượng một cách nhẹ nhàng, nhưng
lại hết sức sâu sắc. Một tác phẩm sân khấu có giá trị tư tưởng và chất lượng
nghệ thuật cao sẽ góp phần tạo nên những mỹ cảm mới mẻ ở người xem, nâng
cao giá trị chân thiện mỹ cho con người.
1.5. Mục đích
Thu hút và liên kết những cảm xúc của con người lại với nhau giúp con
người tìm hiểu về cuộc sống một cách sâu sắc hơn. Góp phần quan trong
trong việc xây dựng con người có chức năng bồi dưỡng đạo đức, tình cảm cho
con người. Nằm trong dịng chảy đó, nghệ thuật sân khấu gắn với cuộc sống
của thời đại đem đến cho con người những giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ,
tạo ra một hệ chuẩn mang tinh thần nhân văn cao đẹp.
Với sự nghiệp cao cả đó đã đặt ra cho người nghệ sĩ phải có trách nhiệm

lớn lao là đem tác phẩm nghệ thuật để giáo dục, bồi dưỡng hình thành nhân
cách, vun trồng đời sống tâm hồn trong sáng, phong phú, tinh tế, nhân hậu

10


cho con người, nâng cao tính xúc cảm chân thực mãnh liệt trước cái đẹp, cái
tốt trong quan hệ giữa người với người, trong quan hệ giữa gia đình, bạn bè
và xã hội góp phần xây dựng nền móng đạo đức thẩm mỹ của con người.
1.6. Các loại hình sân khấu truyền thống của Nhật Bản
Gồm Noh và Kyogen: bổ khuyết cho nhau. Noh là hình thức kịch nghệ
Nhật Bản tồn tại lâu đời nhất và có tên gọi bắt nguồn từ chữ năng trong “kỹ
năng” hoặc “tài năng”. Đây là loại hình nghiêm túc hơn, trong đó diễn viên
chính đeo mặt nạ trong một số phân cảnh để góp phần truyền tải câu chuyện
tốt hơn. Noh cũng dựa vào âm nhạc ở mức độ nhiều hơn. Ban đầu Kyogen
đóng vai trò là màn biểu diễn trong lúc tạm nghỉ giữa các màn kịch Noh và
thiên về hội thoại cùng hành động hài hước, kết hợp cả hai thể loại này gọi là
kịch nghệ Nogaku. Noh có nguồn gốc từ thế kỷ VIII nhưng đã phát triển
thành hình thức ngày nay vào thế kỷ XIV, được thúc đẩy bởi người biểu diễn
kiêm nhà viết kịch Kannami và con trai ông, Zeami. Nhiều vở kịch họ viết
vẫn là những phần quan trọng trong khoảng 250 vở kịch tạo nên vốn tiết mục
biểu diễn Noh.
Kabuki: được cho là hình thức kịch sân khấu Nhật Bản nổi tiếng nhất và
xuất hiện vào đầu thế kỷ XVII tại Kyoto, nơi có truyền thuyết rằng một vu nữ
ở Đại đền Izumo Taisha của thành phố đã khởi xướng biểu diễn phong cách
kịch múa mới. Những màn trình diễn đó đã thu hút sự chú ý của triều đình,
nơi cơ được mời đến để biểu diễn. Sau khi được triều đình đóng dấu chấp
thuận, các đồn kịch cạnh tranh nhanh chóng xuất hiện và Kabuki đã phát
triển thành màn biểu diễn của phụ nữ kết hợp nhảy múa và kịch. Tuy nhiên,
trước giai đoạn cuối thế kỷ thứ XVII, phụ nữ bị cấm biểu diễn và mọi vai diễn

đều do nam giới đảm nhận, những người đàn ông đảm nhận vai nữ được gọi
là “Onnagata”.

