Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

SÁNG KIẾN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI TOÁN LỚP 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.56 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Mục

Nội dung

Trang

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Mục đích của sáng kiến
Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến
Đóng góp của SK để nâng cao chất lượng quản lý, dạy và
học... của ngành giáo dục nói chung, của đơn vị nói riêng
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ MÀ
SÁNG KIẾN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT
Cơ sở lý luận
Cơ sở thực tiễn
Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Khảo sát
Đánh giá
Chương 2: NHỮNG GIẢI PHÁP (BIỆN PHÁP) ĐÃ ĐƯỢC
ÁP DỤNG LẦN ĐẦU HOẶC ÁP DỤNG THỬ TẠI ĐƠN VỊ

2
2
3
4

1
2
3



Giải pháp 1
Giải pháp 2

11
15
19

4

20
23

III

Giải pháp 4
Chương 3: KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN
KHAI CỦA SÁNG KIẾN
PHẦN III: KẾT LUẬN

1

Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến trong SKKN

26

2

Hiệu quả thiết thực của sáng kiến


27

3

Kiến nghị với các cấp quản lý

28

IV

PHẦN 4: PHỤ LỤC

29

I.
1
2
3
II.

1
2
3
3.1
3.2

Giải pháp 3

QUY ƯỚC VIẾT TẮT
1. GV: giáo viên

2. HS: học sinh
3. SKKN: sáng kiến kinh nghiệm
1

4
5
5
6
7
7
7
9

25


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Mục đích của sáng kiến
Ở bậc tiểu học, song song với mơn Tiếng Việt, mơn Tốn có vị trí rất quan
trọng trong việc hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài tốn
có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống. Mơn Tốn ở cấp Tiểu học nhằm
giúp học sinh:
- Có kiến thức ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số, số thập phân;
các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản.
- Hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán.
- Bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt
đúng ( nói và viết ) cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần
gũi trong cuộc sống; kích thích trí tượng tượng; chăm học và hứng thú học tập
tốn; hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có có kế hoạch khoa
học, chủ động, sáng tạo.

Chương trình Tốn 1 là một bộ phận của chương trình mơn Tốn tiểu học
và là nền móng đầu tiên của chương trình Tốn ở tiểu học. Chương trình này kế
thừa và phát triển những thành tựu về dạy học Toán lớp 1; thực hiện những đổi
mới về cấu trúc nội dung để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến thức mới;
quan tâm đúng mức đến đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh hoạt
động học tập tích cực, linh hoạt, sáng tạo theo năng lực của bản thân. Mơn Tốn
2 bước đầu giúp các em làm quen với bài tốn có lời văn giải bằng 1 phép tính.
Dạng tốn này tạo tiền đề giúp các em tiếp tục có kiến thức, kỹ năng cần thiết để
các em học tiếp lên các lớp còn lại của bậc tiểu học và các cấp học trên. Dạy học
giải tốn rất quan trọng trong dạy học tốn. Do đó dạy học giải tốn nhằm các
mục đích chủ yếu:
- Giúp HS luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác đã học,
luyện kỹ năng tính tốn , bước đầu tập dượt vận dụng kiến thức và kỹ năng thực
2


hành vào thực tiễn.
- Giúp HS từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp
và kỹ năng suy luận, khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đốn, tìm
tịi.
- Giúp HS rèn những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động
mới như ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đốn có căn cứ, tính cẩn thận
chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra. Từng bước hình thành và rèn
luyện thói quen và khả năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt, khắc phục cách suy
nghĩ máy móc, rập khn, xây dựng lịng ham thích tìm tịi, sáng tạo theo những
mức độ khác nhau.
Là một giáo viên tiểu học, đã từng giảng dạy lớp 2 tại trường Tiểu học Hiên
Vân, để mở rộng kiến thức, trau dồi chuyên mơn nghiệp vụ và cũng là để tích
lũy thêm vốn kinh nghiệm trong tổ chức dạy mơn Tốn lớp 2, tơi tiếp tục đi sâu
tìm hiểu, nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp rèn kỹ năng giải toán cho học

sinh lớp 2” trong năm học 2019-2020 để xem học sinh mới chuyển giao từ lớp
1 lên lớp 2 tiếp nhận kiến thức mơn Tốn ra sao; khả năng phát triển năng lực tư
duy, suy luận như thế nào. Tôi mong các em sẽ chăm học và có hứng thú học tập
mơn tốn.
2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến
Trong q trình dạy lớp 2, tơi nhận thấy nội dung các bài toán lớp 2 khá
phong phú, gần với thực tiễn xung quanh các em, bài toán thường đặt ra dưới
dạng giải quyết một tình huống có trong thực tiễn.
Qua thời gian thực hiện sáng kiên, tôi thấy sáng kiến có những ưu điểm sau:
- Kích thích sự u thích, ham học mơn tốn,góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục, phát triển toàn diện học sinh lớp mình chủ nhiệm.

3


- Học sinh của lớp tiến bộ rõ rệt, không sợ những dạng tốn có lời văn
như trước nữa.
- Phát huy tối đa khả năng tự học, tự tin của từng học sinh và tập thể học
sinh.
- Phát huy vai trò phối hợp của phụ huynh học sinh, giáo viên trong cơng
tác giáo dục.
- Tạo sự u thích mơn học, hăng say say mê mơn tốn của tập thể học
sinh.
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Số học sinh u thích mơn Tốn tăng (30 em = 88,2%) đi đơi với việc
học sinh yếu trong phần giải tốn giảm . Số học sinh khơng thích học mơn Tốn
giảm và đây cũng là động lực giúp tôi tiếp tục phấn đấu hơn nữa trong sự nghiệp
trồng người của mình. Có được kết quả như vậy cũng nhờ một phần ở tinh thần
học tập tự giác, tích cực của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở của cha mẹ các em.
Bên cạnh đó là các biện pháp giáo dục kịp thời, đúng lúc của giáo viên.

