1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự phát triển của CNTB sau những năm 30 của tk.19;
Sự bần cùng hóa & cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản từ tự phát sang tự giác.
2. Tiền đề khoa học tự nhiên
Thuyết tế bào;
Thuyết tiến hóa Đácuyn;
Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.
3. Tiền đề lý luận
Lịch sử triết học & đời sống tinh thần của nhân lọai;
Triết học cổ điển Đức:
Triết học DTBC của Hêghen;
Triết học DVNB của Phơiơbắc.
F.ENGENS
K.MARX
a) GĐ ch.biến tư tưởng của Mác & Angghen từ CNDT & DCCM sang
CNDV & CSCN
“Sự khác nhau giữa THTN của Đêmôcrít & THTN của Êpiquya”
(1841): "CNDT không phải là ảo tưởng mà là chân lý".
Mác là Biên tập viên Báo Sông Ranh (1842–xuân 1843)
Mác đến Paris thành lập Niên giám Pháp - Đức, đăng tải Góp
phần phê phán TH pháp quyền của Hêghen (11/1843):
"Giống như TH tìm thấy vũ khí VC của mình trong GC VS, GC
VS tìm thấy vũ khí của mình trong TH".
"Cố nhiên vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự
phê phán bằng vũ khí, lực lượng VC chỉ có thể bị đánh đổ bằng
lực lượng VC; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng VC một
khi nó thâm nhập vào quần chúng".
“Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo
nàn hiện thực, vừa là sự ph.kháng chống lại hiện thực ấy. Tôn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của
TG không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật
tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân".
b) GĐ Mác & ngghen đề xuất các nguyên lý TH DVBC & DVLS
Bản thảo kinh tế - triết học (1844, Mác)
“Tư bản là quyền chỉ huy lao động và sản phẩm của lao
động. Nhà tư bản có được quyền đó không phải nhờ
những phẩm chất cá nhân hay phẩm chất CN của hắn,
mà chỉ có được với tư cách là người sở hữu tư bản. Sức
mạnh của hắn là sức mua của tư bản, sức mua mà
không có gì có thể chống lại nổi”.
Mác đưa ra khái niệm lao động bị tha hóa
“Sự TH thể hiện ở chỗ, tư liệu sinh hoạt của tôi
thuộc về người khác, ở chỗ đối tượng mong muốn
của tôi là vật sở hữu của người khác mà tôi không
với tới được, cũng như ở chỗ bản thân mỗi vật hoá ra
là một cái khác với bản thân nó, ở chỗ hoạt động
của tôi hoá ra là một cái khác nào đó và cuối cùng,
điều này cũng đúng với nhà tư bản, lực lượng không
phải người nói chung thống trị tất caû”.
LĐ TH làm cho “cái vốn có của súc vật trở thành chức
phận của CN, còn cái có tính người thì biện thành cái
vốn có của súc vật”. Lực lượng có khả năng giải phóng
CN ra khỏi sự TH, để trả CN về với chính bản chất LĐ
của nó, thủ tiêu mọi áp bức đối với loài người không ai
khác ngoài GC công nhân.
Luận cương về Phoiơbắc (Mác, 1845);
“Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ CNDV từ trước tới
nay – kể cả CNDV của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực,
cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức
khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận
thức là hoạt động cảm giác của CN, là thực tiễn, không
được nhận thức về mặt chủ quan”.
“Phoiơbắc đã hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất
CN. Nhưng bản chất CN không phải là cái trừu tượng cố
hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất CN là tổng hòa các QHXH”.
Hệ tư tưởng Đức (Mác & ngghen, 1846)
“Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của CN, và do đó
là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả
năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử”… “Muốn
sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức
uống… Hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra
những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản
xuất ra bản thân đời sống vật chất”. Sự thay đổi lịch sử
là do sự thay đổi các hình thức SX gây ra, còn sự thay
đổi các hình thức SX là do sự thay đổi các hình thức sở
hữu; Sự thay đổi hình thức sở hữu là do sự thay đổi sức
SX chi phối.
Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự
tồn tại được ý thức, và tồn tại của CN là quá trình đời
sống hiện thực của CN”… “Không phải ý thức quyết
định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức”.