11


Bunraku: hay còn gọi là kịch rối Nhật Bản, được xem là hình thức giải trí
cao cấp nhất trên thế giới, với một nhân vật duy nhất được ba nghệ sĩ múa rối
điều khiển. Sự tinh tế trong chuyển động của con rối, dáng đi giống như thật,
sự hài hòa hoàn hảo giữa hành động của búp bê, lời dẫn của người kể chuyện
và âm nhạc đã trải qua nhiều thế hệ để đạt đến độ hồn hảo. Bunraku được
trình diễn lần đầu tiên tại Osaka vào năm 1684. Các bậc thầy múa rối, người
thường xuất hiện trên sân khấu với trang phục màu đen, được hỗ trợ bởi
“tayu”, người lồng tiếng cho tất cả các nhân vật trong vở kịch cũng như đóng
vai trị người dẫn chuyện. Âm nhạc là thành phần cuối cùng – nhưng cũng
quan trọng không kém của màn trình diễn, với đàn luýt “shamisen” cùng dàn
nhạc gồm sáo “shakuhachi”, nhạc cụ có dây “koto” và đơi khi là trống “taiko”.

CHƯƠNG 2. BA LOẠI HÌNH
SÂN KHẤU TRUYỀN THỐNG CHÍNH CỦA NHẬT BẢN

2.1. KỊCH BUNRAKU
2.1.1. Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BUNRAKU
Bunraku là một trong những nghệ thuật sân khấu truyền thống của Nhật
Bản, nằm trong danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại được
UNESCO công nhận vào năm 2003. Đây là một hình thức hợp tác chặt chẽ,
kết hợp đồng bộ giữa ngâm thơ tường thuật, âm nhạc Shamisen và múa rối
trong biểu diễn. Người kể chuyện kể lại bằng tất cả sức lực của mình, âm
thanh sống động, tinh tế của đàn Shamisen và chuyển động đẹp mắt của
những con rối khiến khán giả kinh ngạc. Mang phong cách độc đáo nổi bật,

Bunraku được ca tụng là nghệ thuật sân khấu múa rối tinh vi bậc nhất thế giới.

12


Con rối Bunraku. Nguồn: idesign.vn

Thuật ngữ chính xác và nguyên thủy nhất cho kịch rối truyền thống Nhật
Bản là Ningyo Joruri (人形浄瑠璃). Đây là sự kết hợp của nghệ thuật lĩnh
xướng và kịch nghệ gọi là Joruri, con rối hay búp bê gọi là Ningyo trong tiếng
Nhật. Tên gọi thay thế và nổi tiếng hơn của Ningyo Joruri là Bunraku (文楽).
Tên gọi này xuất phát từ một nhà hát Bunraku chuyên nghiệp thương mại ở
Osaka duy nhất còn tồn tại từ khi thành lập vào năm 1872 đến nay. Danh
xưng Bunraku nổi tiếng đến mức nhiều người Nhật Bản và thế giới đã dùng
cụm từ này để chỉ chung mọi loại hình kịch rối truyền thống ở xứ Phù Tang.
2.1.1.1. Nguồn gốc và sự ra đời của kịch Bunraku
Nghệ thuật kịch rối Nhật Bản là sự kết hợp giữa người kể chuyện Tayu,
múa rối Ningyo và âm nhạc Shamisen khởi phát vào cuối thế kỷ XVI và phát
triển chủ yếu vào thế kỷ XVII và XVIII, là một bốn hình thức sân khấu cổ
điển Nhật Bản bên cạnh Kabuki, Noh và Kyogen. Song song với Kabuki,
Bunraku phát triển như một phần của nền văn hóa thương nhân sơi động của
thời kỳ Edo (1603 – 1868). Tuy vậy những yếu tố cấu thành Bunraku lại xuất

13


hiện từ rất sớm từ thời Heian (794 – 1185) nhưng lại hoạt động một cách độc
lập và riêng lẻ.