3. Đóng góp của SK để nâng cao chất lượng quản lý, dạy và học... của
ngành giáo dục nói chung, của đơn vị nói riêng, cụ thể ở những mặt nào?
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán cho học
sinh lớp 2” là sáng kiến tôi đã áp dụng tại trường Tiểu học Hiên Vân, huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh năm học 2018 - 2019. Nội dung các biện pháp của sáng kiến
được áp dụng thực tiễn trong nhà trường và mang lại hiệu quả đối với việc rèn kĩ
năng giải tốn có lời văn. Các em đã hình thành cho bản thân thói quen cẩn thận
trong khi làm bài, học tập có nề nếp và kĩ năng trình bày bài tốn có lời văn tốt.
Thơng qua bài làm của học sinh, giáo viên vừa đánh giá được học sinh,
vừa đánh giá được hiệu quả giảng dạy của mình, từ đó giúp giáo viên điều chỉnh
cách dạy của thày và cách học của trò.
4


Giải tốn giúp học sinh có thói quen và khả năng suy nghĩ độc lập, linh
hoạt, sáng tạo.
Tôi đã và đang thực hiện để phát huy những mặt đạt được và rút kinh
nghiệm khắc phục những mặt chưa đạt để nâng cao hơn nữa về chất lượng giảng
dạy.
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ RÈN KĨ NĂNG GIẢI
TOÁN CHO HỌC SINH LỚP 2
1. Cơ sở lý luận.
Mơn Tốn lớp 2 nhằm giúp học sinh:
- Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về: phép
cộng, phép trừ có nhớ trong phạm vi 100; phép nhân, phép chia và bảng nhân,
bảng chia 2,3,4,5; tên gọi và mối quan hệ giữa thành phần và kết quả của từng
phép tính; mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ; các số đến 1000, phép cộng
và phép trừ các số có ba chữ số (khơng nhớ); các phần bằng nhau của đơn vị
dạng 1


2

1
3

1
4

1
5

; các đơn vị đo độ dài dm, m, km, mm, giờ và phút, ngày

và tháng; ki-lơ-gam, lít; nhận biết một số hình học (hình chữ nhật, hình tứ giác,
đường thẳng, đường gấp khúc); tính độ dài đường gấp khúc, tính chu vi hình tam
giác, hình tứ giác; một số dạng bài tốn có lời văn chủ yếu giải bằng một phép
tính cộng, trừ, nhân hoặc chia.
- Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành về: cộng trừ có nhớ trong
phạm vi 100; nhân và chia trong phạm vi các bảng tính; giải một số phương
trình đơn giản dưới dạng bài: Tìm x; tính giá trị biểu thức; đo và ước lượng độ
dài; khối lượng, dung tích; nhận biết hình, tập vẽ và tính chu vi hình tam giác,
hình tứ giác, tính độ dài đường gấp khúc; giải một số dạng bài toán đơn về cộng,
trừ, nhân, chia; bước đầu biết diễn đạt bằng lời; bằng kí hiệu một số nội dung
5


đơn giản của bài học và bài thực hành; tập dượt so sánh, lựa chọn, phân tích,
tổng hợp, trừu tượng hóa, khái qt hóa, phát triển trí tượng tượng trong q
trình áp dụng các kiến thức và kĩ năng Tốn 2 trong học tập và trong đời sống;

tập phát hiện, tìm tịi và tự chiếm lĩnh kiến thức mới theo mức độ của lớp 2,
chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành toán.
2. Cơ sở thực tiễn.
Nội dung kiến thức, kỹ năng toán học của chương trình tốn 2 là kiến thức
đã có đối với giáo viên nhưng là kiến thức chưa có đối với học sinh, nó tồn tại
bên ngồi tư duy học sinh. Học sinh lĩnh hội kiến thức kĩ năng nhờ tri giác
(nhìn) và tư duy (suy nghĩ – nhớ). Ngoài ra các em lĩnh hội kiến thức không chỉ
nhờ tri giác và tư duy mà cịn có sự tham gia phối hợp của các hoạt động như
cầm, nắm, tách, gộp, phân tích, tổng hợp, viết, nói. Do đó giáo viên phải biết sử
dụng linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học để hướng dẫn học sinh tự
tìm tịi, phát hiện, tự chiếm lĩnh kiến thức cho mình. Để giải được một bài toán,
học sinh cần phải thực hiện các thao tác phân tích các dữ kiện của bài tốn và
làm sao dễ dàng nhận thấy mối quan hệ giữa các đại lượng. Đó là cách tạo ra
một hình ảnh cụ thể (sơ đồ đoạn thẳng) giúp ta suy nghĩ, tìm tòi cách giải. Việc
sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải tốn có tác dụng rất lớn, nhìn vào sơ đồ học
sinh sẽ xác định được dạng toán, định ra được cách giải. Nếu phương pháp này
được dùng phổ biến giúp các em học sinh nắm chắc bản chất của mỗi dạng tốn,
nhận dạng nhanh và phát huy được tính chủ động sáng tạo. Vì lẽ đó mà tơi chọn
đề tài này mong góp phần nâng cao kĩ năng giải toán cho học sinh lớp 2.
Thực tế, trong dạy học giải tốn ở nhiều năm tơi nhận thấy các em học
sinh khi giải bài tốn thường khơng nhanh bằng các dạng bài tập khác. Các em
lúng túng khi phân tích đề bài, đặt câu trả lời, xác định phép tính, danh số của
bài. Đặc biệt là xác định dạng toán khó khăn hơn việc giúp các em thực hiện
phép tính. Để dạy học giải tốn thì cần có các u cầu cơ bản, các yêu cầu này
được trải ra ở nhiều lớp, nên việc nắm chắc yêu cầu ở từng lớp là rất quan trọng.
Đặc biệt phải nắm vững trình độ chuẩn của dạy giải toán ở từng lớp. Như vậy
6


địi hỏi người giáo viên phải có hiểu biết về trình độ chuẩn khi giải tốn cho học

sinh; nhận biết các dạng tốn trong chương trình; phương pháp và cách thức tổ
chức dạy học giải toán cho học sinh; biết khai thác, sáng tác một số bài toán, đặc
biệt là rèn óc quan sát và khả năng tư duy thơng qua giải toán.
3. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
3.1. Khảo sát
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học, tôi
nhận thấy trong thực tế cịn nhiều học sinhhọc tốn cịn trầm, chưa mạnh dạn
hăng hái phát biểu, lười đọc đề tốn, khơng chịu tư duy, suy nghĩ và phân tích
bài g lớp, tơi nhận thấy hạn chế này. Vì vậy, để khắc phục nhược điểm và phát
huy ưu điểm của học sinh trong thực tế, tơi đã lựa chọn cách tìm tịi, nghiên cứu
tài liệu về mơn Tốn để giúp các em có thể giải quyết được một số lượng lớn bài
tập về giải tốn có lời văn có trong chương trình.
* Kết quả khảo sát:
Năm học 2018-2019 tôi được phân công dạy lớp 2B. Sĩ số 34 học sinh
trong đó: 19 nữ, 15 nam. Để thực hiện tốt kế hoạch đề ra, ngay từ lúc nhận lớp,
bước sang tuần thứ hai tôi bắt tay ngay vào việc kiểm tra khảo sát mơn Tốn.



