Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Sự ảnh hưởng của Nho Giáo đến Văn học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.23 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
Đề bài : Sự ảnh hưởng của Nho Giáo đến Văn học Việt Nam
Học phần: Văn học Việt Nam từ 1900 đến 1945
Giảng viên: GS. TS Trần Ngọc Vương
T.S Đỗ Thu Hiền
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Dung
Mã sinh viên: 19032398
Lớp : K64 Văn Học


I.

MỞ ĐẦU
Trung Quốc là một trong nền văn minh cổ xưa lớn nhất của nhân loài và đạt
được nhiều thành tựu lớn trên nhiều lĩnh vực cả văn hóa và xã hội. Trong đó nền
văn hoa, văn học Trung Quốc phát triển lâu dài, phong phú và đa dạng với nhiều
thể loại hình thức thể hiện khác nhau. Từ hơn 3000 năm về trước đã có sự xuất hiện
của thần thoại, tiểu thuyết và thơ ca ngắn. Cùng với đó là sự xuất hiện của hàng loạt
các nhà văn nổi tiếng có tầm ảnh hưởng vượt biên giới và vượt qua mọi thời đại, có
thể so sánh với bất cứ quốc gia văn học nào trên thế giới. Không một dân tộc nào
có thể tồn tại và phát triển nếu khơng đặt mình trong sự tiến bộ chung, nếu khơng
tiếp thu những thành tựu của nhân loại. Đặc biệt từ khoảng giữa thế kỉ XIX giao
lưu văn hóa Đơng – Tây diễn ra mạnh mẽ trong đó có Nho giáo là học thuyết duy
nhất và có lịch sử lâu dài nhất được nhà nước cơng khai thừa nhận, có ảnh hưởng
đến 4 quốc gia đó là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam chi phối toàn bộ
đời sống tinh thần và văn hóa của con người. Việt Nam cũng vậy trên con đường
phát triển của mình đã kế thừa nhiều truyền thống tốt đẹp trong đó có sự đóng góp


to lớn của Nho Giáo. Tinh thần của Nho giáo đã thấm vào mọi ngóc ngách của đời
sống Việt Nam nhưng đã được “Việt Nam Hóa” . Đồng thời nó cũng tạo nên cơn
lốc mới trong tiến trình vận động và phát triển của xã hội Việt Nam, kéo theo sự
thay đổi cả nhiều truyền thống lịch sử văn học cũng là một trong những lĩnh vực
vừa tiếp nhận được những giá trị mới, chuẩn mực mới vừa phải chịu đựng những
sự đứt gãy và bước ngoặc mang tính thách thức. Trên cơ sở nhận thức rõ về sự ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo đến văn học Việt Nam nên em chọn đề tài “Sự ảnh
hưởng của Nho Giáo đến Văn học Việt Nam” để đóng góp một phần cơng sức của
mình vào kho tàng nghiên cứu văn Văn học tại Việt Nam
II.
NỘI DUNG
1 Giới thiệu chung về Nho Giáo

Nho giáo, còn được gọi là Khổng Giáo, là một hệ thức đạo đức triết lý do
Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Được hình thành từ thời Tây


Chu, với sự đóng góp của Chu Cơng – là người có cơng quan trọng nhất trong học
thuyết của Nho Giáo. Đến thời Xuân Thu xã hội loạn lạc, Khổng Tử (551 - 479
TCN) Sau khi ông mất, tư tưởng của ơng đã được các thế hệ học trị kế thừa. Về sau
người ta vẫn thường nói Khổng giáo tức là Nho giáo. Đến thế kỷ II TCN, Nho giáo
mới được giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc. Ở Trung Quốc, Nho giáo
đã tồn tại trong suốt thời phong kiến và là công cụ giúp các triều vua cai trị đất
nước. Khổng Tử và các học trò của ơng đã thấy được sức mạnh và vai trị to lớn
của đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là một học
thuyết khởi điểm đi từ học thuyết đạo đức và nguyên tắc về đạo đức. Trước hết là
trọng tâm đạo đức của giới cầm quyền chứ không phải đạo đức của giới đại chúng,
bình dân của giới vơ sản. Theo Khổng Tử quan điểm của Nho giáo được thể hiện
trong Tam cương đó là các mối quan hệ vua – tơi, cha – con, vợ chồng và Ngũ
Thường ( Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín). Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng

Trọng Thư gọi là Tam cương - ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia
đình đến ngồi xã hội. Đức chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người
cần phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên. Nội dung của Nho giáo
còn được thể hiện trong Ngũ Kinh ( Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và
Kinh xuân thu) hay Tứ Kinh ( Luật Ngữ , Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử).
Nho giáo với tư cách là một học thuyết, lãnh đạo chi phối các đời sống về mặt
xã hội. Nho giáo được giai cấp thống trị, giai cấp cầm quyền cơng nhận. Chính vì
thế khi du nhập vào Việt Nam, các ông Vua Việt Nam cũng rất tơn sùng Nho giáo.
Có thể thấy Nho giáo rất có sức ảnh hưởng to lớn trong của đời sống xã hội, ảnh
hưởng của nó khơng chỉ ở trong lĩnh vực chính trị xã hội, trong phạm vi nhà cầm
quyền hay giới nho sĩ phong kiến mà còn biểu hiện ở các lĩnh vực đời sống vật chất
và tinh thần phong phú của nhân dân Việt Nam. Nhưng lý thuyết Nho Giáo phù hợp
với truyền thống của dân tộc đã được ông cha ta học hỏi, tiếp thu, cải biến và phát
triển. Ngay cả trong thời đại hiện nay, dấu ấn Nho Giáo vẫn hiển hiện trong lối
sống, ứng xử của con người. Một số giá trị đạo đức về con người vẫn được đề cao


như kính trên nhường dưới, tình nghĩa gia đình, cần kiệm liêm chính chí cơng vơ
tư, lo thiên hạ trước, vui sau thiên hạ.
2. Quá trình du nhập của Nho Giáo đến Việt Nam
Đầu tiên là giai đoạn thời chống Bắc thuộc khởi đầu từ trước công nguyên và
kéo dài đến khi Ngô Quyền giành lại được đất nước. Nho giáo theo vào Việt Nam
bằng đội quân bành trướng của các vương triều và chính quyền có các cứ địa
phương. Không thể phủ nhận ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam khi nó được kẻ
xâm lược truyền bá suốt một nghìn năm và sau đó được nhà nước Việt Nam chủ
động sử dụng như một hệ tư tưởng chính thống.
Giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc đã mở đầu cho q trình giao lưu – tiếp
nhận văn hóa Trung Quốc và khu vực. Nhưng cũng chưa thật sự có chỗ đứng trong
xã hội Việt Nam. Bởi vì đó là văn hóa đến theo sự xâm lược áp đặt lên nhân dân.
Sự truyền bá của Nho giáo là mục tiêu để cai trị nhân dân ta, nhằm cải biến xã hội,

phong tục tập quán của nước ta Trong khi đó Phật Giáo đến Việt Nam theo con
đường hịa bình nên dân ta tự giác tiếp nhận. Cho nên cùng với sự chống Bắc thuộc
quyết liệt về mặt chính trị ,nét chủ đạo của giai đoạn này là xu hướng chống Hán
hóa về mặt văn hóa và Việt Nam hóa các ảnh hưởng Trung Quốc.
Hơn một nghìn năm Bắc thuộc và một thế kỷ sau ngày đất nước ta dành độc lập
Nho giáo vẫn chưa có vai trị gì đáng kể trong xã hội Việt Nam, nhưng sang giai
đoạn thứ 2 là văn hóa Đại Việt trở thành đỉnh cao thứ hai trong lịch sử văn hóa Việt
Nam với hai cột mốc Lí - Trần và Lê. Truyền thống tổng hợp bao dung của văn hóa
dân tộc được tiếp xúc bởi văn hóa Phật Giáo giàu lịng bắc ái đã làm nên linh hồn
của thời đại Lí Trần. Văn hóa Lí Trần chứng kiến thời kỳ hưng thịnh nhất của Phật
Giáo và cùng với nhu cầu củng cố nhà nước trung ương tập quyền đánh dấu thời
điểm Việt Nam tiếp nhận Nho Giáo. Số đơng người Việt ban đầu cịn xa lạ nhưng
dần Nho Giáo đã ăn sâu vào tư tưởng của Người Việt sử dụng nó như một tư tưởng
chính trong xã hội. Mở rộng giao lưu và tiếp thu trên tinh thần “Tam giáo đồng quy
, nhà Lí cũng mở rộng xây Văn Miếu (1070), lập Trường Quốc Tử Giám ( 1076)