“Trong mọi thời đại, những tư tưởng của GC thống trị là
những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghóa là GC nào là
lực lượng VC thống trị trong XH thì cũng là lực lượng
tinh thần thống trị trong XH”.
“Đối với chúng ta, CNCS không phải là một trạng thái
cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà
hiện thực phải khôn theo. Chúng ta gọi CNCS là một
phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay”…
Và GC vô sản là GC có đủ điều kiện cần thiết để thực
hiện sứ mạng là xóa bỏ trạng thái hiện tồn.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Mác & ngghen, 1848).
“Tư tưởng chủ đạo của ‘Tuyên ngôn’ là: trong mọi thời đại
LS, SX KT & cơ cấu XH - cơ cấu này tất yếu phải do SX KT mà ra,cả hai cái đó cấu thành cơ sở của LS ch.trị & LS tư tưởng
của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên
thủy tan rã) toàn bộ LS là LS đ.tranh GC”… “nhưng cuộc
đ.tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà GC bị bóc lột
& bị áp bức (tức là GCVS) không còn có thể tự giải phóng ra
khỏi tay GC bóc lột & áp bức mình (tức là GCTS) được nữa,
nếu không đồng thời & vónh viễn giải phóng toàn thể XH
khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đ.tranh GC”.
“GCTS sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp
đổ của GCTS & th.lợi của GCVS đều là tất yếu như nhau”.
“Những người cộng sản… công khai tuyên bố rằng mục
đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật
đổ toàn bộ XH hiện hành. Mặc cho GC thống trị run sợ
trước một cuộc cách mạng CSCN! Trong cuộc cách mạng
ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những
xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ dành được cả TG”.
c) GĐ Mác & ngghen bổ sung & phát triển lý luận TH
Tư bản (Mác, 1867-T.1, 1885-T.2, 1894-T.3)
Trình bày phép biện chứng LLSX & QHSX,
LL về HTKTXH: “Tôi coi SPT của những HT KT_XH là
một quá trình lịch sử – tự nhiên”.
LL về PBC & PPBC: “PPBC của tôi không những khác
với PPBC của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập với
PP ấy nữa. Đối với Hêghen, quá trình tư duy – mà ông
ta thậm chí còn biến thành một chủ thể độc lập dưới
cái tên gọi ý niệm – chính là vị thần sáng tạo ra hiện
thực, và hiện thực này chẳng qua chỉ là biểu hiện bên
ngoài của tư duy mà thôi. Đối với tôi thì trái lại, ý
niệm chẳng qua là vật chất được đem chuyển vào trong
đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”.
Phê phán cương lónh Gôta (Mác, 1875)
Phát triển CNDVLS: Quan điểm về CM & NN vô sản,
thời ký quá độ,…:
“Giữa XH TBCN và XH CSCN là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ XH nọ sang XH kia. Thích ứng với thời kỳ
ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời
kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính
cách mạng của GC vô sản”.
“Trong CNXH, nguyên tắc cống hiến và hưởng thụ là
“làm theo năng lực, hưởng theo số lượng và chất lượng
lao động”. Trong CNCS, mối quan hệ đó là “làm theo
năng lực, hưởng theo nhu caàu”.
Chống Đuyrinh (ngghen, 1878)
TGQDV:
“Tính th.nhất của TG không phải ở sự tồn tại của
nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính th.nhất của
nó, vì trước khi TG có thể là một thể th.nhất thì
trước hết TG phải tồn tại đã”.
“Tính th.nhất thật sự của TG là ở tính VC của nó, và
tính VC này được chứng minh không phải bằng vài
ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng
một sự phát triển lâu dài và khó khăn của TH &
KHTN”.
PBCDV:
“PBC chẳng qua chỉ là môn KH về những QL phổ
biến của sự VĐ & PT của TN, của XH loài người &
của TD.”
“Có thể nói rằng chỉ có Mác & tôi là những người
đã cứu PBC tự giác thoát khỏi TH duy tâm Đức và
đưa nó vào trong quan niệm duy vật về TN & về
LS”.
“Không thể đưa những QLBC từ bên ngoài vào GTN,
mà phải phát hiện ra chúng trong GTN và rút ra
chúng từ GTN”.
