Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Tài liệu môn VĂN HỌC ANH MĨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.87 KB, 92 trang )

[FLIGHT]
Doris Lessing
Phía trên ơng lão là chiếc chuồng bồ câu được đặt trên mấy cây cọc có
lưới sắt bao quanh, bên trong đầy những chú bồ câu dáng vẻ oai vệ đứng
rỉa lông. Ánh mặt trời rọi vào những bộ lông ngực xám của chúng, vỡ ra
thành nhiều sắc cầu vồng nho nhỏ. Tiếng “gù gù” của lũ chim bên tai thật
êm ái; lão đưa tay về phía con bồ câu nhỏ béo ú mà lão rất thích, nhưng
nó vẫn đứng đó, hếch đơi mắt sáng lanh lợi nhìn lão.
“Ngoan. Ngoan nào. Ngoan nào”, lão nói rồi túm lấy nó, mấy móng vuốt
màu đỏ san hơ như đang bấu chặt lấy ngón tay. Lão cảm thấy thật hài
lịng, rồi nhẹ nhàng áp con chim vào ngực và tựa lưng vào gốc cây, chăm
chú nhìn phong cảnh buổi chiều muộn phía sau chuồng bồ câu. Trong
cảnh nhập nhoạng, mảnh đất màu đỏ thẫm bỗng chốc trở thành những cục
đất đầy bụi trải dài ra tận chân trời. Cây cối mọc đầy thung lũng và những
thảm cỏ xanh mướt dọc theo con đường.
Đơi mắt lão nhìn khắp con đường về nhà và chợt thấy cháu ngoại mình
đang đung đưa ở cánh cổng dưới tán cây đại thụ. Mái tóc óng ả của cô bé
xõa dài đến lưng, đôi chân trần không ngừng đá nhẹ vào thân cây đại với
màu nâu nổi bật giữa bờ rào và những bụi cây đang trổ hoa.
Cô đang say sưa nhìn con đường phía xa dẫn về làng, xa khỏi những
khóm hoa màu hồng và xa ngơi nhà đang ở.
Tâm trạng lão đột nhiên thay đổi. Lão nâng cổ tay để con bồ câu bay lên,
và chụp lấy ngay khi nó sắp dang cánh. Con vật bụ bẫm cố gắng quẫy đạp
dưới mấy ngón tay lão, rồi bỗng cơn giận trào lên, lão nhốt con chim vào
cái hộp nhỏ và cài chặt then. “Bây giờ thì mày ở đó đi”, lão lầm bầm rồi
quay lưng về phía chuồng cu. Lão bước thận trọng dọc theo hàng rào cạnh


đứa cháu gái, lúc này đang dựa vào cánh cổng và khẽ lắc lư ca hát. Âm
thanh nhẹ nhàng trong trẻo hòa nhịp với tiếng “gù gù” của lũ chim khiến
cơn giận của lão càng bốc lên.


“Nè!”, lão hét lên khi thấy cháu mình cứ nhảy lên nhảy xuống, ngối lại
nhìn rồi bước xích ra khỏi cánh cổng. Cơ bé làm ra vẻ tự nhiên khi chào
lão nhưng ánh mắt lại tránh nhìn ơng mình “Thưa Ngoại”. Nói rồi cơ lễ
phép tiến lại gần lão sau khi không quên liếc nhìn con đường phía sau.
“Đợi Steven à?”, lão hỏi mà mấy ngón tay cong lại như móng vuốt trong
lịng bàn tay.
“Ngoại không chịu hả?”, cô bé khẽ hỏi, vẫn tránh nhìn lão.
Lão bước tới trước mặt cháu mình, mắt nheo lại. Lão như bị bóp nghẹt
trong nỗi đau từ chính những con chim đang rỉa lông, từ những tia nắng, từ
những đóa hoa và từ chính đứa cháu ngoại của mình – “Con nghĩ con đã
lớn để hẹn hị à?”
Cơ bé hất hất cái đầu nũng nịu như hờn dỗi “Ngoại!”
“Con nghĩ con muốn rời bỏ căn nhà này sao? Nghĩ mình có thể chạy nhảy
khắp cánh đồng suốt đêm sao?”
Nụ cười của cơ bé khiến lão nhớ lại hình ảnh đứa cháu gái tay trong tay đi
dọc con đường làng với chàng thanh niên – con trai người đưa thư – vạm
vỡ đầy sức sống vào những buổi tối cuối mùa hè ấm áp. Nỗi buồn chợt ùa
đến, lão gào lên giận dữ: “Ngoại sẽ méc mẹ con”.
“Ngoại méc đi!”, cô bé cười vang rồi quay lại cánh cổng.
Cô cất tiếng hát, càng khiến lão thấy như đang bị chọc tức:
Anh rất gần bên em
Anh ở tận trong sâu thẳm trái tim em