khiến cho văn hóa Nho giáo xâm nhập ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Đến thời
Lê, Nho Giáo đạt đến đỉnh cao của sự phát triển khi nắm trong tay mọi bộ máy của
xã hội. Xu hướng tiếp nhận văn hóa Trung Hoa ( Hán hoa) trở thành chủ đạo. Tính
cách độc tơn, cứng rắn đã thâm nhập dần vào xã hội Việt Nam, nhà nước tuyên bố
lấy Nho Giáo làm quốc giáo, pháp luật nhà nước cũng bắt đầu mô phỏng theo
Trung Hoa, phụ nữ và con hát ngày càng bị kinh rẻ… Văn hóa Việt Nam thời kì
này chuyển sang “ Văn hóa Nho Giáo”. Vì vậy Nho giáo đã có đủ thời gian và đủ
điều kiện để thấm sâu, bám rễ và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của dân
tộc ta. Lúc đầu là công cụ tinh thần của thế lực thống trị ngoại bang ( Hán), sau khi
đất nước dành lại độc lập tự do, khi chế độ phong kiến Việt Nam tiến tới mơ hình
của nhà nước trung ương tập quyền thì nó lại trở thành vũ khí của các triều đại
phong kiến Việt Nam góp phần vào cơng cuộc xây dựng nước và giữ nước.
3. Sự ảnh hưởng của Nho giáo đến Văn Học Việt Nam


3.1 Nho giáo trong văn học Việt Nam
Theo quan niệm Văn học của Nho Giáo, văn học có nguồn gốc linh thiêng,
một chức năng xã hội cao cả. Nho giáo hy vọng dùng văn chương để giáo hóa,
động viên tổ chức hồn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Hầu hết những xã hội
chịu ảnh hưởng của Nho giáo đều đề cao văn hóa, văn chương, trọng kẻ có học, kẻ
làm văn tạo nên tâm lý hiếu học, tôn sư trọng đạo. Văn học của Nho giáo chính
thống phải là văn học “chí thiện”, phải hoàn toàn phù hợp với những tiêu chuẩn
đạo đức
Văn học Việt Nam viết từ đầu thế kỉ XIX, được hình dung là một thời đại lớn có
những khác biệt về chất so với văn học thế kỉ XX. Văn học chính thống Việt Nam
thời trung đại do nhà nho viết và chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Vì thế giới quan và
quan niệm văn học tư tưởng, thẩm mỹ của Nho giáo, các nhà Nho thường chọn
những đề tài, những nội dung, sử dụng những phương pháp nghệ thuật khá giống
nhau nên ta có thể thấy sự gần gũi trong mối liên hệ của các tác phẩm văn học cũng
như các tác giả đương đại. Nho giáo ảnh hưởng đến Văn học với tư cách là học


thuyết tức là một hệ thống các quan điểm về thế giới, xã hội, về con người, vì lí
tưởng. Ảnh hưởng đó được bộc lộ trên tất cả các tiêu chí định tính của văn học bao
gồm các vấn đề như lí luận và quan niệm về văn học, chủ đề, đề tài và hình tượng,
thủ pháp nghệ thuật, cảm hứng, ngôn ngữ, thể loại…Theo quan điểm của Nho gia,
văn biểu hiện cho “đạo” được dùng để truyền đạt đạo lý thánh hiền, đem những
tấm gương sáng đạo đức để giáo hóa. Đã là nhà Nho thì tất phải có tài“ nhả ngọc
phun châu” tức là có tài sử dụng ngôn ngữ, văn tự nhưng đi đầu vẫn là đạo đức.
Chủ trương “ Văn sử triết bất phân”.
Trước thế kỷ XX trong lịch sử của Văn học Việt Nam có hai dịng lịch sử rõ rệt đó
là bác học và bình dân. Trong đó văn chương bác học là văn chương của nhà Nho,
tầng lớp tri thức tự coi mình là thần tử của triều đình, kẻ hướng đạo nhân dân, kẻ
bảo vệ đạo lý thánh hiền. Nhà Nho viết văn không phải để biểu hiện cái đẹp,