Nguồn: Chickgolden.com


Theo Tiến sĩ Jukka O. Miettinen của Học viện Sân khấu Helsinki múa rối
có lịch sử lâu đời ở Nhật Bản. Bắt nguồn từ các nghi thức cổ xưa, trong đó
các con rối đóng vai trị đại diện cho những người đã khuất. Khi mối liên hệ
với Trung Quốc được thiết lập vào thế kỷ thứ VII, múa rối cũng được chấp
nhận bên cạnh các yếu tố văn hóa khác. Bằng chứng là các văn bản tồn tại từ
thời Heian (794 – 1185) đã đề cập đến các nhóm người múa rối lưu động.
Những người múa rối này được gọi là Kugutsumawashi vận hành những con
rối đơn giản bởi một người đã đi khắp Nhật Bản để trình diễn. Hình thức giải
trí đường phố này tiếp tục phát triển qua thời kỳ Edo (1603 – 1868).
Nghệ thuật múa rối kết hợp với tụng kinh và đệm đàn Shamisen đã trở
nên phổ biến vào đầu thế kỷ XVII ở Edo (nay là Tokyo), nơi nó nhận được sự
bảo trợ của các Shogun và các nhà lãnh đạo quân sự khác.
Giai đoạn hoàng kim đạt sự phát triển đỉnh cao của Bunraku vào giữa thế
kỷ XVIII. Loại hình này thu hút và đáp ứng nhu cầu giải trí của hầu hết các
tầng lớp trong xã hội Nhật Bản đương thời. Sự hấp dẫn của nội dung chính là
điểm mạnh của Bunraku, khơng chỉ là những vở kịch lịch sử hào nhoáng, oai
hùng, Bunraku còn mở rộng hơn ở các chủ đề hấp dẫn, kịch tính mà gần gũi

14


với đời sống thường nhật. Sự mở rộng phạm vi trình diễn gần như trên tồn
lãnh thổ Nhật Bản, tiếp cận hơn với nhiếu đối tượng khán giả cũng khiến
Bunraku nổi danh hơn bao giờ hết. Đi kèm đó là sự cạnh tranh của những
đoàn kịch nghệ tại thời điểm đó là Takemoto-za lẫy lững và Tokyotaka-za
tươi mới trong giới kịch rối đương thời.

Nguồn: Osaka-chushin.jp


Sự suy giảm mức độ phổ biến của Bunraku bắt đầu từ đầu thời kỳ Meiji
(1868 – 1912), khi các hình thức giải trí được Tây hóa trở thành trào lưu. Tuy
nhiên may mắn thay, sự tiếp nối của truyền thống được đảm bảo bởi một nghệ
nhân nhiệt huyết là Masai Kahei (1737 – 1810), với nghệ danh là Ueamura
Bunrakuken. Ông thành lập nhà hát múa rối của riêng mình ở Osaka vào năm
1782. Từ đây, Osaka trở thành quê hương mới, là nơi tái sinh nghệ thuật kịch
rối truyền thống Nhật Bản dưới một tên gọi khác là Bunraku. Ngày nay, nhà
hát Bunraku-za hoặc Bunraku của Osaka vẫn là trung tâm của loại hình nghệ
thuật, mặc dù các buổi biểu diễn cũng có thể được xem tại Nhà hát Quốc gia