“Rác rưởi”. Lão thét lên. “Rác rưởi. Toàn những thứ rác rưởi.”
Lão càu nhàu điều gì đó rồi quay lại chuồng bồ câu, nơi lão tìm thấy niềm
an ủi so với ngôi nhà lão đang sống cùng đứa con gái và đứa cháu gái.
Nhưng căn nhà bây giờ yên ắng lắm. Mấy đứa cháu gái đã đi hết, mang
theo tiếng cười, những lần chí chóe nhau và cả những lời chọc ghẹo. Lão
sẽ bị bỏ rơi, khơng cịn được u thương và sống trong nỗi cô đơn cùng

với người phụ nữ có vầng trán rộng và đơi mắt trầm tĩnh kia – con gái của
lão.
Lão dừng lại trước chuồng chim, lầu bầu. Những con chim đáng yêu đang
gù gù càng làm lão tức điên. Đứa cháu gái đứng ở cổng nói to: “Ngoại đi
méc đi. Nhanh đi Ngoại. Ngoại cịn chờ gì nữa?”
Lão ngang bướng bước vào nhà nhưng vẫn liếc nhìn đứa cháu gái một
cách cầu khẩn. Nhưng con bé chẳng thèm dòm quanh. Thái độ vừa bướng
bỉnh, vừa áy náy của cô khiến lão thương cô bé hơn và đâm ra hối hận.
“Nhưng Ngoại khơng có ý”, lão đứng lại, nói thật khẽ, cố mong chờ cháu
ngoại mình quay lại và chạy đến bên lão. “Ngoại khơng có ý…”
Cơ bé đã khơng quay lại. Cơ khơng cịn để ý đến lão nữa. Từ xa Steven
đang bước tới, mang theo vật gì đó trong tay. Một món q cho cô bé
chăng? Lão đứng chết lặng khi thấy cánh cổng bật ngược lại rồi đôi trẻ ôm
chầm lấy nhau. Trong bóng cây đại thụ, cháu gái lão, đứa cháu gái yêu quý
của lão, đang trong vòng tay con trai người đưa thư, tóc cơ bé phủ lên đơi
vai chàng trai.
“Ta thấy rồi đó nhé!”, lão hằn học thét lên. Chúng vẫn không rời nhau ra.
Lão giận dữ nện từng bước chân đùng đùng vào ngôi nhà nhỏ quét vôi
trắng khiến sàn gỗ ngồi hiên kêu cót két. Con gái lão ngồi may vá ở nhà
trước, khi ấy bà đang xỏ kim bên ánh đèn. Thêm một lần nữa, lão đứng lại,
ngối nhìn ra vườn. Lúc này đơi trẻ đang tản bộ, cười nói giữa những bụi
cây. Lúc trơng ra vườn, lão thấy cháu gái mình tự dưng nghịch ngợm chạy
khỏi chàng trai, nhảy vào những bụi hoa, và chàng thanh niên đuổi theo
sau. Lão nghe thấy tiếng la hét, tiếng cười, tiếng thét, và rồi im lặng.


“Nhưng không thể như thế được”, lão lầm bầm đầy đau khổ. “Khơng phải
thế. Tại sao con khơng chịu nhìn đi? Chạy nhảy rồi cười rúc rích, rồi hơn
nhau và hơn nhau. Rồi sẽ cịn gì khác nữa?”
Lão tức tối nhìn con gái mình với vẻ nhạo báng, và tự dưng đâm ra căm

ghét bản thân mình. Lũ trẻ bị lão bắt quả tang, nhưng cô bé vẫn vô tư chạy
nhảy.
“Con khơng thấy à?” lão nói về đứa cháu gái giờ đây như vơ hình với lão,
ngay lúc này đang nằm trên thảm cỏ xanh dày với con trai người đưa thư.
Con gái lão uể oải nhướng đôi chân mày, kiên nhẫn ngước mắt nhìn cha
mình,
“Ba cho mấy con chim vô chuồng hết rồi hả?”, bà hỏi để chiều ý lão.
“Lucy”, lão van nài, “Lucy…”
“Giờ là chuyện gì nữa hả Ba?”
“Nó đang ở trong vườn với Steven.”
“Bây giờ Ba ngồi xuống và uống trà nhé.”
Lão dậm chân đồm độp xuống sàn gỗ lồi lõm và thét lên:
“Nó sẽ lấy thằng ấy. Ba nói với con rằng tiếp theo nó sẽ lấy thằng ấy.”
Bà nhanh nhẹn đi lấy cho lão tách trà và dọn một đĩa thức ăn.
“Ba không muốn uống trà. Ba đã nói Ba khơng muốn uống trà kia mà.”
“Thơi nào, Ba”, bà vỗ về. “Có điều gì sai à? Tại sao lại khơng thể?”
“Nó chỉ mới mười tám. Mới có mười tám thơi mà.”


“Con lập gia đình lúc mười bảy tuổi, và con chưa bao giờ thấy hối tiếc về
điều đó.”
“Nói dối.”, lão hét to lên. “Con nói dối. Con đã cảm thấy ân hận. Tại sao
con để cho mấy đứa cháu của Ba đi lấy chồng. Chính con đã đẩy chúng đi.
Tại sao con lại làm như vậy?”
“Ba chị của Alice đều sống hạnh phúc. Chồng của chúng đều là người tốt.
Vậy tại sao Alice lại khơng?”
“Nhưng nó là đứa cháu gái út.” Lão rơm rớm nước mắt. “Chúng ta không
thể giữ con bé lâu hơn được sao?”
“Bĩnh tĩnh nào, Ba. Con bé chỉ ở ngay cuối đường kia thơi. Rồi nó sẽ đến
đây thăm ba mỗi ngày.”