không phải để mua vui. Văn phải gắn liền với “đạo”, bảo vệ đạo lý cương thường.
Đề tài của văn luôn ca ngợi vua, đất nước, các bật hiền tài, giảng dạy đao lý làm
người. Có thể đó là thứ văn chương mượn cảnh nói tình, biểu đạt tâm, chí, bộc bạch
tấm lịng trung trinh. Tuy nhiên trong nhà Nho cũng có nhiều người chán sự gị bó,
khn khổ của giáo lý nên đã mở rộng hơn ở các đề tài như là ca tụng thiên nhiên,
ca tụng sự phóng khống, sự thanh cao của người ẩn sĩ, ca tụng cái hào hoa phong
nhã của người tài tử. Lý tưởng thẩm mỹ, nội dung tư tưởng có thể khác nhau nhưng
văn chương vẫn là thơ, vẫn là một thứ văn xi có vần, có điệu, mỗi thể loại đều
tuân theo những luật lệ nghệ thuật chặt chẽ, hạn chế sự đa dạng của sáng tạo cá
nhân.
3.2 Nho giáo ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của nhà văn
Nho giáo ảnh hưởng trực tiếp đến văn học qua thế giới quan của người viết.
Cách nho giáo hiểu quan hệ giữa thiên nhiên và đạo đức và nhận sự, sự tồn tại của
trời đất, sự chi phối của đạo lý, cách Nho giáo hình dung thực tế, vạn sự, vạn vật.
Cách Nho giáo hình dung xã hội, sự quan trọng đặc biệt của cương thường, địi hỏi
họ phải có trách nhiệm, có tình nghĩa… chi phối cảm xúc, cách suy nghĩ làm cho


con người quan tâm đến đạo đức, lo lắng cho thế đạo. Theo quan điểm của Nho
giáo văn chương viết ra là để cho mình, viết vào văn tập, thi tập, lưu lại cho con
cháu về sau này. Hình thức của văn chương phải có kỹ xảo, sử dụng các điển tích,
điển cố, từ ngữ phải trang nhã, tránh cái thô tục…. Các tác giả cũng không quan
tâm biểu đạt đến cuộc sống thực tế.
Nhà Nho dành cả cuộc đời để học viết văn và làm thơ. Theo quan niệm của
Nho giáo họ viết văn và làm thơ trong những trường hợp nhất định, theo những ý
nghĩa nhất định, không giống với các hoạt động sáng tác của các nhà văn hiện đại.
Đối với họ việc viết sách hay làm văn chương chỉ là phụ. Cái chính là hành đạo,
đạo ấy trước hết là đạo làm người “ tu, tề, trị, bình” sửa mình trước rồi sau mới ra
giúp đời. Thể loại phát triển nhất phải kể đến thơ. Thơ chủ yếu là để bộc bạch tâm
sự và vịnh cảnh. Sự bộc bạch không hướng đên cái “ tôi” riêng mà là tư tưởng hòa

nhập của cái “ta”. Trong thơ có vịnh cảnh, vịnh vật, trong văn có loại kí, tự đều là
những thể loại ghi chép thực tế, tìm cảm hứng trong sự vật khách quan nhưng vật
được lọc theo đạo lý. Tuy nhiên quan niệm văn chương đạo lý không làm cho văn
học chú ý đến con người thật, cuộc sốn thật, kìm hãm văn học nghệ thuật chân
chính phát triển. Dù các đề tài có là vịnh cảnh, vịnh vật nhưng tâm sự mới là yếu tố
chính trong nội dung, và tâm sự người này với tâm sự người kia cũng đại khái
giống nhau. Đọc các tập ta thường thấy sự nghèo nàn, đề tài trung lập, nội dung
khô khan, nghệ thuật đơn điệu, thiếu dấn ấn nghệ thuật riêng của cá nhân tác giả.
Sự ảnh hưởng của Nho giáo trong văn học không chỉ dừng lại ở mơ típ nội
dung, hình ảnh, từ ngữ mà cịn ở quan niệm cái đẹp. Văn chương luôn hướng tới
cái hay, cái đẹp, hướng văn học đến truyền đạt đạo lý chứ không chứ không được
cái vô đạo, đi ngược với thuần phong mĩ tục. Lời phê bình hay lên tiếng cái xấu, cái
ác cũng phải có mức độ và kín đáo. Tiêu chí đối với cái đẹp như vậy khơng phải chi
phối các nhà văn mà đó là tiêu chuẩn để truyền bá tư tưởng.
Nho giáo ảnh hưởng đến đối tưởng sáng tác của các nhà nho. Đã từ rất lâu nho
giáo với tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, đã là phụ nữ thì phải “tam tịng tứ đức”