LLNTBCDV:
“Tư duy của CN vừa tối cao vừa không tối cao, và
khả năng nhận thức của CN vừa là vô hạn vừa là có
hạn. Tối cao và vô hạn là xét theo bản tính, sứ
mệnh khả năng và mục đích lịch sử cuối cùng.
Không tối cao và có hạn là xét theo sự thực hiện
riêng biệt & thực tế trong mỗi thời điểm nhất định”.
“Chân lý và sai lầm, cũng giống như tất cả phạm
trù lôgích học vận động trong những cực đối lập, có
giá trị tuyệt đối trong một phạm vi cực kỳ hạn chế”.
CNDVLS:
“Tương ứng với một trạng thái chưa trưởng thành của
một nền SX TBCN, với những quan hệ giai cấp chưa
trưởng thành là những lý luận chứa trưởng thành”.
“Tự do không phải là ở sự độc lập tưởng tượng đối
với các QL của TN, mà là ở sự nhận thức được các
QL đó và ở cái khả năng – có được nhờ sự nhận thức
này – buộc những QL đó tác động một cách có kế
hoạch nhằm những mục đích nhất định… Như vậy, tự
do của ý chí không phải là cái gì khác hơn là cái
năng lực quyết định một cách hiểu biết công việc.
Do đó, sự phán đoán của một người về một vấn đề
nhất định, càng tự do bao nhiêu thì nội dung của sự
phán đoán đó sẽ được quyết định với một tính tất
yếu càng lớn bấy nhiêu”.
Biện chứng của tự nhiên (ngghen, 1886)
Làm rõ quan niệm về VC & VĐ:
“VC với tính cách là VC, là một sự sáng tạo thuần
túy của tư duy và là một sự trừu tượng. Chúng ta bỏ
qua sự khác nhau về chất của những SV, khi chúng
ta gộp chúng, vời tư cách là những vật tồn tại hữu
hình, vào khái niệm VC”.
“VĐ hiểu theo nghóa chung nhất, tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của VC, là một thuộc tính
cố hữu của VC, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
“KHTN hiện đại phải vay mượn của TH luận điểm về
tính không thể tiêu diệt được của VĐ, không có luận
điểm này thì KHTN không thể tồn tại được”.
PBCDV:
“Tính chất thần bí mà PBC đã mắc phải ở trong tay
Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở
thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và
có ý thức những hình thái VĐ chung của PBC. Ở
Hêghen, PBC bị lộn đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó
lại là sẽ phát hiện được cái nhân hợp lý của nó ở
đằng sau cái vỏ thần bí của nó”.
“Vậy là từ trong LS của GTN và LS của XH loài
người mà người ta đã rút ra được các QL của PBC…
Những QLBC là những QL thật sự của sự phát triển
của GTN”.
“…một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của
KH thì không thể không có tư duy lý luận… chỉ có
PBC mới có thể giúp cho KHTN vượt khỏi những khó
khăn về lý luận…”
Những nhà KHTN tưởng rằng họ thoát khỏi TH bằng
cách không để ý đến nó hay phỉ báng nó. Nhưng vì
không có tư duy thì họ không thể tiến lên một bước
nào… Những ai phỉ báng TH nhiều nhất lại chính là
những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hóa,
tồi tệ nhất của những học thuyết TH tồi tệ nhất. Dù
những nhà KHTN có làm gì đi nữa thì họ vẫn bị TH
chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi
một thứ TH tồi tệ hợp mốt hay họ muốn được hướng
dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự
hiểu biết về LS tư tưởng và những thành tựu của
nó”.
Về sự sống & nguồn gốc CN
Bàn về quá trình phát triển của GTN – nguồn gốc
của sự sống, CN & lịch sử XH.
“Các nhà KTCT kh.định rằng LĐ là nguồn gốc của
mọi của cải… đúng như vậy… Nhưng LĐ còn là một
cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa. LĐ là điều kiện
cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người,
và như thế đến một mức mà trên một ý nghóa nào
đó, chúng ta phải nói: LĐ đã sáng tạo ra bản thân
CN”.
“Trước hết là LĐ; sau LĐ và đồng thời với LĐ là
ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh
hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc nó
dần dần biến chuyển thành bộ óc CN”.