“Nhưng sẽ không giống như thế nữa.” Lão nghĩ đến ba đứa cháu gái mà
chỉ trong vài tháng ít ỏi đã từ những đứa trẻ đáng u, hay hờn dỗi, ln
được nng chiều, thì nay đã trở thành những quý bà nghiêm trang và
chững chạc.
“Ba đã chẳng hề thay đổi từ khi chúng con kết hôn. Tại sao không? Lần
nào cũng đều như thế. Khi con lập gia đình, Ba đã làm con cảm thấy mình
đang làm một điều sai trái. Và mấy đứa cháu gái của ba cũng thế. Ba khiến
lũ nhỏ khóc suốt và sợ hãi với suy nghĩ của Ba. Ba hãy để Alice được yên.
Con bé đang hạnh phúc.” Nói rồi bà thở dài, đưa mắt nhìn về khu vườn
chan hịa ánh nắng. “Con bé sẽ kết hôn vào tháng sau. Khơng cịn lí do gì
để chờ đợi nữa.”
“Con nói rằng chúng có thể lấy nhau à?”, lão hỏi lại, lịng đầy nghi ngờ.
“Vâng, thưa Ba. Tại sao lại không?” Bà trả lời rất dứt khốt và bỏ cơng việc
may vá sang một bên.
Mắt lão nhòe nước, rồi lão bước ra ngoài hiên. Những giọt nước mắt ướt
đẫm cằm lão. Lão rút chiếc khăn tay lau hết khuôn mặt. Khu vườn lúc này
vắng tanh.


Từ một góc vườn, đơi trẻ tiến đến bên lão, nhưng gương mặt chúng khơng
cịn vẻ chống đối nữa. Một con chim bồ câu nhỏ đậu trên cổ tay chàng
thanh niên, ánh nắng lóe lên ngực nó.
“Cho Ngoại hả?”, lão nói mà mấy giọt nước mắt rơi khỏi cằm. “Của Ngoại
đó hả?”
“Ngoại thích khơng?” Cơ bé nắm tay lão, lúc lắc. “Steven mua nó để tặng
Ngoại.” Chúng đứng xung quanh lão đầy âu yếm và quan tâm, cố gắng xua
đi nỗi buồn và những giọt nước mắt của ơng mình. Chúng dắt tay lão đến
bên chuồng chim bồ câu, mỗi đứa một bên, vỗ về lão không ngớt rằng sẽ
không có gì thay đổi, chẳng điều gì có thể thay đổi được, và rằng chúng sẽ
luôn ở bên lão. Ánh mắt chúng tràn đầy hạnh phúc khi dúi con chim bồ câu

nhỏ vào tay lão rồi bảo rằng nó chính là minh chứng cho những điều chúng
nói. “Đây, của Ngoại đây.”
Chúng nhìn lão giữ con chim trên cổ tay mình, vuốt ve cái lưng mềm mại
và óng ả của nó, ngắm nhìn con chim nhỏ bé nâng đơi cánh lên rồi cố giữ
thăng bằng.
“Ngoại phải nhốt nó một thời gian cho đến khi nó quen với nhà mới của
mình”, cơ bé ra vẻ hiểu biết.
“Trứng mà địi khơn hơn vịt nữa đấy”, lão lẩm bầm.
Khi cơn giận và nỗi buồn của lão nguôi bớt, chúng cười phá lên rồi rút lui.
“Ngoại thích nó là tụi con vui rồi.” Đơi trẻ – lúc này trông thật nghiêm túc và
rất quan tâm đến lão – đi về cánh cổng, nơi chúng đứng xoay lưng về phía
lão, ơm nhau và nói chuyện thật khẽ. Hơn tất cả, sự quan tâm của đôi trẻ
dành cho lão đã khiến cơn giận dữ và nỗi cô đơn dường như tan biến đâu
mất, lòng vui như những chú cún con được lăn mình trên cỏ. Bọn trẻ lại
quên lão. Ừ, cũng được thôi, lão thầm nhủ mà cổ họng nghẹn lại, môi run
run. Lão nâng con bồ câu mới lên gần mặt, vuốt ve bộ lông mềm như lụa
của nó. Rồi lão nhốt nó vào chuồng và mang con lão u thích nhất ra.
“Bây giờ mày có thể bay rồi đấy”, lão nói thật to. Lão giữ nó nhẹ nhàng,
sẵn sàng để thả nó ra và nhìn xuống khu vườn nơi đôi trẻ đang đứng. Cố


kìm nén nỗi đau mất mát, lão nâng con chim lên cổ tay mình và nhìn nó
bay vút đi. Một loạt những tiếng vù vù từ đôi cánh vang lên, và cả đàn bồ
câu trong chuồng cu cũng vụt bay theo lên bầu trời chạng vạng.
Nơi cổng nhà, Alice và Steven qn mất cuộc nói chuyện, ngước nhìn
những con chim đang bay.
Nơi hàng hiên, con gái lão đứng lặng, tay che mắt dõi theo trong khi vẫn
cầm đồ may vá.
Buổi chiều tối dường như ngừng lại trước sự kiềm chế của lão, thậm chí lá
trên cành cũng khơng hề lay động.