đã mang sự ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội Việt Nam vẫn còn tồn tại đến ngày
nay mang nặng tư tưởng bất bình đẳng. Bởi vậy nó cũng một phần ảnh hưởng đến
các đối tượng sáng tác trong hệ thông văn chương. Phần lớn hầu hết các nhà văn
đều lấy những hình ảnh nam nhân để đại diện cho các quân tử, hay các bậc hiền tài.
Trong thời kỳ đầu của văn học viết đối tượng sáng tác chủ yếu là các quý tộc như
tác phẩm “ Thiên Đô Chiếu” của Lý Công Uẩn, “ Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc
Tuấn. Thời gian sau đó do sự biến đổi mở rộng mới bắt đầu có các nhà nho sĩ sống
ẩn dật như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…
Các nhân vật hình tượng trung tâm cịn chịu ảnh hưởng bởi những quan niệm
về đạo đức – lễ nghĩa. Là người đàn ông phải là người quân tử có tài như Kim
Trọng, có chí lớn và sự nghiệp như Từ Hải,… là phụ nữ thì phải biết giữ lễ nghĩa,
phải biết tam tọng tứ đức điển hình như Thị Kính, Vũ Nương… Ngồi ra cịn một

số các tư tưởng như “ trung quân ái quốc”, “ nam nữ thụ thụ bất thân”
3.3 Tư tưởng trọng văn ảnh hưởng
Văn chương có sự ảnh hưởng và đóng góp vơ cùng lớn đến với bộ máy nhà nước,
các quan điểm chính trị như được dùng trong các chiếu, biểu, ngoại giao, chép sử…
Văn chương cũng được dùng trong việc thù ứng, giao thiệp. Người ta chia vui, chia
buồn với nhau bằng một câu đối, viếng nhau bằng một bài văn tế, đón nhau, tiễn
nhau bằng một bài thơ hay ghi lại những kỉ niệm bằng một bài kí… Tất cả thể loại
văn chương ấy không viết dựa vào cảm xúc mà dựa theo đòi hỏi của quan hệ,
cương vị. Bạn bè thường cùng nhau ngâm vịnh, cùng nhau xướng họa
Các bài văn chương chủ yếu dành cho các tầng lớp cao đọc và học hỏi nên nó trở
thành một thứ hàng hóa có thể trao đổi và kiếm sống. Ngồi ra khi các nhà Nho
muốn
Đồng thời nếu các nhà Nho thi đậu thì có thể làm quan và cơng việc của một ông
quan – nhà Nho cũng là làm văn chương để cai trị đất nước. Vì trong quan điểm
của nhà Nho muốn hành đạo vì nước, vì dân thì phải vì vua, có chức quan, phải có
chức vị nên phải học thi để đỗ làm quan. Vì rất trọng văn chương nên các nam nhân


ngày xưa không phải làm việc và lao động vất vả nhiều chỉ cần chăm đọc sách viết
văn đỗ thành quan sẽ được mọi người kính nể và tơn trọng.
3.4 Về ngôn ngữ
Chữ “Hán”được sử dụng rất rộng rãi trong mọi hoạt động qua nhiều thế kỷ, đã trở
thành “chữ ta” trong bộ phận văn học bác học Việt Nam. Chữ Hán được sử dụng
chính thống chi phối tồn bộ, nội dung tư tưởng. Chữ Hán được biên soạn thành
sách chủ yếu để dạy học bằng chữ Hán và đưa các tư tưởng Nho giáo để phổ cập
tới nhân dân ta. Muốn học giáo lý tư tưởng thì phải thơng thạo ngôn ngữ văn tự, với
những phương châm và biện pháp mang tính học thuật, vừa mang tính sư phạm
cao. Việc biên soạn sách dạy chữ Hán cho người Việt trước kia là một hệ quả tự
nhiên của khát vọng xây dựng nước Việt Nam độc lập. Được biên soạn dựa trên
tâm lý và trình độ học vấn của người đi học. Việc học chữ Hán, và biết chữ Hán