HS giải tốn
đúng, trình bày
khoa học

HS viết câu trả
lời chưa đúng

HS làm sai phép
tính

HS viết sai đáp

số, danh số

số

Số lượng

%

Số
lượng

%

Số
lượng

%

Số
lượng

%

34

19

55,9

9


26,5

7

20,59

6

17,6
4

3.2. Đánh giá
a) Thuận lợi
- Về phía giáo viên:
7


+ Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, sự đồng thuận, vào
cuộc của cha mẹ học sinh.
+ Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sâu sắc qua các buổi tập
huấn các chuyên đề từ cấp tổ, cấp trường, thăm lớp dự giờ, xây dựng các bước
dạy, cách tổ chức dạy học theo phương pháp đổi mới.
+ Giáo viên dễ dàng hơn khi tổ chức dạy học trên lớp, vận dụng phương
pháp dạy học cho phù hợp đối tượng học sinh, tạo điều kiện cho giáo viên
nghiên cứu và thực hiện đề tài.
- Về phía học sinh:
Các em đều đã quen thân, gắn bó và đồn kết.
+ Đa số học sinh đọc thơng viết thạo, biết tích cực tham gia hoạt động học,
biết thực hành và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống hàng ngày.

b) Khó khăn:
Đối với giáo viên :
+ Giáo viên chưa linh hoạt và làm chủ thời gian trong việc trợ giúp từng cá
nhân để em nào cũng cảm thấy mình được thầy cơ quan tâm. Chính vì vậy mà
nhịp độ học tập có độ chênh lệch nhau.
Đối với học sinh:
+ Một số em chưa mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài và hỏi thầy cô
những nội dung, kiến thức chưa hiểu trong tiết học.
+ Học sinh mới chuyển giao từ lớp 1 lên lớp 2, đọc thơng viết thạo nhưng
cịn hạn chế về tốc độ đọc, viết và cách trình bày vở. Hạn chế về việc phân tích
đề tốn và khả năng tư duy. Giáo viên còn cần phải hướng dẫn cụ thể và chi tiết
trong những tuần đầu của tháng 9 về kỹ năng đọc đề, phân tích đề, cách trình
bày vở viết cho học sinh.
8


+ Việc tóm tắt, tìm hiểu đề đang cịn nhiều khó khăn đối với một số học
sinh trung bình và yếu của lớp 2. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa
cao, nên các em đọc được đề tốn và hiểu đề cịn thụ động, chậm chạp…
+ Thực tế trong một tiết dạy 35 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều
nên phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả
lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.
Đối với phụ huynh:
+ Một số phụ huynh học sinh chưa thực sự vào cuộc và chưa nhiệt tình
tham gia hợp tác cùng giáo viên về việc học tập của con em.

Chương 2: NHỮNG GIẢI PHÁP (BIỆN PHÁP) ĐÃ ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN
ĐẦU HOẶC ÁP DỤNG THỬ TẠI ĐƠN VỊ
Từ thực trạng trên, tôi mong muốn giúp các em có hứng thú và say mê
học tốn hơn. Tơi tiến hành lựa chọn nhiều phương pháp dạy học phù hợp các

dạng tốn có lời văn để học sinh giải quyết được một số lượng bài tập trên lớp
và hoàn thành mục tiêu bài học. Ở lớp 2, các em đã được học giải các bài tốn
điển hình bằng phương pháp sơ đồ đoạn thẳng như “ Bài tốn về nhiều hơn”,
“Bài tốn về ít hơn”, “Tìm một trong các phần bằng nhau của một số”. Vì vậy,
trong q trình dạy giải tốn lớp 2, người giáo viên cần sử dụng triệt để phương
pháp này để giúp các em học sinh nắm chắc bản chất của mỗi dạng tốn, nhận
dạng nhanh và phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh. Để giúp cho
học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải tốn thì chúng ta khơng chỉ
hướng dẫn học sinh trong giờ tốn mà một yếu tố khơng kém phần quan trọng
đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng việt.
* Chúng ta đã biết học sinh lớp 2, đặc biệt là một số em học lực trung
bình – yếu cịn thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy, để các em mạnh
dạn tự tin khi phát biểu, trả lời người giáo viên cần phải: luôn luôn gần gũi,
9


khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trị chơi học tập, được trao đổi,
luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng việt giúp các em có vốn từ lưu thơng; trong
các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt
rè, tự ti. Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho
học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng
nghe, hiểu được những yêu cầu mà các bài tập nêu ra.
Tóm lại: Để giúp học sinh giải tốn có lời văn thành thạo, tơi ln ln
chú ý rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các học sinh trong các giờ học
Tiếng Việt, bởi vì học sinh đọc thơng, viết thạo là yếu tố “địn bẩy” giúp học
sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải tốn một cách thành thạo.
Qua thực tế giảng dạy tơi thấy khả năng suy luận của học sinh còn kém.
Học sinh chưa có kỹ năng phân tích - tổng hợp trước một đề toán. Khả năng
chuyển bài toán hợp về các bài tốn đơn cịn yếu. Khi giải tốn các em chưa tập
hợp được kiến thức, nhiều em lúng túng kể cả một số em có lực học khá.Điều