Lão lau khô nước mắt, buông xuôi hai tay, đứng thật thẳng và bình tĩnh dõi
nhìn lên bầu trời.
Đàn chim tựa như dải ánh sáng màu bạc cứ bay lên rồi bay lên mãi, phát
ra tiếng rít từ những đơi cánh đang vẫy đập. Chúng bay qua những thửa
đất cày tối sẫm, qua những rặng cây, băng qua những thảm cỏ xanh tươi
cho đến khi chúng trôi bồng bềnh trong ánh dương như đám bụi mờ tít trên
khơng.
Đàn chim đảo một vịng thật rộng, chao nghiêng đơi cánh, tạo nên những
luồng sáng lấp lóa. Từ trong bóng nắng trên trời cao, từng con bồ câu nối
tiếp nhau bay về với rặng cây, thảm cỏ, ruộng đồng; bay về với thung lũng,
về với nơi trú ẩn trong đêm.
Cả khu vườn huyên náo bởi đàn chim trở lại. Rồi tất cả lại chìm trong n
lặng. Và rồi bầu trời lại hóa trống không.
Lão chầm chậm quay lại, nhướng mắt đầy kiêu hãnh nhìn cháu ngoại
mình. Cơ bé đang nhìn lão chăm chú, không hề mỉm cười, đôi mắt mở to
và sắc mặt tái đi trong bóng chiều lạnh lẽo. Và lão thấy từng giọt nước mắt
rơi lã chã trên gương mặt cô bé.


[ Analyse Flight ]
Exposition

_Old man plays with his birds. Ông già chơi với những con chim của mình.
+ “His ears were lulled by their crooning” ® He loves his birds. “Đôi tai của
anh ấy đã được ru ngủ bởi tiếng kêu của chúng” ® Anh ấy yêu những con chim
của mình.
_He plays with his favorite homing pigeon.
+ “a young plump-bodied bird & amp; shrewd bright eye” “Một con chim non
có thân hình bụ bẫm & mắt sáng thơng minh ”
® He takes good care of this intelligent bird. Ông ấy chăm sóc rất tốt cho lồi

chim thơng minh này. ®Symbolism?
® Shift from the bird to the granddaughter. Chuyển từ con chim sang cháu gái.
® Link between the fave bird & granddaughter Liên kết giữa lồi chim ưa
thích & cháu gái
® The old man LOVES his granddaughter Ông già YÊU cháu gái của mình

_He sees his granddaughter Alice and becomes angry. Ơng ta nhìn thấy cơ
cháu gái Alice của mình và trở nên tức giận.
+Alice: “swinging on the gate,” “Her hair fell down her back” & “long
bare legs” Alice: “đu trên cổng”, “Tóc cơ ấy xõa xuống lưng” & amp; "Đơi
chân trần dài"
® Free / untamed
+Alice was gazing “past the pink flowers, past the railway cottage where they
lived,along the road to the village.” Alice đang nhìn chằm chằm “qua những
bơng hoa màu hồng, qua ngôi nhà nhỏ trên đường sắt nơi họ sống, dọc theo con
đường đến làng.”


® Gazing far away from home Nhìn xa xăm về quê hương
® Yearning for travel / freedom. Khao khát du lịch / tự do.

+ “He deliberately held out his wrist for the bird to take flight, and caught it
again at the moment it spread its wings” “Ơng ấy cố tình chìa cổ tay ra để con
chim bay, và bắt lại ngay lúc nó dang rộng đơi cánh”
® Symbolism?
® The old man wants to keep the bird from flying away Ông già muốn giữ cho
con chim khơng bay đi
® Fave pigeon = Alice
® The old man wants to keep Alice from leaving.Ơng già muốn giữ Alice khơng
rời đi.

+ Alice = fave pigeon (plumb-bodied & bright & taking flight) Alice
= chim bồ câu yêu thích (thân bằng nhựa & sáng & đang bay)
Old man = predator keeping the bird locked up (“He moved warily along the
hedge, stalking” & “his fingers curling like claws into his palm”). Ông già
= kẻ săn mồi đang nhốt con chim (“Anh ta thận trọng di chuyển dọc theo hàng
rào, rình rập” & “những ngón tay anh ta cuộn lại như vuốt vào lòng bàn
tay”).
_Old man argues with Alice about her boyfriend Steven Ông già tranh luận với
Alice về bạn trai của cô ấy Steven

+ Alice:

+ "Her eyes veiled themselves" "Đơi mắt của cơ ấy tự che mình đi"

+ "said in a pert neutral voice"


+ "Politely she moved towards him, after a lingering backward glance at the
road” "Lịch sự, cơ ấy tiến về phía anh ấy, sau một cái liếc mắt lùi về phía sau để
nhìn đường"

=> Alice still respects the old man, but she is cold/guarded toward him =>
Family members => cold toward each other Alice vẫn tôn trọng ông già nhưng
cô ấy lạnh lùng / đề phịng ơng ấy => Các thành viên trong gia đình => lạnh
nhạt với nhau

=> Alice still wants to get away from her home Alice vẫn muốn rời khỏi nhà
của mình

=> Conflicts different generation family member Xung đột thành viên gia đình

thế hệ khác nhau
+Desires ( old man wish vs alice wish) Mong muốn (mong ước của ông già và
mong ước của alice)
Yêu cháu nhưng mất kiểm sốt
2/ Rising action

Ơng già như thú dữ

Old man vs Alice (his granddaughter)

+ Alice: "Any objection?" she asked lightly, refusing to look at him" Alice: "Có
phản đối gì khơng?" Cơ nhẹ giọng hỏi, khơng chịu nhìn ơng "


→ Alice's respect is the bare minimum.Sự tôn trọng của Alice là điều
tối thiểu nhất.