còn là mọt nghệ thuật nó gắn liền với thư pháp học. Dù lịch sử đã trôi qua nhưng
những tác phẩm được viết bằng chữ Hán vẫn để lại những giá trị sân sắc cho nền
văn học Việt Nam như “Quy Côn Sơn chu trung tác”, “Cảm tác trong thuyền về
Côn Sơn”, của Nguyễn Trãi hay “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm” của
Nguyễn Du, “ Cảm hứng”, “ Ngụ Hứng”, “ Vấn ngu giả” của Nguyễn Bỉnh
Khiêm … mãi mãi trường tồn bất diệt theo thời gian.
3.5 Sùng điển cố, điển tích
Tính sùng cổ điển tích đối với các nhà Nho cái gì xưa cũng hay hơn nên việc sử
dụng sùng cổ, điển tích là một trong những đặc điểm tư duy, thói quen của các nhà
Nho. Họ cho rằng văn chương do thánh hiền viết ra khơng có gì mẫu mực hơn là
lúc khởi nguồn nên cứ theo vậy mà học tập và duy trì
Văn học Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều từ Tứ Thư, Ngũ Kinh học tập rất
nhiều điển cố , điển tích . Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều thi liệu,
điển tích, điển cố chủ yếu trong văn học trung đại, trong ca dao đều lấy từ Ngũ
Kinh để làm phong phú hơn cho nội dung của tác phẩm. Điển hình như các bài ca
dao, dân ca dùng cụm từ “cù lao chín chữ” để nói về cơng ơn của cha mẹ.


“Công cha như núi thái sơn / Nghĩa mẹ như nước ở ngồi biển đơng / Núi cao
biển rộng mênh mơng / Cù lao chín chữ ghi lịng con ơi”.
Chàng ơi, Ơn thầy ba năm cúc dục/ Nghĩa mẹ chín tháng cù lao/ Ai đền ơn
cho thiếp mà nhú thiếp trao ân tình”.
Thương thay chín chữ cù lao/ Tam niên nhũ bộ biết bao ân tình
Trong các tác phẩm văn học, cụ thể là trong thơ cũng được Nguyễn Du học hỏi và
sử dụng vào kiệt tác “ Truyện Kiều” như
Duyên hội ngộ đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà
Dùng hình tượng “ Chiếc bách” ( Chiếc thuyền bằng gỗ bách) trong bài “ Bách

chu” ( Bội phong) để nói về thân phận nổi trơi vô định, bị hắt hủi, bỏ rơi của người
phụ nữ.
“Nàng rằng chiếc bách song đào
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may”
Hồ Xuân Hương cũng sử dụng hình ảnh “chiếc bách”:
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nổi lênh đênh.
Chiếc thuyền mỏng manh ở giữa dòng nước, để miêu tả thân phận của người con
gái cô độc, chẳng biết nương về chốn nào.
Ngồi ra Nguyễn Du cịn sử dụng các điển cố, điển tích trong bài “ Đào Yêu” để
nói về Truyện Kiều:
“Quả mai ba bảy đường vừa
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì”
Hay
Những từ sen ngó đào tơ
Mười lăm năm mới bây giờ là đây


Ngồi ra cịn một số tác phẩm khác cũng sử dụng các từ “đào yêu”, “thơ đào”
Thơ đào ngợi chữ vu quy
Ban đêm châu ngọc cho về thành thần
(Nhị độ mai)
Vu tiên vừa thủa đào yêu
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên
(Đại Nam Quốc sử diễn ca)
Chữ “gót lân” trong bài “ Lân chi chỉ” ( Quốc phong) ý khen ngợi gia đình và
họ hàng con cháu dịng dõi hiền tài, đức độ. Ta bắt gặp hình tượng này trong bài
trong các bài thơ trung đại Việt Nam
Trăm năm biết mấy tinh thần
Sinh con sau nối gót lân đời đời