đáng chú ý ở đây là cách đặt lời giải cho phép tính, rất nhiều em chưa biết cách
đặt lời giải hoặc lời giải đặt chưa hợp lý. Do các em không được uốn nắn, luyện
tập nhiều trong quá trình học.
Như vậy nguyên nhân cơ bản dẫn đến các em không làm được bài làm là:
Năng lực tư duy của các em phát triển khơng đồng đều, khả năng suy luận cịn
rất kém. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các em nêu đề tốn, tìm hiểu đề và gợi
ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau chuốt lời giải của các em chưa
được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em, ở những tiết tốn có
bài tốn giải tơi thường dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp
trình bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.Tôi tiến hành
các giải pháp đối với từng dạng bài cụ thể sau:
Giải pháp 1: Dạng toán về nhiều hơn
Để có một giờ Tốn đạt kết quả tốt, tạo cho học sinh hứng thú say mê học
Tốn thì người giáo viên phải làm tốt các việc sau:
10


- Chuẩn bị bài: Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài ở nhà, chọn phương
pháp phù hợp cho mỗi bài toán, nghiên cứu và làm đồ dùng học tập phù hợp để
giúp học sinh tự tìm tịi, khám phá kiến thức và khắc sâu được kiến thức đó.
- Phải dựa vào từng bài mà chọn hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp.
Giáo viên cũng cần phải biết làm thế nào cho mỗi tiết dạy diễn ra đều nhẹ
nhàng, thoải mái để học sinh nắm bài một cách chắc chắn, tạo cho từng giờ học
thực sự có chất lượng nhất.
Khi dạy dạng toán “Bài toán về nhiều hơn” tơi tiến hành như sau:
Ví dụ 1: Đoạn thẳng AB dài 20cm, đoạn thẳng CD dài hơn đoạn thẳng
AB 2cm. Hỏi đoạn thẳng CD dài bao nhiêu xăng-ti-mét?
Vì học sinh thường hoạt động cá nhân để tìm tịi, khám phá kiến thức
mới nên tôi tiến hành tổ chức dạy học như sau:
+ HS hoạt động nhóm: Tự tóm tắt bài tốn, phân tích các dữ kiện.

+ Suy nghĩ vẽ sơ đồ đoạn thẳng biểu thị các dữ kiện đã cho biết và cái cần
phải tìm.
+ Đại diện một số nhóm chia sẻ trước lớp kết quả thực hiện.
+ Nhóm khác nhận xét – bổ sung (nếu có)
Trường hợp nếu học sinh trong nhóm lúng túng chưa biết tóm tắt bài tốn
bằng sơ đồ đoạn thẳng tơi sẽ sử dụng phương pháp hỏi – đáp trong nhóm:
- Hỏi: Bài tốn cho biết gì? (Đoạn thẳng AB: 20cm, Đoạn thẳng CD dài
hơn đoạn thẳng AB: 2cm)
- Hỏi: Bài tốn u cầu tìm gì? (Độ dài đoạn thẳng CD?)
Sau đó tơi hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng: Nếu ta biểu
thị độ dài đoạn thẳng AB bởi một đoạn thẳng thì đoạn thẳng CD là một đoạn
11


thẳng dài bằng đoạn thẳng AB và thêm một đoạn nhỏ nữa và phần dài hơn chính
là phần cho biết đoạn thẳng CD dài hơn đoạn thẳng AB 2cm.
20cm
B

A

2cm

C

D
? cm

Bằng quan sát cụ thể trên sơ đồ học sinh sẽ tìm ngay được đoạn thẳng CD
dài 22cm.

- Hỏi: Muốn tìm độ dài đoạn thẳng CD ta phải làm gì? (Lấy độ dài đoạn
thẳng AB cộng với độ dài dài hơn của đoạn thẳng CD so với đoạn thẳng AB, tức
là lấy 20 + 2 = 22(cm) ).
- Hỏi: Nêu câu trả lời phù hợp với phép tính em vừa tìm được? (Đoạn
thẳng CD dài là (hoặc Đoạn thẳng CD dài số xăng-ti-mét là).
- Hỏi: Nêu cách trình bày bài giải? Thực hiện gồm mấy bước, đó là những
bước nào?
Bài giải
Đoạn thẳng CD dài số cm là:
20 + 2 = 22 (cm)
Đáp số : 22 cm.
Khi học sinh đã biết cách tìm độ dài đoạn thẳng CD, tơi lại tiếp tục giúp
các em nhận biết và ghi nhớ cách giải dạng toán về nhiều hơn:
- Hỏi: Nếu ta coi độ dài đoạn thẳng AB là số bé thì độ dài đoạn thẳng CD
là số nào? (Độ dài đoạn thẳng CD là số lớn.)

12


- GV: Phần đoạn thẳng CD dài hơn đoạn thẳng AB 2cm, ta gọi đó là phần
“nhiều hơn”
- Hỏi: Số nào biểu thị phần nhiều hơn? (2cm – phần nhiều hơn)
Từ đây tơi cho HS cùng nhau thảo luận nhóm để trả lời câu hỏi sau:
- Hỏi: Vậy tìm số lớn bằng cách nào khi biết số bé và phần “nhiều hơn”
của số lớn so với số bé? (Số lớn = Số bé + phần “nhiều hơn”)
GV chốt: Để giải dạng tốn “Bài tốn về nhiều hơn” chính là đi tìm số
lớn. Do đó các em cần phải xác định được đâu là số lớn, số bé, phần nhiều hơn
giữa số lớn so với số bé. Vậy khi biết số bé, biết phần “nhiều hơn” của số lớn so
với số bé. Tìm số lớn bằng cách lấy số bé cộng với phần “nhiều hơn”. Khi trình
bày bài giải ta cần thực hiện 3 bước: Bước 1: Viết câu trả lời; Bước 2: Viết phép