Old man: "his eyes narrowed, shoulders hunched, tight in a hard knot of pain”
Ông già: “mắt nheo lại, vai khom, thắt một cái đau thắt”

=> Angry => primal / animalistic anger Giận dữ => tức giận nguyên thủy / thú
tính

=> Instinctive reaction Phản ứng theo bản năng
+ Reason of ar: think u are old enough to ..., hey" ( excuse)
Courting từ cổ 16+18 Shakespeare quá trình hai người đi tìm hiểu nhau
Lấy tuổi để nói
+ Reason for argument. "Think you're old enough to go courting, hey?" (excuse)
Lý do tranh luận. "Hãy nghĩ rằng bạn đã đủ lớn để đi tán tỉnh, hey?" (cái cớ)


Old man is old-fashioned Against Alice in a relationship with Steven.Old man là
cổ hủ chống lại Alice trong mối quan hệ với Steven.

=>“Think you want to leave home, hey? Think you can go running -around the
fields at night?"“Nghĩ rằng bạn muốn rời khỏi nhà, hey? Bạn nghĩ rằng bạn có
thể chạy quanh cánh đồng vào ban đêm? "

Old man does not want to let Alice go (Main reason).Ơng già khơng muốn để
Alice đi (Lý do chính).
Alice smiled at him.Old man's powerlessness I'll tell your mother!" ( Bất lực
của old man)


* Conflict
+ Older generation vs. Young generation Control >< Freedom
Old man becomes angrier Ông già trở nên tức giận hơn
_Alice becomes colder and provokes him and then, she leaves him when Steven
arrives Alice trở nên lạnh lùng hơn và khiêu khích ơng ấy và sau đó, cơ ấy rời
bỏ ơng khi Steven đến
+ Alice she said, laughing, and went back to the gate Alice cơ ấy nói, cười và
quay lại cổng
Gate (cổng) like cái lồng của Alice
+ Alice: she said, laughing, and went back to the gate

No respect for the controlling old man! Khơng tơn trọng ơng già kiểm sốt!

+ "The Gate"

Beginning. Alice swinging on the gate = pigeon about to fly Bắt đầu. Alice đu
trên cổng = chim bồ câu sắp bay


Now Alice behind the gate = pigeon in the cage Bây giờ Alice sau cánh cổng =
chim bồ câu trong lồng
=>The Gate Alice's cage (old man's control) Lồng của Cổng Alice (sự kiểm sốt
của ơng già)
® Alice at the gate - alice's desire to break free Alice ở cổng - mong muốn được
giải thoát của alice
Growling under his breath he turned towards the dove-cote, which was his
refuge from the house he shared with his daughter and her husband and their
children. But now the house would be empty. Gone all the young girls with their


laughter and their squabbling and their teasing. He would be left, uncherished
and alone, with that square fronted, calm-eyed woman, his daughter.Kronted
calm-eyed woman, his daughter"
Gầm gừ trong hơi thở, anh ta quay về phía con chim bồ câu, đó là nơi trú ẩn của
anh ta từ ngôi nhà mà anh ta đã chia sẻ với con gái và chồng cô và con cái của
họ. Nhưng bây giờ ngôi nhà sẽ trống rỗng. Cuốn đi tất cả các cô gái trẻ với tiếng
cười của họ, cãi vã và trêu chọc của họ. Anh ấy sẽ bị bỏ lại, không được nuôi
dưỡng và cơ đơn, với người phụ nữ có đơi mắt bình tĩnh, khn mặt vng đó,
con gái của anh ấy. Người phụ nữ có đơi mắt điềm tĩnh đối diện, con gái anh ấy
"

=> Outside => Anger Bên ngoài => Giận dữ
Inside Loneliness > Desire to control Alice Inside Loneliness> Mong muốn
điều khiển Alice
=>Fear of loneliness in the old man (REAL REASON) Nỗi sợ cô đơn trong ông
già (LÝ DO THỰC SỰ)
***Old man feels regretful. "Her defiant but anxious young body stung him
unto love and repentance. He stopped. But I never meant... he muttered, waiting

for her to turn and run to him. I didn't mean
Ông già cảm thấy hối hận. "Cơ thể trẻ trung bất chấp nhưng đầy lo lắng của cơ
ấy đốt cháy anh vì tình u và sự ăn năn. Anh dừng lại. Nhưng tơi khơng bao
giờ có ý định ... anh lẩm bẩm, đợi cô quay lại và chạy đến với anh. Tôi không cố
ý

→ Old man loves Alice and wants to keep Alice home Ông già yêu
Alice và muốn giữ Alice ở nhà
® His actions push her away (Alice at the gate, away from him).Hành động của
anh đẩy cơ ra xa (Alice ở cổng, tránh xa anh).
® Regret comes from fear of loneliness Hối tiếc đến từ nỗi sợ cô đơn