( Lục Vân Tiên)
Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm
Đầu mũ mao mình tấm áo da
(Ai Tự Vãn – Lê Ngọc Hân)
Ngồi ra cịn có tác phẩm “ Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn: “ Xưa nhà Thương
đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thanh Vương ba lần dời đô”
Hầu hết trong các điển cố, điển tích được xuất hiện thường xuyên trong các tác
phẩm văn học trung đại đó là các từ “chiếc bách”, “đào yêu”, “lân chi”. Qua đây
ta có thể thấy rõ sự ảnh hưởng tác động của Nho giáo đến văn hóa đời sống và các
tác phẩm văn học Việt Nam là rất lớn và phong phú. Các điển cố, điển tích được sử
dụng trong các bài văn trở nên sinh động và hấp dẫn hơn, tạo điểm nhấn đặc biệt.
Đồng thời việc áp dụng linh hoạt các điển cố này còn cho thấy được tài năng của
tác giả.
4. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu


Đi đầu trong các quan điểm hệ thống giáo lý của Nho giáo trong văn học không
thể không nhắc đến Nguyễn Trãi ( 1380 – 1442) được xem là nhân vật điển hình
mẫu mực cho các nhà văn. Là người đầu tiên được cơng nhận là danh nhân văn hóa
thế giới của nhân loại. Ông là một nhân cách nhà Nho tiêu biểu điển hình cho sự
sáng tạo và việt hóa Nho giáo. Tư tưởng của Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng sâu sắc
bởi những phạm trù của đạo đức như thiên mệnh, trung dung, tam cương…. Tuy
nhiên những tư tưởng của ông không phải sao chép lại nguyên bản đạo dức của
Nho giáo mà có sự biến đổi ít nhiều co phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của nước ta.
Ông đã lựa chọn Nho giáo nhưng là xu hướng nhân đạo nhất trong chủ nghĩa Nho
giáo thời đó. Quan điểm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là quan điểm nhân nghĩa của
Khổng Mạnh đứng trên lập trường của các dân tộc bị xâm lược nhìn kể đã thống trị
xâm lược mình. Nguyễn Trãi rất yêu nước, tự hào về truyền thống của dân tộc, đó
là động lực khiến ơng càng kiên quyết khi dùng những án văn chương hùng mạnh
của mình để vạch ra những tội ác của kẻ thù, phải dành chiến thắng vì lịng tự tơn,

tự cao của dân tộc. Tư tưởng “ nhân nghĩa” của ông là “ trừ bạo yên dân” và tình
thần yêu nước được thể hiện qua áng hùng văn thiên cổ “Đại Cáo Bình Ngơ” .
Đồng thời ơng cũng mong muốn cho đất nước giàu mạnh sánh ngang với sự phát
triển của Trung Quốc và hướng con người tới một xã hội có vua Nghiêu Thuấn và
những con người tốt đẹp: “ sDẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/Dân giàu đủ khắp địi
phương” .
Tư tưởng nhân nghĩa tuy bắt nguồn từ Nho giáo, nhưng các nho sĩ yêu nước đã vận
dụng nó trên quan điểm của dân tộc, vì lợi ích của đất nước dân tộc, nên nội dung
của nó cũng có những điểm sáng tạo độc đáo mang tinh thần dân chủ và màu sắc
truyền thống của Việt Nam.
Ngồi ra cịn có một số các tác phẩm tiêu biểu trong văn chương nhà Nho
khơng thể khơng nhắc đến bài “ Cảnh hồi” nổi tiếng của Đặng Dung. Đây cũng là
một trong tác phẩm “gây chấn thương” thực sự, xứng đáng xếp cùng hàng với tác
phẩm “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, hay là tác phẩm “