tính; Bước 3: Viết đáp số. Lưu ý trình bày các bước sao cho cân đối, khoa học.
Từ bài toán dạng “bài toán về nhiều hơn” cơ bản này, tôi rèn kỹ năng giải
bằng cách đưa ra bài toán khác tương tự nhưng thay đổi thuật ngữ song bản chất
vẫn là dạng bài toán về nhiều hơn cho học sinh tư duy và khắc sâu kiến thức.
Ví dụ 2: Đoạn thẳng AB dài 20cm, đoạn thẳng ABngắn hơn đoạn thẳng
CD 2cm. Hỏi đoạn thẳng CD dài bao nhiêu xăng-ti-mét?
Đối với bài tập này vẽ sơ đồ đoạn thẳng giống như ví dụ 1, học sinh xác
định số bé, số lớn, phần “nhiều hơn” của số lớn so với số bé. Tuy nhiên, ở đây
GV phải lưu ý cho HS cụm từ “ngắn hơn”. Khi HS hoạt động nhóm GV gợi ý
cho HS cách hỏi đáp trong nhóm để tìm ra cách tóm tắt sơ đồ bằng đoạn thẳng:
nhóm trưởng hỏi – thành viên trong nhóm trả lời – cả nhóm nhận xét.
VD: - Hỏi: Bài tốn cho biết gì?
- Hỏi: Đoạn thẳng AB so với đoạn thẳng CD như thế nào? (Đoạn thẳng
AB ngắn hơn đoạn thẳng CD)

13


- Hỏi: Ngược lại đoạn thẳng CD so với đoạn thẳng AB như thế nào?
(Đoạn thẳng CD dài hơn đoạn thẳng AB)
- Hỏi: Xác định số lớn? số bé? phần “nhiều hơn”? (Độ dài đoạn thẳng CD
là số lớn, độ dài đoạn thẳng AB là số bé, phần “nhiều hơn” là 2cm.)
- Hỏi: Bài tốn u cầu tìm gì? (Độ dài đoạn thẳng CD?)
- Hỏi: Muốn tìm độ dài đoạn thẳng CD ( tức là đi tìm số lớn) ta làm thế
nào? (Số lớn = số bé + phần “nhiều hơn” tức là lấy 20 + 2 = 22(cm).)
- Hỏi: Đây là dạng tốn gì? (Dạng tốn về nhiều hơn.)
GV giúp HS nhận thấy khơng phải trong mỗi bài tốn cứ xuất hiện từ:
nhiều hơn, dài hơn, cao hơn,… là bài tốn đó thuộc dạng tốn về nhiều hơn mà
điều quan trọng là ta phải xác định được đâu là số lớn, số bé, phần “nhiều hơn”
của số lớn so với số bé hay nói cách khác là xác định được cái cần tìm so với cái

đã biết mà nhiều hơn (lớn hơn) thì đó là dạng bài tốn về nhiều hơn. Để giải bài
toán về nhiều hơn ta thực hiện bằng một phép tính cộng.
Sai lầm học sinh có thể mắc phải:
- Xác định sai dạng toán.
- Trả lời chưa đầy đủ (hoặc câu trả lời còn dài dòng như câu hỏi)
- Xác định sai danh số (cm – đoạn thẳng).
Cách khắc phục:
- Giáo viên cần nhấn mạnh danh số thường đứng sau tiếng “số” trong câu
trả lời.
- Giáo viên cho học sinh luyện tập nhiều hơn dạng bài này trong nhóm,
mỗi khi đọc đề bài cần biết tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, xác định số lớn, số

14


bé, phần “nhiều hơn”, ghi nhớ cơng thức tính: Số lớn = số bé + phần “nhiều
hơn” hay: Cái cần tìm = cái đã biết + phần nhiều hơn
Đối với học sinh lớp 2 các em còn nhỏ, để các em nắm chắc được cách
tóm tắt và giải bài tốn có lời văn địi hỏi người giáo viên phải tỉ mỉ, chu đáo từ
trực quan sinh động đến tư duy cụ thể, sáng tạo tìm ra cách giải quyết nhanh
nhất, chính xác nhất.
Khi các em nắm vững được loại tốn này, giáo viên ra hệ thống bài tập để
HS vận dụng làm bài cá nhân.
Giải pháp 2 : Dạng bài tốn về ít hơn.
Ví dụ 1: Mẹ mua về vừa gạo nếp vừa gạo tẻ. Trong đó có 16kg gạo tẻ cịn
gạo nếp ít hơn gạo tẻ là 6kg. Hỏi mẹ mua về bao nhiêu ki-lô-gam gạo nếp?
Tương tự như cách hướng dẫn học sinh xác định dạng toán về nhiều hơn
thì đối với dạng tốn về ít hơn học sinh cũng cần xác định được đâu là số lớn, số
bé, phần “ít hơn” của số bé so với số lớn và cái cần tìm của dạng tốn này là đi
tìm số bé.

Bước 1: Đọc kỹ bài tốn và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
+ Nếu ta biểu thị số ki-lơ-gam gạo tẻ bởi một đoạn thẳng thì đoạn thẳng
biểu thị số ki-lô-gam gạo nếp sẽ ngắn hơn và phần dài hơn ở đoạn thẳng biểu thị
số kg gạo tẻ chính là phần cho biết số kg gạo tẻ ít hơn gạo nếp 6kg.
16kg
Gạo tẻ:
6kg

Gạo nếp:
? kg

15


Bước 2:
+ Nhìn trên sơ đồ để tìm quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết.
+ Tìm số gạo nếp (hiểu ngầm là tìm số bé).
Nếu trong trường hợp HS hoạt động nhóm mà chưa tìm được cách tóm
tắt và giải bài tốn bằng sơ đồ đoạn thẳng tôi tiếp tục giúp HS nhận biết được
cách giải của dạng tốn về ít hơn cụ thể bằng phương pháp, trực quan, hỏi – đáp:
- Hỏi: Bài toán cho biết gì? (Gạo tẻ: 16kg, Gạo nếp ít hơn gạo tẻ: 6kg)
- Hỏi: Bài tốn u cầu tìm gì? (Số ki-lơ-gam gạo nếp)
- Hỏi: Nhìn vào sơ đồ tóm tắt, nêu cách tìm số gạo nếp? (Số gạo nếp = số
gạo tẻ - số gạo nếp ít hơn số gạo tẻ tức là 16 – 6 = 10 (kg))
- Hỏi: Nêu câu trả lời phù hợp với phép tính em vừa tìm được? (Mẹ mua
về số ki-lơ-gam gạo nếp là ( hoặc Mẹ mua về số gạo nếp là).)
- Hỏi: Nếu coi số kg gạo tẻ là số lớn thì số kg gạo nếp là số nào? (Số kg
gạo nếp là số bé.)
- GV: Phần gạo nếp ít hơn gạo tẻ là 6kg gọi là phần “ít hơn”
- Hỏi: Vậy 6kg chỉ gì? (6kg – phần ít hơn)