"She did not turn. She had forgotten him "Cô ấy đã không quay lại. Cô ấy đã
quên anh ấy

Before Steven The gate is closed. Alice is behind the gate Trước khi Steven
Cánh cổng đóng lại. Alice ở sau cánh cổng
After Steven the gate swing back "
® The outside world came and broke Alice's cage Thế giới bên ngoài đến và phá
vỡ lồng của Alice
® The old man's power and control over Ache end.Quyền lực của ơng già và
quyền kiểm sốt đối với Alice kết thúc.
Steven & Alice in the garden: "The couple were now sauntering among the
bushes, laughing. As he watched he saw the girl escape from the youth with a
sudden mischievous movement, and run off through the flowers with him in
pursuit. He heard shouts. laughter, a scream, silence."
Steven & Alice in the garden: "Cặp đôi lúc này đang đi dạo giữa những bụi cây,
cười đùa. Khi quan sát, anh nhìn thấy cơ gái chạy trốn khỏi đám thanh niên với
một chuyển động tinh nghịch bất ngờ và chạy theo những bông hoa cùng anh để

đuổi theo. Anh nghe thấy tiếng hét . Tiếng cười, tiếng hét, sự im lặng. "
Trẻ con trong thế giới chẳng cịn ai khác ngồi bọn họ, ngây thơ
® Old man's complete powerlessness against the changes.Ơng già hồn tồn bất
lực trước những thay đổi.
® The OM cannot control the young OM khơng thể kiểm sốt trẻ
"She's eighteen."
I was married at seventeen and I never regretted it.Tôi kết hôn năm mười bảy
tuổi và tôi chưa bao giờ hối hận về điều đó.

"Why do you make your girls marry?""Tại sao anh bắt các cô gái của anh kết
hôn?"


The other three have done fine. They've three fine husbands. Why not Alice?Ba
người khác đã làm tốt. Họ có ba người chồng tốt. Tại sao không phải là Alice?

"She's the last, '' he mourned. "Can't we keep her a bit longer?""Cơ ấy là người
cuối cùng," anh than khóc. "Chúng ta không thể giữ cô ấy lâu hơn một chút
sao?"
"She'll be down the road, that's all. She'll be here every day to see you.""Cô ấy
sẽ xuống đường, vậy thôi. Cô ấy sẽ ở đây mỗi ngày để gặp anh."
But it's not the same."Nhưng nó khơng giống nhau. "

"He thought young matrons And my girls the same You get them all samjhe
crying and miserable way you go on Leave Alice alone She's happy."Anh ấy
nghĩ những người vợ trẻ và các cô gái của tơi cũng vậy. Bạn khiến họ khóc lóc
và đau khổ theo cách bạn cứ Để Alice một mình Cơ ấy hạnh phúc.
3/Climax

Old man finds about the set marriage between Alice and Steven Ơng già tìm

thấy về cuộc hơn nhân sắp đặt giữa Alice và Steven

She'll marry next month. There's no reason to wait. => The old man's fear comes
true.Cô ấy sẽ kết hơn vào tháng tới. Khơng có lý do gì để chờ đợi. => Nỗi sợ hãi
của ơng lão trở thành sự thật. OK

=> The old man cries.Ông già khóc.

_Old man walks out to the garden again.Ơng già lại bước ra vườn.
"His eyes stung, and he went out onto the veranda Wet spread down over his
chin and he took out a handkerchief and mopped his whole face ""Mắt anh ấy


cay xè, và anh ấy đi ra ngoài hiên. Nước ướt tràn xuống cằm và anh ấy lấy khăn
tay ra lau khắp mặt"
4/Falling Action

_Old man faces Alice & Steven.Ông già đối mặt với Alice & Steven.
_Alice & Steven give the old man a new pigeon.Alice & Steven đưa cho ông
già một con chim bồ câu mới.
+ Alice's attitude toward the old man Thái độ của Alice đối với ông già
"Do you like it?" The girl grabbed his hand and swung on it. It's for you,
Grandad. Steven brought it for you""Bạn có thích nó khơng?" Cơ gái nắm lấy
tay anh và vung lên. Nó dành cho ơng, thưa ơng. Steven đã mang nó cho bạn "
® Peace offering

® Parting gift
saying wordlessly that nothing would be changed, nothing could change, and
that they would be with him always. The bird was proof of it, they said, from
( their lying happy eyes, as they thrust it on him.)nói sng rằng sẽ khơng có gì

thay đổi, khơng có gì có thể thay đổi, và rằng họ sẽ ln ở bên anh. Họ nói rằng
con chim là bằng chứng về điều đó từ (đơi mắt hạnh phúc đang nằm của họ, khi
họ đẩy nó vào anh ta.)
® The new pigeon : Chim bồ câu mới:
- Change
- A piece of Alice left with the old man Một mảnh của Alice cịn lại với
ơng già

Hãy giữ con chim cho tới khi nó quen, thích nghi với ơng già


Món q từ biệt, làm hồ
Bồ câu cũ ( alice)
Bồ câu mới lời hứa của (alice)