15


Tokyo. Bunraku là loại hình giải trí bình dân đã từng rất nổi tiếng và được
yêu thích bởi mọi người ở nhiều tầng lớp và địa vị khác nhau trong xã hội
Nhật Bản. Nhưng ngày nay lượng khán giả của Bunraku đang giảm dần và
nhiều người liên tưởng nó với hình thức giải trí bác học, một nghệ thuật sân
khấu cổ điển khó tiếp cận.
2.1.1.2. Tiểu sử người sáng tạo ra Bunraku
Bunraku được đặt theo tên một người đã khám phá ra mơn nghệ thuật này
và phổ biến nó rộng rãi đến với công chúng là Uemura Bunrakuken. Ningyo
Joruri Bunraku (sau này Bunrakuza ) người sáng lập. Tên thật Masai (Masaki)
Yobei sinh ra ở Awaji Kokuya. Vào những năm Kansei (1789 – 1801) sau khi
bãi bỏ Takemotoza và Toyokuza, ông đã đến Osaka và mở một chiếc ghế
Ningyo Joruri ở phía đơng của Dotonbori và bên bờ biển Kozubashi
Minamizume. Bunrakuken là nghệ danh của tài tử Yoshita, Uemura được cho
là đã đào tạo Gennobu Uemura, người được cho là tổ tiên của búp bê Awaji.
Sau đó, ơng chuyển đến thành phố Horie qua đời ở tuổi 60 vào năm 1810.
Okura (Bunraku-an), thế hệ thứ tư, đã xuất sắc trong việc quản lý và cải thiện
tài sản của mình. Năm 1972 (Meiji 5), nó chuyển đến Matsushima một vùng

đất mới được mở bởi một sắc lệnh của chính phủ và lần đầu tiên có tên chính
thức là Bunrakuza. Chuyển đến các khu vực vào năm 1984, Takemoto Settsu
thời đại hoàng kim Bunraku được xây dựng xung quanh Daidaiyo, nhưng sau
cái chết của đèo Bunraku, quản lý đã chết và vào năm 1909 quyền quản lý đã
được chuyển cho Shochiku.

16


2.1.1.3. Các soạn giả và các vở kịch nổi tiếng
a) “Kanadehon Chushingura” của Chikamatsu Monzaemon
Là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của Chikamatsu Monzaemon.
Câu chuyện dài 10 giờ với 10 màn và phần mở đầu. Dựa trên một sự kiện có
thật xảy ra vào năm 1702, kể về 47 Samurai đã trả thù cho cái chết của chúa
công của họ và sau đó tự sát. Cũng một vở kịch khác của Chikamatsu
Monzaemon là “Sonzezaki Shinju”, nói về vụ tự sát vì tình của cặp đơi u
nhau tha thiết nhưng không đến được với nhau dựa trên một câu chuyện có
thật ở Sonezaki.

Nguồn: Idesign.vn

b) “Imoseyama Onna Teiken” của Chikamatsu Hanji
Đôi khi được coi là Romeo và Juliet của Nhật Bản mặc dù sự hịa giải cho
hai gia đình thù địch thông qua cái chết của một cặp vợ chồng trẻ chỉ là một
phần của câu chuyện đầy lừa dối và ghen tị. Hành động trung tâm của câu
chuyện là người mẹ chính tay kết liễu con gái và đâm chết một người phụ nữ
ghen tuông bằng một cây sáo thần, làm máu của cơ có thể trộn với máu của

17



một con hươu để phá vỡ câu thần chú bảo vệ tên thủ lĩnh độc ác đang kiểm
soát Nhật Bản rồi tự tử.

Nguồn: Idesign.vn

c) “Ehon Taikoo” của Chikamatsu Yanagi
Được coi là tác phẩm Bunraku vĩ đại cuối cùng. Mặc dù tiêu đề có nghĩa
là biên niên sử của Taiko gợi ý rằng vở kịch nói về Toyotomi Hideyoshi,
được biết đến với cái tên Taiko nhưng Akechi Mitsuhide vị tướng bất ngờ
chống lại thủ lĩnh tàn bạo Oda Nobunaga lại được nhắc đến nhiều hơn. Trong
một cảnh bi thảm Akechi (được biết đến với cái tên Takechi trong vở kịch) đã
giết mẹ mình bằng một ngọn giáo tre tự chế vì nghĩ rằng bà là Hideyoshi cải
trang (Hisayoshi trong vở kịch) ngay trước khi con trai của Akechi xuất hiện.
Những vở kịch nổi tiếng khác bao gồm “Shinju Ten ni Amijima” (Tự tử vì
tình yêu ở Amijima) và “Yoshitsune Sembon Zakura” (Yoshitsune và những
cây anh đào ngàn thu).
2.1.1.4. Kịch Bunraku ngày nay
Nhà hát múa rối đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ XVIII với các vở kịch của
Chikamatsu Monzaemon. Sau đó, nó suy giảm vì thiếu các tác giả Joruri xuất
sắc nhưng trong nửa sau của thế kỷ XX nó đã thu hút sự quan tâm mới. Năm