Đến đây ta sẽ cho HS cùng trao đổi trong nhóm để tìm câu trả lời cho câu
hỏi sau:
- Hỏi: Vậy tìm số bé bằng cách nào khi biết số lớn và phần “ít hơn” của số
bé so với số lớn? (Số bé = Số lớn - phần “ít hơn”)
GV chốt trong nhóm: GV giúp HS nhận biết dạng tốn “bài tốn về ít
hơn” chính là đi tìm số bé. Vậy khi biết số lớn, biết phần “ít hơn” của số bé so
với số lớn. Tìm số bé bằng cách lấy số lớn trừ đi phần “ít hơn”

16


Bước 3:
Bài giải:
Mẹ mua số ki-lô-gam gạo nếp là:
16 – 6 = 10 (kg)
Đáp số : 10kg gạo nếp.
Sai lầm học sinh có thể mắc phải:
Học sinh yếu kém rất dễ mắc sai lầm trong cách hiểu và xác định sai dạng
tốn, cho rằng muốn tìm số ki-lơ-gam gạo nếp phải lấy số ki-lô-gam gạo tẻ
cộng với số ki-lô-gam gạo nếp ít hơn số gạo tẻ.
Cách khắc phục:
- Phải tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
- Dựa vào sơ đồ đoạn thẳng hướng dẫn học sinh giải khắc sâu ghi nhớ:
+ Số bé = Số lớn – phần “ít hơn” của số bé so với số lớn.
Hoặc:

+ Cái cần tìm = Cái đã biết – phần ít hơn

Sau đó ở buổi 2 tôi đưa ra các dạng bài tương tự để học sinh vận dụng
làm nhằm nâng cao kỹ năng tính tốn, tư duy của các em.

Ví dụ 2: Mẹ mua về vừa gạo nếp vừa gạo tẻ. Trong đó có 16kg gạo tẻ,
gạo tẻ nhiều hơn gạo nếp là 6kg. Hỏi mẹ mua về bao nhiêu ki-lô-gam gạo nếp?
Giáo viên hướng dẫn giải:
Trong bài tập này học sinh sẽ nhận thấy khơng phải trong mỗi bài tốn
cứ xuất hiện từ: ít hơn, ngắn hơn, thấp hơn,… là bài tốn đó thuộc dạng tốn về
ít hơn mà đơi khi trong bài toán xuất hiện các từ như: nhiều hơn, dài hơn, cao
hơn,… lại thuộc dạng tốn về ít hơn. Điều quan trọng là ta phải xác định được
17


đâu là số lớn, số bé, phần “ít hơn” của số bé so với số lớn và cái cần tìm là số bé
thì đó là dạng tốn về ít hơn. Đối với bài tập này vẽ sơ đồ đoạn thẳng giống như
ví dụ 1, học sinh xác định số bé, số lớn, phần “ít hơn” của số bé so với số lớn thì
sẽ tìm được số bé là cái cần tìm.
Sai lầm học sinh có thể mắc phải:
- Xác định sai dạng tốn bởi cịn nhầm lẫn giữa các thuật ngữ: nhiều hơn,
ít hơn, dài hơn, ngắn hơn,….
Cách khắc phục:
- Giáo viên cho học sinh xác định phần ít hơn bằng cách lật ngược cụm
từ: gạo tẻ nhiều hơn gạo nếp 6kg hiểu ngược lại là gạo nếp ít hơn gạo tẻ 6kg. Vì
sao phải lật ngược lại như vậy bởi ta đang đi tìm số bé (số gạo nếp) nên phải tìm
phần ít hơn của số bé ( số gạo nếp) so với số lớn (số gạo tẻ).
Như vậy đối với học sinh lớp 2 để giải được bài toán này các em phải
nhận dạng bài toán, cần xác định được đâu là số lớn, số bé để vận dụng kiến
thức đã học mà giải. Song những bài toán đơi khi khơng đơn giản như vậy, có
những bài tốn có cách diễn đạt khác. Vì vậy khi dạy loại tốn “Bài tốn về
nhiều hơn”, và “Bài tốn về ít hơn” người giáo viên cần chú ý thay đổi thuật
ngữ.
Ví dụ: Lan gấp được 25 bông hoa, Mai gấp được ít hơn Lan 2 bông hoa.
Hỏi Mai gấp được bao nhiêu bông hoa?

Đổi là: Lan gấp được 25 bông hoa – như vậy Lan gấp hơn Mai 2 bông
hoa. Hỏi Mai gấp được bao nhiêu bông hoa?
Mặc dù từ “hơn” ở bài toán này tưởng chừng như là bài toán thuộc dạng
toán về nhiều hơn nhưng thực chất của bài tốn này lại thuộc dạng tốn về ít hơn
vì cái cần tìm là số bé.
Giải pháp 3: Bài tốn về tìm một số hạng trong một tổng.
18


Ví dụ: Lớp học có 34 học sinh, trong đó có 21 học sinh nam. Hỏi lớp học
có bao nhiêu học sinh nữ?
Đối với dạng tốn tìm một số hạng trong một tổng tơi ra bài tốn và cho
HS tự nghiên cứu, tóm tắt bài tốn bằng sơ đồ đoạn thẳng, có thể giúp đỡ các em
bằng cách gợi mở bởi các câu hỏi:
- Hỏi: Tổng số HS nam và nữ là bao nhiêu? Hãy biểu thị bởi 1 đoạn
thẳng.
- Hỏi: Số HS nam là bao nhiêu? Vì đoạn thẳng biểu thị cả HS nam và nữ
nên số HS nam sẽ là 1 phần trong đoạn thẳng đó.
21 học sinh nam

? học sinh nữ

34 học sinh

Nếu HS tự biết tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng GV tiếp tục nêu câu hỏi để
HS tìm ra cách giải bài tốn:
- Hỏi: Biết số HS nam và nữ là 34, trong đó HS nam là 21. Vậy muốn tìm
số HS nữ ta làm thế nào?
Giải:
Số học sinh nữ của lớp học đó là:

34 – 21 = 13 ( học sinh )
Đáp số: 13 học sinh nữ
GV giúp HS nhận biết dạng toán “tìm một số hạng trong một tổng”: Coi
34 học sinh là một tổng thì 21 học sinh nam là một số hạng đã biết cịn số học
sinh nữ cần tìm là số một số hạng chưa biết. Vậy muốn tìm số học sinh nữ là số
hạng chưa biết ta lấy tổng trừ đi số hạng đã biết tức là lấy 34 - 21.