You must shut it up for a bit,' said the girl intimately "Until it knows this is its
home"
® Alice's messages Embrace & get used to the change Thông điệp của Alice
Hãy nắm bắt và làm quen với sự thay đổi
+ Her proof of love for him Bằng chứng tình u của cơ ấy dành cho anh ấy

_ Alice & Steven comfort the old man before walking to the gate. "They moved
off. now serious and full of purpose, to the gare, where they hung. backs to him,
talking quietly"Alice & Steven an ủi ông già trước khi bước ra cổng. "Họ đã rời
đi. Bây giờ nghiêm túc và đầy mục đích, đến nơi mà họ đã treo cổ. Quay lại với
anh ấy, nói chuyện nhẹ nhàng"
That sự thật, nghiêm túc full of purpose

=> The gate is open Cổng đã mở


=> Alice can leave whenever she wants with Steven.Alice có thể rời đi bất cứ
khi nào cơ ấy muốn cùng với Steven.

=> Alice & Steven here NE Quiet, serious Alice & Steven before loud, excited
Alice's maturity & determination -> The old man's prediction comes true!Alice
& Steven here NE Yên lặng, nghiêm túc Alice & Steven trước sự trưởng thành
& quyết tâm ồn ào, hào hứng của Alice -> Lời tiên đốn của ơng già trở thành
sự thật!


_Old man puts the new pigeon in the box Ông già đặt con chim bồ câu mới vào
hộp
"He held the new bird to his face, for the caress of its silken feathers. Then he
shut in a box and took out his favourite.""Anh ta ôm con chim mới vào mặt để
vuốt ve bộ lơng mềm mượt của nó. Sau đó, anh ta đóng hộp và lấy ra con chim
u thích của mình."
=>He takes out his favorite pigeon and sets it free Anh ấy lấy ra con chim bồ
câu yêu thích của mình và thả nó ra
*NOW YOU CAN GO"
=> The old man
+Accepts the change (new bird) Chấp nhận thay đổi (chim mới)
+Allows Alice to leave (fave bird = Alice) Cho phép Alice rời đi (fave bird =
Alice)
=> Resignation & acceptance Từ chức và chấp nhận
=> Surrenders his pride & desire for control => For Alice's happiness.Đầu hàng
niềm tự hào và mong muốn kiểm sốt của mình => Vì hạnh phúc của Alice.
=> Birds => Symbolism?
+ Face bird: chim ưa thích (alice)
Desire for freedom (beginning)Khát vọng tự do (bắt đầu)
Freedom (link the title "Flight")Tự do (liên kết tiêu đề "Chuyến bay")

+ New bird:
Change Thay đổi
Promise of returning Lời hứa trở lại
Hai con chim :

Thả chim, muốn alice có nhà mới bạn mới, connection


Everybody stands and watches the birds fly into the night

=> Setting
+Place English countryside
+Time Afternoon -> Evening (passage of time)
=> Symbolic meaning?
+Passage of time ®Thời gian trơi qua
Alice process of growth từ cô bé ngây thơ, thành người phụ nữ mẫu mực
Old man end of his old life Ông già kết thúc cuộc sống cũ của mình
Old man looks proudly and smiles at Alice who is crying Ơng già nhìn Alice
đầy tự hào và mỉm cười với Alice đang khóc
"...he lifted his eyes to smile proudly down the garden at his granddaughter. She
was staring at him. She did not smile. She was wide-eyed, and pale in the cold
shadow, and he saw the tears run shivering off her face.""... ông ngước mắt lên
cười đầy tự hào khi nhìn xuống khu vườn với đứa cháu gái của mình. Cơ ấy
đang nhìn ơng chằm chằm. Cô ấy không cười. Cô ấy mở to đôi mắt và tái nhợt
trong bóng tối lạnh lẽo, và ơng nhìn thấy những giọt nước mắt đang chảy ra.
khn mặt của cô ấy. "

THEMES
+ Freedom (fave pigeon + Flight") +Generation gap (Old-fashioned old man vs
Alice's manners)

+ Loneliness
(Unnamed old man => Representative of ALL the elderly)
+ Acceptance of changes + Maturity (passage of time)


A red red rose
O my Luve’s like a red, red rose,
That’s newly sprung in June;
O my Luve’s like the melodie
That’s sweetly pay’d in tune.-

As fair art thou, my bonie lass,
So deep in luve am I;
And I will love thee still, my Dear,
Till a’ the seas gang dry.-

Till a’ the seas gang dry, my Dear,
And the rocks melt wi’ the sun:
I will love thee still, my Dear,
While the sands o’ life shall run.-

And fare thee weel, my only Luve!
And fare thee weel, a while!
And I will come again, my Luve,
Tho’ it were ten thousand mile!

BẢN DỊCH:
Người yêu anh như bông hoa hồng đỏ
Bông hoa tươi đang nở giữa mùa hè
Người yêu anh như bài ca trong gió

Giai điệu ngọt ngào, êm ái, say mê.


Nét duyên dáng của người em yêu dấu
Với tình anh chỉ có một trên đời
Tình của anh mãi cùng em yêu dấu
Đến bao giờ biển cạn hết mới thôi.

Biển chẳng cạn bao giờ, em yêu dấu
Như đá kia trơ gan với mặt trời
Tình của anh mãi cùng em yêu dấu
Dù dịng đời cứ thế, chẳng ngừng trơi.