18


1963, hai nhóm nhỏ đối thủ đã tham gia thành lập Bunraku Kyokai (Hiệp hội
Bunraku), có trụ sở tại Asahi-za (ban đầu được gọi là Bunraku-za) một nhà
hát Bunraku truyền thống ở Osaka. Ngày nay, các buổi biểu diễn được tổ
chức tại Kokuritsu Bunraku Gekijo (Nhà hát Bunraku Quốc gia mở cửa năm
1984) ở Osaka. Năm 2003, UNESCO đã tuyên bố Bunraku là một kiệt tác di

sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Bunraku chủ yếu được biểu diễn
trong những nhà hát hiện đại phong cách châu Âu. Vở diễn kéo dài trong một
ngày gồm hai phân đoạn (phân đoạn một vào đầu giờ chiều và phân đoạn hai
vào buổi tối) mỗi phân đoạn lại có nhiều hồi. Các nhà hát thường bán vé cho
từng phân đoạn của vở diễn, trong một vài trường hợp có thể tồn tại vé theo
từng hồi của mỗi phân đoạn. Giá vé xem Bunraku dao động trong khoảng từ
1.500 – 6.500 yên (325.000 – 1.410.000 VNĐ).
2.1.2. GIÁ TRỊ VÀ CON RỐI BUNRAKU
2.1.2.1. Văn hóa Edo trong các vở kịch Bunraku
Vào thời kỳ Edo, tầng lớp bình dân đã tham gia đóng góp cho nền văn hóa
Nhật Bản những yếu tố mới văn hóa này được gọi là “văn hóa thị dân”. Văn
hóa thị dân (Chonindo: lối sống người thành thị) là văn hóa của các tầng lớp
thị dân, nghệ sĩ, kỹ nữ. Linh hồn của văn hóa này nằm trong một triết lý sống
gọi là Ukiyo (Phù thế), nghĩa là phù sinh, vô thường, trôi nổi theo thời gian.
Triết lý sống Ukiyo thể hiện tính phù du của cuộc đời phiêu dạt, được tầng
lớp bình dân và cả giới võ sĩ đạo tiếp nhận tiêu biểu là múa rối.
2.1.2.2. Nhân vật và kết cấu vở kịch
Ba yếu tố chính để tạo ra một vở kịch hồn hảo đó là: Ningyotsukai (con
rối), Tayu (người kể chuyện) và cuối cùng là người chơi Shamisen. Các nghệ
sĩ múa rối biểu diễn trên sân khấu chính gọi là Hombutai trong khi Tayu và
nhạc cơng ngồi trên vách ngăn lệch sang một bên gọi là Yuka.

19


Một con rối cần ba người múa rối điều khiển để thay cho các sợi dây và
các thanh kéo dài từ mặt sau của những con rối thông thường khác, những
nghệ sĩ múa rối đều mặc đồ đen và phải trùm kín đầu để tránh gây chú ý và
tạo sự thu hút. Người múa rối chính gọi là Omozukai đảm nhận vai trò điều
khiển tay phải và đầu của con rối. Người múa rối bên trái được gọi là

Hidarizukai điều khiển tay trái của con rối. Và nghệ sĩ múa rối thứ ba –
Ashizukai điều khiển toàn bộ nửa dưới của con rối. Những người học nghề sẽ
học bắt đầu từ vị trí của Ashizukai rồi dần dần lên đến Omozukai. Q trình
đào tạo có thể kéo dài lên đến 30 năm.