19


Từ đó giáo viên có thể rút ra ghi nhớ: Muốn tìm một số hạng trong một
tổng ta lấy tổng trừ đi số hạng kia.
Sai lầm học sinh có thể mắc phải:
- Viết câu trả lời đúng nhưng viết phép tính sai như là: 34 + 21 = 55 (học
sinh)
Cách khắc phục:
- Lưu ý với các em rằng số HS của lớp là 34 tức là trong đó có cả HS
nam và HS nữ. Vậy nên 21 học sinh nam là con số nằm trong 34 học sinh do đó
mà không thể lấy số HS cả nam và nữ là 34 cộng với số HS nam là 21 để tìm số
HS nữ mà phải lấy số HS cả nam và nữ là 34 trừ đi số HS nam là 21. GV cần
cho học sinh thử lại ngay sau khi tìm ra kết quả bằng cách lấy số HS nam cộng
với số HS nữ vừa tìm được ( 21 + 13 = 34 ).
Giải pháp 4: Bài toán đơn về phép nhân.
Ví dụ 1: Mỗi can đựng 2l dầu. Hỏi 6 can như thế đựng được bao nhiêu lít
dầu?
Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
+ 6 can dầu được biểu thị bởi một đoạn thẳng chia thành 6 phần bằng
nhau, mỗi phần là một can, mỗi can là 2l dầu. Tìm số lít dầu của 6 can.
2l


? l dầu

+ Nhìn sơ đồ để tìm mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết.
+ Tìm phần tương ứng với 2l dầu.
+ Tìm số lít dầu của 6 can.

20


Giáo viên hướng dẫn giải:
- Hỏi: Bài toán cho biết gì? (Một can: 2l dầu, 6 can : … lít dầu?)
- Hỏi: Bài tốn hỏi gì?
- Hỏi: Nhìn vào sơ đồ tóm tắt, nêu cách tìm số lít dầu của 6 can? (Số lít
dầu của 6 can bằng số dầu của một can nhân với số can tức là 2 x 6 = 12 (l)
- Hỏi: Nêu câu trả lời phù hợp với phép tính em vừa tìm được? (Số lít dầu
của 6 can là (hoặc 6 can có số lít dầu là)
GV giúp HS nhận biết dạng tốn “tìm các phần bằng nhau”: Coi 6 can là 6
phần bằng nhau, thì một phần là một can. Biết giá trị của 1 phần là 2l. Vậy muốn
tìm 6 phần ta lấy giá trị của 1 phần nhân với 6 phần tức là 2 x 6.
Từ đó giáo viên có thể rút ra ghi nhớ: Muốn tìm các phần bằng nhau của
một số ta lấy giá trị của một phần nhân với số phần.
Sai lầm học sinh có thể mắc phải:
- Tìm được số lít dầu 6 can nhưng viết phép tính chưa chính xác như là:
6 x 2 = 12 (l).
Cách khắc phục:
- Lưu ý với các em rằng số lít dầu được đổ đều vào 6 can, mỗi can là 2l.
Vậy nên 2l được lấy 6 lần để đổ đều vào 6 can chứ khơng phải số dầu đó đổ vào
2 can mỗi can 6l. GV có thể cho các em thực hiện phép tính cộng các số hạng
bằng nhau rồi chuyển thành phép nhân để phân tích cho các em thấy rõ và hiểu
sâu sắc hơn:

2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 = 2 x 6 = 12

21


Ví dụ 2: Có một số lượng dầu, người ta đem chia vào các can. Nếu đựng
vào mỗi can 2l thì được 6 can và cịn thừa 1l. Hỏi số lượng dầu đem chia là bao
nhiêu lít?
Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
2l

1l

? l dầu

+ 6 can dầu được biểu thị bởi một đoạn thẳng chia thành 6 phần bằng
nhau, mỗi phần là một can, mỗi can là 2l dầu. Nhưng vì số lượng dầu đó chia
đều vào 6 can thì thừa ra 1l nên ta kéo dài đoạn thẳng ra một đoạn ngắn tương
ứng với 1l dầu. Tìm số lít dầu đem chia.
+ Vì số lượng dầu đem chia đựng đủ vào 6 can và thừa ra 1l nên để tìm số
lượng dầu đem chia thì trước tiên ta phải tìm số lít dầu của 6 can, sau đó lấy số
lít dầu của 6 can cộng với 1l dầu thừa ra.
Như vậy bài toán 2 là bài toán nâng cao hơn so với bài tốn 1. Đầu tiên
HS cũng áp dụng cách tìm các phần bằng nhau, sau đó lấy giá trị các phần bằng
nhau đó cộng giá trị của phần thừa ra.
Để giúp HS nắm chắc dạng bài tập này GV yêu cầu các em tự đặt đề toán
để giải. Lưu ý học sinh là giá trị của phần thừa ra bao giờ cũng nhỏ hơn giá trị
của một phần.
Ví dụ 3: Có một số gạo, nếu đem số gạo đó đựng vào mỗi túi 4kg thì
được tất cả 8 túi và thừa ra 3kg. Hỏi số gạo đó nếu đem đựng vào mỗi túi 5kg thì

phải dùng bao nhiêu túi thì đựng được hết số gạo đó?
Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
4kg