Tạm biệt nhé, người em yêu dấu
Chia tay nhau em nhé đừng buồn
Anh sẽ về với người em yêu dấu
Dù phải đi qua ngàn vạn dặm đường.

Old lines : 8 syllables
Unstr - sttess (x4)
=>Tetreter
Even lines: 6 syllables
Unstressed - stressed (x3)
=> Trimeter
Rhyme
Abcb
=> Ballad ( heroic story / love poem)
Figures of speech



Stanza 1 đoạn 1
*Line 1 và 2
Biện pháp tu từ: Simile (ví von)
Luve = ( red rose, a red ( beautiful)).Luve = (hoa hồng đỏ, một màu đỏ
(đẹp))
Newly sprung ( young).Mới mọc (non)
In june (summer).Vào tháng sáu (mùa hè) mùa đẹp nhất
trong thời trẻ, ngắn ngủi
=> Lover : a beautiful, a young summer.Người yêu: một mùa hè tươi trẻ,
xinh đẹp
=> Summer: most beautiful time, fleeting beauty.Mùa hè: thời gian đẹp
nhất, vẻ đẹp phù du
=> Urging the lover.Hối thúc người yêu
*Lines 3 và 4:
+
+

Repetition (O my Luve) => Emphasis (nhấn mạnh) => Subject (chủ
đề): "my Luve"
Simile:

-> Luve = melody , Sweetly played in tune.Luve = giai điệu, được chơi
một cách ngọt ngào theo giai điệu
=>Sight & sound.Thị giác và âm thanh
"In tune"."Trong giai điệu"
=> compatible
Message (thông điệp): The compatibility ( sự tương đồng) between the
speaker & lover.Sự tương thích giữa người nói và người yêu.
Stanza 2: (khổ 2)



*Lines 5 & 6: A straightforward confession of love.(1 lời thú nhận thẳng
thắn về tình yêu)
*Lines 7 & 8 - "I will luve thee still" => Promise(lời hứa)
Hyperbole ( phóng đại)
"Till" a the seas gang dry
=>Impossible image.Hình ảnh khơng thể chê vào đâu được
=>The end of the world. Tận cùng thế giới

Message: The Speaker's promise to love the lady until the end of time.
(Người nói hứa sẽ u q cơ cho đến hết thời gian)=> Promise of
eternal love(lời hứa về tình yêu vĩnh cửu)
Stanza 3: (khổ 3)
*Lines 9 & 10:
Repetition: "Till a' the seas gang dry" => Emphasis =>eternal love.Nhấn
mạnh => tình yêu vĩnh cửu
Speaker's conviction Hyperbole: "rocks melt wi' the sun =>Message.
Promise of eternal love.Thơng điệp.Lời hứa về tình yêu vĩnh cửu
Rocks & seas (unlimited)><< Rose (Limited).Đá & biển (không giới
hạn)> << Hoa hồng (Hạn chế) => Message: Unchanging love against
passage of time. Thơng điệp: Tình u khơng thay đổi theo thời gian.
*Lines 11 & 12:
Repetition ("I will luve thee still) => Repeated promise.Lời hứa lặp đi lặp
lại _Metaphor: "sands o' life".Phép ẩn dụ: "cát giống như cuộc đời"
=>Life = Hourglass.Cuộc sống = Đồng hồ cát
=> Promise of love until death.Lời hứa của tình yêu cho đến chết
Stanza 4:


*Lines 13 & 14:

Repetition: "Fare thee well" (x2) => Longing & regret.Khao khát và hối
tiếc
Emphasis on the fact that the Speaker only loves one person.Nhấn
mạnh vào thực tế là Người nói chỉ yêu một người.
* Lines 15 & 16 :
" I will come again Promise “
Hyperbole: "Tho" it was ten thousand mile."
=> Though distant, he'll return to her.Dù xa cách nhưng anh ấy sẽ quay
về bên cô ấy. => Nothing can separate them.Khơng gì có thể chia cắt họ
Summary: Description of lover.Tóm tắt: Mơ tả về người u
Stanza 1: Stanzas 2 & 3: Love transcends Time(Tình yêu vượt thời gian)
- Stanza 4. Love transcends Space(Tình u vượt khơng gian)
=> Themes: Romantic love.Chủ đề: Tình yêu lãng mạn
Promise of love.Lời hứa tình u
Loyalty. Lịng trung thành

[ When i am one and twenty ]
When I was one-and-twenty
I heard a wise man say,
"Give (crowns) and (pounds)and (guinea)
But not your heart away;
Give pearls away and rubies
But keep your fancy free."


But I was one-and-twenty,
No use to talk to me.

When I was one-and-twenty
I heard him say again.

"The heart out of the bosom( lồng ngực)
Was never given in vain:( vô nghĩa)
'Tis paid with sighs a plenty tiếng thở dài
And sold for endless rue
And I am two-and-twenty.
And oh. tis true. tis true.
Old line 7
Even line 6
Analyze
Rhythm
Odd lines: 7 syllables
=> Unstressed - Stressed (x3) + Unstressed
=> Trimeter + unstressed
Even lines: 6 syllables
=> Unstressed - Stressed (x3)
=> Trimeter

Rhyme: abcbcdad - aefeagag


×