L.Phoiơbắc & sự cáo chung của THCĐ Đức (ngghen, 1886)
Vấn đề cơ bản của TH
Về TH Hêghen: Đánh giá cao PBCDT cho dù nó mâu thuẫn
với hệ thống TH đó
“Hiển nhiên là do những nhu cầu của ‘hệ thống’,
ông thường phải dùng đến những kết cấu gượng
gạo, và mãi đến nay bọn thù địch nhỏ mọn của ông
vẫn còn la lối thật om sòm về những kết cấu ấy.
Nhưng những kết cấu đó chỉ là cái khung, cái giàn
cho công trình của ông mà thôi. Nếu người ta đừng
phí công dừng lại ở những kết cấu ấy mà đi sâu hơn
nữa vào trong tòa nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy trong
ấy có vô số những vật quý giá đến nay vẫn còn giữ
được toàn bộ giá trị của chúng. Đối với tất cả các
nhà TH, ‘hệ thống’ chỉ là cái tạm thời, vì nó nảy
sinh từ một nhu cầu không tạm thời của tinh thần
CN, nhu cầu khắc phục tất cả mọi mâu thuẫn”
“Nhưng tất cả những điều đó không ngăn cản hệ thống
H. bao quát một lãnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ
thống nào trước kia, và phát triển trong lónh vực đó,
một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta
vẫn còn ngạc nhiên… trong từng lónh vực lịch sử khác
nhau ấy, H. cố gắng phát hiện ra và chỉ rõ sợi chỉ đỏ
của sự phát triển xuyên suốt lónh vực ấy. Vì H. không
những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà
bác học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu của
ông tạo thành thời đại”.
“Nhưng ý nghóa thật sự và tính cách mạng của triết học
H.… chính là ở chỗ nó đã vónh viễn kết liễu tính tối hậu
của những kết quả của tư tưởng và hành động CN”.
“Đối với triết học biện chứng đó thì không có gì là tối
hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra – trên
mọi sự vật và trong mọi sự vật – dấu ấn của mọi suy
tàn, và đối với nó, không có gì tồn tại ngoài quá trình
không ngừng của sự hình thành và tiêu vong, của sự
tiến triển vô cùng tận từ thấp lên cao”.
Về TH Phoiơbắc: Đánh giá cao TGQDV nh.bản nhưng chỉ ra
hạn chế của nó là máy móc, SH và DT về LSù
P. đã đưa “CNDV trở lại ngôi vua”.
“Chỉ tuyên một hệ thống TH nào đó là sai lầm thì
chưa có nghóa là thể thắng nó được… nghóa là phải
tiêu diệt hình thức của nó bằng phê bình, nhưng cứu
lấy nội dung mới mà nó đạt được”.
“Lời khẳng định của P. cho rằng ‘các thời đại của
loài người chỉ khác nhau bởi những thay đổi về
phương diện tôn giáo’ là hoàn toàn sai. Chỉ có thể
nói đến những bước ngoặt LS lớn có kèm theo những
sự thay đổi về tôn giáo”.
“về hình thức, ông là một CN hiện thực chủ nghóa,
ông lấy CN làm xuất phát điểm, song ông không nói
đến TG trong đó CN ấy sống, vì vậy, CN mà ông nói,
luôn luôn là CN trừu tượng”.
“những vết tích cuối cùng của tính chất c.mạng trong
TH của ông đều biến mất hết và chỉ còn lại cái điệp
khúc củ kỹ: Hãy yêu nhau đi, hãy ôm nhau đi, không
cần phân biệt nam nữ & đẳng cấp. Thật là giấc mơ
thiên hạ thuận hòa… Học thuyết của P. về đạo đức
cũng giống như tất cả h.thuyết trước đó. Nó được gọt
giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi
hoàn cảnh, & chính vì thế mà không bao giờ nó có thể
đem áp dụng được ở đâu cả”.
Về bước ngoặt CM trong TH: Cải tạo PBC của TH H. theo
t.thần DV của TH P.; cải tạo CNDV P. theo t.thần BC của TH H.
“Chúng tôi lại trở về với quan điểm DV và thấy rằng
những ý niệm trong đầu óc của chúng ta là những phản
ánh của sự vật hiện thực, chứ không xem những sự vật
hiện thực là những phản ánh của giai đoạn này hay giai
đoạn khác của của ý niệm tuyệt đối. Do đó, PBC được
quy thành KH về các QL chung của sự vận động của TG
bên ngoài cũng như của tư duy CN”