3kg
? kg22
gạo


+ 8 túi gạo được biểu thị bởi một đoạn thẳng chia thành 8 phần bằng
nhau, mỗi phần là một túi, mỗi túi là 4kg gạo. Nhưng vì số lượng gạo đó chia
đều vào 8 túi thì thừa ra 3kg gạo nên ta kéo dài đoạn thẳng ra một đoạn ngắn
tương ứng với 3kg gạo. Sơ đồ đoạn thẳng này mới chỉ giúp HS đi tìm số gạo đó
là bao nhiêu kg. Khi tìm được rồi thì mục đích cuối cùng là tìm số túi mà mỗi túi
đựng 5kg gạo.
Như vậy bài toán 3 là bài toán nâng cao hơn so với bài tốn 2 nhằm mục
đích phát huy tư duy đối với các em học sinh khá giỏi. Đầu tiên HS cũng áp
dụng cách tìm các phần bằng nhau, sau đó lấy giá trị các phần bằng nhau đó
cộng giá trị của phần thừa ra để tìm số kg gạo. (4 x 8 + 3 = 35(kg). Sau đó GV
giúp HS nhận thấy để tìm số túi, mỗi túi đựng 5kg gạo thì ta phải lấy số ki-lơgam gạo chia cho số gạo của 1 túi tức là 35 : 5 = 7(túi) (Đây là dạng tốn tìm:
Số phần bằng nhau = Giá trị của số phần : giá trị của một phần).
Thơng qua một số ví dụ trên, tôi đã cùng trao đổi với đồng nghiệp để tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện hơn sáng kiến kinh nghiệm này. Tơi nhận thấy rằng
với cách rèn này HS có ưu điểm là được trao đổi với nhau một cách chủ động và
thoải mái nói lên ý kiến của mình, HS tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức và sau
đó biết tự đánh giá, nhận biết năng lực học tập của bản thân. Việc áp dụng sáng
kiến này giúp HS nắm chắc được cách giải bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng hơn.

Chương 3: KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI CỦA SÁNG
KIẾN

- Căn cứ vào đánh giá trường xuyên về kết quả học tập:
+ Khả năng nhận diện nhanh các dạng toán.
+ Kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực hành.
23


+ Kỹ năng phân tích đề bài và tóm tắt bài tốn bằng sơ đồ đoạn thẳng.
+ Kĩ năng trình bày; tốc độ và hiệu quả bài làm.
+ Sự yêu thích và say mê học tập mơn Tốn.
- Căn cứ vào điểm kiểm tra định kì.
Qua thực tế giảng dạy ở các tiết học toán ở khối lớp 2, cụ thể là học sinh
lớp 2B – trường Tiểu học Hiên Vân, huyện Tiên Du, tôi nhận thấy:
Ở những tiết học đầu tiên học sinh chưa quen, chưa nắm được phương
pháp tóm tắt bằng sơ đồ. Một số học sinh vẫn cịn ngại khi tóm tắt bằng sơ đồ,
đặc biệt là đối với các em học sinh yếu kém. Song các em thích được tổ chức
chia sẻ trong nhóm và trước lớp thường xun trong việc tìm tịi, khám phá giải
tốn bằng cách tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. Nhận thấy được ưu điểm đó, tơi
đã chọn những bài tập phù hợp với mức phát triển kỹ năng của các em và tổ
chức tiết học sao cho mọi học sinh đều được tham gia một cách chủ động, tự lực
để đạt được kết quả cao nhất, từ đó gây hứng thú cho các em. Những em tiến bộ
tôi luôn dành cho các em những lời khen thích đáng, kịp thời và động viên các
em. Số học sinh yêu thích, say mê học tập mơn Tốn lên 29em = 85,3 %; Trao đổi
với đồng nghiệp trong tổ được các đồng chí ủng hộ và vận dụng có hiệu quả.
Năm học trước , có những em khi giải tốn cịn đặt câu lời giải như: “Có
tất cả bao nhiêu là:” hoặc “Hỏi số gà cịn lại là:”… thì đến cuối năm học
những lỗi đó đến nay khơng cịn nữa, học sinh lớp tôi không những biết cách đặt
câu lời giải hay, viết phép tính đúng mà cịn biết cách trình bày bài giải đúng,
đẹp.
Năm học 2018-2019, tôi được phân công trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy
lớp2B. Tổng số học sinh của lớp là 34 em. Có 19 em nữ. Các em phân bố rải rác

ở các thôn. Ngay từ đầu năm học mới, sau khi nhận lớp, tôi đã thử nghiệm ngay
những ý tưởng của mình. Những kết quả mà các em đạt được sau những lần thi
do nhà trường, Phòng GD, Sở GD ra đề đã cho thấy công sức tơi bỏ ra đã có kết

24


quả nhất định. Năm học 2018-2019 lớp 2B do tôi trực tiếp chủ nhiệm và giảng
dạy có kết quả như sau:
Thang điểm
34 học
sinh
Số
Học Hs
kỳ I Tỉ
lệ
Số
Học
hs
kỳ
Tỉ
II
lệ

Dưới 5

5

6


7

8

9

10

2

2

4

5

7

8

6

5,9%

5,9%

20,59%

23,5%


17,65
%

0

2

3

2

6

11

10

0

5,9%

8,8%

5,9%

17,65%

32,35%

29,4%


11,76% 14,7%

Kết quả kiểm tra cuối năm học 2018-2019 như sau:

số

34

HS giải tốn
đúng, trình bày
khoa học

HS viết câu trả
lời chưa đúng

HS làm sai phép
tính

HS viết sai
đáp số, danh
số

Số lượng

%

Số
lượng


%

Số
lượng

%

Số lượng

%

29

85,3

3

8,8

3

8,8

2

5,
9

Với một số biện pháp rèn kỹ năng giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng cho
học sinh ở trên tôi thấy giáo viên và học sinh ln có sự phối kết hợp nhịp nhàng

và có hiệu quả trong mọi hoạt động. Đa số các em thích học tốn, bước đầu biết
tự tìm hiểu và phân tích bài tốn bằng sơ đồ đoạn thẳng. Từ đó các em khá tự tin
khi giải các bài tốn có lời văn, biết viết các câu lời giải đúng, có kỹ năng nhận
dạng bài toán nhanh hơn so với đầu năm học.

PHẦN 3: KẾT LUẬN

25


×