Nguồn: Japagazine.com

Tayu và nhạc sĩ Shamisen cùng nhau tạo nên cảm xúc cho buổi biểu diễn.
Thông thường người kể chuyện sẽ đảm nhiệm tất cả lời thoại của các con rối
với một vài vở kịch khác sẽ có nhiều người kể chuyện. Tayu có kĩ năng sử
dụng nhuần nhuyễn các âm vực để thể hiện một cách chân thực từng biểu cảm
trong lời thoại của mỗi con rối. Những Tayu đọc lời thoại trong một kịch bản
được viết bằng tiếng Nhật truyền thông và được lồng ghép bằng phụ đề tiếng
Nhật hiện đại giúp khán giả có thể hiểu được câu chuyện. Người chơi
Shamisen ngồi bên cạnh Tayu giúp họ có thể hịa hợp với nhau và tạo ra
Joruri. Các Joyuri ăn khớp với từng chuyển động và biểu cảm của các con rối
làm tăng tính gợi cảm và chân thực của vở kịch.

20


2.1.2.3. Con rối Bunraku
a) Hình dạng của những con rối
Tất cả những con rối Bunraku đều được làm bằng gỗ và cao từ một đến
bốn feet tức bằng ⅔ người thật. Những con rối khơng thực sự có cơ thể đầy
đủ chỉ có đầu, tay, chân, bàn chân và đều được làm thủ công. Chúng được kết
nối bằng dây và phân thân sẽ mặc Kimono – trang phục truyền thống của
Nhật Bản. Con rối nam thì có chân và bàn chân cịn con rối nữ thì khơng có vì
theo trang phục truyền thống đều che hoàn toàn nửa dưới của chúng. Điều đặc
biệt là quần áo của các con rối đều do các nghệ sĩ múa rối tự làm.


Nguồn: Japagazine.com

Đầu và tay được làm thủ công từ các chuyên gia bởi đây là những bộ phận
phức tạp có yếu tố quan trong quyết định đến chất lượng của vở kịch. Mỗi bộ
phận trên phần đầu của con rối đều có thể di chuyển để dễ dàng biểu cảm như
chớp mắt, mở đóng miệng, lơng mày lên xuống. Thậm chí đầu của con rối cịn
được thiết kế để biến đổi hồn toàn từ con người thành con quỷ. Điều đáng
chú ý là kích của của đầu phụ thuộc vào vị trí nhân vật. Anh hùng và những
nhân vật chính sẽ có cái đầ lớn hơn.

21


b) Các loại đầu con rối nổi tiếng


Bunhichi

Con rối này có bộ lơng mày rất rậm
và dài, mắt to và môi dày, thường
tượng trưng cho những vị thủ lĩnh
hay anh hùng dân tộc đầu đội trời,
chân đạp đất. Đôi khi lại ám chỉ
những tuyến nhân vật hay gây tội ác.



Kenbishi


Con rối này khá “điển trai”. Thường
đóng những vai hiền từ nhân hậu.
Khác với Bunhuchi nó khơng bao
giờ đại diện cho tội ác.

22




Danhichi

Với đôi mắt gườm gừ, cằm đầy,
khuôn mặt vuông chữ điền, nhân vật
này đối lập với hình tượng các anh
hùng.



Komei

Con rối này gắn liền với hình ảnh
những người đàn ơng 40, 50 tuổi có
ngoại hình chín chắn và chững chạc.

24





Genda
Genda đại diện cho những thanh
niên trai tráng, khỏe mạnh, thu hút
chị em và rất nhạy cảm.



Musume
Con rối này biểu trưng cho các cô
gái ở độ tuổi 18 trở xuống, thường là
chưa có chồng và phong thái rất
đoan trang, thùy mị.

25


×