Xuất dương lưu biệt chư đồng chí” của Phan Bội Châu…. ở những thời điểm đau
xót trong lịch sử dân tộc các chặng đường khác nhau. Đó là những tiếng kêu thấm
thiết bất khuất, chuyền tải tất cả những nỗi hùng tâm của cả dân tộc ta :
Thế sự du du nại lão bà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hồi phù địa trục
Tẩy binh vơ lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đối nguyệt ma”
“Cảnh Hoài – Đặng Dung”
Từ bài thơ hiện lên hình bóng anh hùng tận lộ, tốt ra triết lý chua xót về số
phận người anh hùng, nghĩa hiệp bị sa cơ lỡ vận. Đồng thời cũng nói vê cái ngất

ngưỡng ngang tang của người bất cần chia sẻ tâm sự với ai khác, tư mình gánh chịu
lấy đau đớn tầm thường. Chủ thể thi nhân ở đây khơng nhân danh con người nói
chung của mọi thời đại, mà hiện diện chính xác ở đây là hình ảnh của nhà nho trung
quân ái quốc đang phải tạm bó tay trong bầu trời tâm sự ngút ngàn. Có thể nóiTác
phẩm “ Cảnh hồi” là đại diện cho người Nho sĩ – là viên ngọc long lanh nước mắt
và tấm lòng son của người nhà Nho trung nghĩa. Lý Tử Tấn, khi bình về bài thơ
này đã phải cảm phục thốt lên “phi hào kiệt chi sĩ, bất năng”
Tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước dồi dào trong văn học cổ điển của thời Lý
Trần cho đến cuối thời Nguyên. Có các bài như “ Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ,
bài thơ “ Thần” của Lý Thường Kiệt, “ Ngục trung thư” của Phan Bội Châu…Tất
cả các tác phẩm đặc sắc này một phần là do tư tưởng trong mối quan hệ với Nho
giáo , nó cung cấp cho ta nhiều nguồn thi liệu phong phú.
III.

KẾT LUẬN


Thơng qua việc tìm hiểu về sự ảnh hưởng của Nho giáo đến với văn hóa, văn
học của Việt Nam chúng ta có thể thấy Nho giáo đã giao lưu, truyền bá sâu rộng ở
trong mọi tầng lớp xã hội lịch sử. Bên cạnh những mặt ảnh hưởng còn hạn chế gị
bó trong khn phép của tinh thần Nho Giáo đã khiến cho văn học, đời sống văn
hóa cũng bị chi phối vẫn cịn những mặt tích cực có ý nghĩa nhất định. Sự thống trị
của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam suốt thời kỳ dài cũng chính là nguyên nhân
cho sự tồn tại của cho những tư tưởng bảo thủ, cổ hủ như “ trọng nam khinh nữ”.
Với bài nghiên cứu tìm hiểu về sự ảnh hưởng của Nho giáo đến với văn học Việt
Nam có thể đóng góp phần sự hiểu biết của mình vào hệ thống nghiên cứu văn
chương. Thơng qua đó nêu cao tinh thần hiểu biết, lựa chọn phù hợp những gì tốt
đẹp của Nho giáo để tiếp nối phát huy và bãi bỏ đi những mặt tiêu cực của nó.
IV.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Phan Cự Đệ, Văn học Việt Nam (1900 -1945), NXB Giáo dục, 2009
2) GS. Phan Đại Doãn, Một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia,1998
3) Trần Đình Hượu, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
NXB giáo dục, 1999
4) Trân Ngọc Vương, Loại hình học tác giả văn học Nhà nho tài tử và
văn học Việt Nam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1999
5) PGS Lê Sĩ Thắng, Nho giáo tại Việt Nam, NXB Khoa học xã hội
Hà Nội, 1994
6) Nguyễn Thị Thanh Mai, Tư tưởng đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng
của nó ở nước ta hiện nay
7) Trần Kim Trọng, Nho giáo, NXB Văn hóa thơng tin, 2001
8) Ảnh hưởng của Nho giáo đến văn học và giáo dục ở Việt Nam thời
kỳ phong kiến:
/>9) Ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam:
/>

giao-doi-voi-doi-song-tinh-than-tai-viet-nam?
fbclid=IwAR26mC5NBO43BMA9QOnDiOliS3TgMYwrC4NBRT
OHvPL8ZC_tG5QIQEk3pDI
10) Khái quát về Nho giáo :
/>


×