Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Phân tích Khóc Dương Khuê để cho thấy đây là khoảnh khắc tình bạn quân tử của Nguyễn Khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.73 KB, 6 trang )

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Văn mẫu lớp 11:
Phân tích Khóc Dương Kh để cho thấy đây là khoảnh khắc tình
bạn quân tử của Nguyễn Khuyến
Khóc Dương Khuê là bài thơ hay nhất, cảm động nhất nói về một tình
bạn đẹp, thắm thiết, thủy chung của 2 nhà nho, 2 nhà thơ một trăm năm
về trước. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng như đang tự khóc mình.
Tình bạn được xếp hạng thứ năm trên thang giá trị "Ngũ ln". Khơng
tình bạn nhân loại khó phát triển bình thường được. Tình bạn quân tử tập
hợp chứ khơng hề hùa. Khơng địi hỏi kết chặt như tình vợ chồng, bạn đời
mà chấp nhận sự đứt nối, vơi đầy qua năm tháng. Tính bất nhất ấy thường
dễ gây tan vỡ nhưng cũng có khi làm tình bạn đậm đà thêm ra. Quy luật
tâm lí ấy cũng tương đương quy luật vật lí: Chỗ nối lại thường bền chắc
hơn chỗ chỗ chưa đứt, số đo giữa vơi với đầy ln lớn hơn giữa đầy với...
chưa vơi! Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến ra đời trong trường
hợp như thế, và do đó đạt độ đậm đà tha thiết hiếm có. Mối kết giao giữa
hai người từng bị sờn đi, vơi đi một thời gian dài, nếu Nguyễn Khuyến
không giữ đạo “thẳng thắn và tha thứ” của người quân tử, hẳn tình bạn
giữa hai người khó lịng hàn gắn và Khóc Dương Kh khó phơ hết chân
tình.
Họ là bạn đồng niên (cùng đỗ khoa thi Hương 1864). Với người quân
tử, bạn đồng niên là “chuẩn” nhất, bởi phương châm của họ là “khơng kết
bạn kẽ khơng bằng mình, thậm chí cịn cầu tồn một chiều đến vơ
nghiệm, kết bạn phải hơn mình, như mình thì khơng bằng khơng kết. Nói
tắt một lời thì trong kết bạn, qn tử nặng lí trí hơn tình cảm, nhưng chính
nhờ vậy mà vẫn “hịa hợp dù khơng đồng lịng". Tình trạng ấy thực đã
xảy ra giữa giao tình Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.
Khi kinh thành thất thủ (1883), Nguyễn Khuyến nhất quyết lui về ẩn
dật cho đúng đạo “lúc đạt thì làm tốt cho cả thiên hạ, lúc cùng thì làm tốt
cho riêng mình". Trái lại, Dương Khuê giữ đạo quân tử theo cách khác:




VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

"quân tử làm quan là làm điều nghĩa”, mà thời điểm ấy mới cần đến điều
nghĩa biết bao! Vả chăng Á thánh đã dạy "Lúc thường giữ cho đúng lề
lối, lúc biến linh động theo tình hình". Thế nên Dương không lui về như
Nguyễn mà nấn ná thêm sáu đời vua đầy rối ren, không cơn biến nào sánh
kịp. Rồi khi Nguyễn phải “dằn tâm” làm “Ông phỗng đá” để “giữ thân”
trong lớp vô gia sư bất đắc dĩ ở dinh Kinh lược Bắc Kì thì Dương đường
đường là quan Tham Tá của Nha Kinh lược ấy (ông Tham tá nọ hẳn kha
mẫn cán nên sau đó mới thăng Tổng đốc Nam Định - Nam Bình rồi về
hưu với hàm Binh bộ Thượng thư).
Ai cũng biết rằng đối với phe hợp tác (Lê Hoan, Hoàng Cao Khải,
Nguyễn Hữu Độ v.v...) Nguyễn Khuyến thường có lời lẽ ác cảm (cả khi
họ đã qua đời). Tuy nhiên thánh nhân cũng dạy; “Nước quá trong không
cá – xét nét quá không bạn” vì thế Nguyễn Khuyến đã châm chước cho
Dương Khuê những khoảnh khắc tình bạn quân tử mà một trong những
khoảnh khắc ấy đạt đến cao trào là 38 câu Khóc Dương Kh.
Nỗi đau mất mát của ơng bật lên thống thiết.
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (câu 1-2)
Tiếng kêu thảng thốt ấy thật là đầy ắp chân tình. Ơng đã qn mình để
xót xa tột cùng cho số phận bạn. Người đọc không thể không nhận ra nỗi
niềm ấy. Thế nhưng ở bài chữ Hán (bộ phận thơ văn chủ yếu mỗi nhà
nho) thì câu đầu là “Dĩ hĩ Dương đại niên” (Thôi rồi bác Dương ơi). Hai
chữ “Dĩ hĩ” ở đầu câu ngụ ý tiếc vì “mất người tri kỉ“ hơn tiếc vì ‘‘người
tri kỉ mất”. Nếu khơng trả lại bản gốc chữ Hán, ta dễ nhầm rất nhiều “ý
ngầm” của ông Tam Nguyên ngay trong bản Nôm.
Tiếp theo là 12 câu nhắc những kỉ niệm chung của hai người:

Nhớ tử thuở... điển phần trước sau (câu 3-14)
Hai mươi năm (1864-1883) giao du tương đắc ấy lại bao kỉ niệm êm
đềm! Chính những năm tháng đậm đà tình nghĩa ấy cộng với độ lượng


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

quân tử nơi Nguyễn Khuyến mới đủ sức hàn gắn những sứt mẻ hiển nhiên
khi mà Dương không đồng chí hướng với Nguyễn để giữ cái "Đạo chưa
cùng” như hàng trăm nho sĩ khác, kẻ lui về ẩn dật, kẻ bỏ đi kháng chiến.
Sự khơng bằng lịng của Nguyễn “bọc nhung" trong bốn câu:
Buổi dương cửu... thì thơi mới là (câu 15-18).
Lời thơ nghe tưởng như kể lể thật tâm đắc tình họ “tuy hai mà một”,
ai ngờ lại là lời chỉ trích khơng khoan nhượng, bấm đúng vào “yếu huyệt”
của kẻ sĩ; đạo xuất xử của người qn tử. Lời trách nhẹ nhàng như có mà
như khơng, tất cả chỉ găm chặt vào hai tiếng mới là! Nếu không rõ hành
trạng của mỗi người, ta rất dễ “mắc lỡm” lối nói lấp lửng ấy; tuy cùng
gặp buổi mạt vận của đạo Thánh (dương cửu) nhưng Nguyễn nhận ra để
“biết thơi” cịn Dương thì... chưa chịu biết! Nguyễn có bổn phận vạch ra
điều ấy vì “trách cho tốt ra là cái đạo bạn bè. Tâm lí người đời thì “nghĩa
tử là nghĩa tận” nhưng với người quân tử đấy mới là lúc người ta “tính
sổ” nhau thật thẳng thắn vồ “tăm tiếng” lẫn về “tai tiếng” đế còn răn đời;
Bởi vì "đậy áo quan cơng luận mới xác định” (có lẽ vì thế mà tập qn Á
Đơng trọng ngày chết trơn trọng ngày sinh như Âu Tây chăng?)
Lời thơ giải thích cho việc ngại đi lại là vì tuổi tác:
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác
Trước ba năm gặp bác một lần (câu 19-20)
Trước ba năm, ấy là lúc Nguyễn 65, Dương 61. Liệu có đúng là cả hai
đã “già”, đã “nhác đi lại” không? Đừng quên rằng với hàm trí sĩ một
Tham tri như Nguyễn, một Thượng thư như Dương, khái niệm “để lại”

của họ chỉ giới hạn trong việc bước xuống thuyền hay ngồi lên cáng, vây
quanh tiểu đồng, là học trò, là giai nhân, là... một trọng khoa bảng, danh
vọng. Tôi nghĩ rằng hai tiếng mới ở câu 18 thực sự “chịu trách nhiệm”
việc nhác “đi lại” của họ chứ không phải hai tiếng tuổi già ở câu 19, bằng
cớ là ở bản chữ Hán, tuổi già hoàn toàn... ngoại phạm: "Vãng lai bất xác
đác”. (Qua lại không... thật đặng). Cách đặt câu đến lạ! Nếu dùng trong


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

bài thi, chắc gì ơng đỗ Tam Ngun nhưng trong Khóc Dương Kh thì
đừng thế nghe mới xứng Tam Ngun!
Có lẽ họ “nhắc đi lại” vì cịn lí do khách quan nữa: Cả hai đều ngại
gảy ghi ngờ cho dư luận lẫn thực dân, trừ lẩn gặp nhau hồi ba năm trước
rất có khả năng là chuyện bất khả kháng: Đám tang vợ Nguyễn Khuyến.
Và như vậy, câu “Trước ba năm gặp bác một lần” độ nhấn tất phải năm
vào chữ một, đó là trường hợp "bất qui tắc” của “Qua lại khơng... thật
đặng”.
Dù sao thì chuyện cũng thật buồn. Người bạn duy nhất còn lại 131,
thật ra chỉ cịn... phân nửa tình bằng hữu, chợt cũng qua đời nốt! Nguyễn
Khuyến cảm thấy bơ vơ thật sự, bàng hồng thật tình, ơng như góa bụa
thêm lần nữa, cái chết vốn gợi lòng trắc ẩn, mà “lòng trắc ẩn là đầu mối
của đức nhân, đức nhân đem lại là nền tảng của Ngũ thường, người quân
tử nào chẳng thấm nhuần điều đó. Thế nên những ray rứt của ơng (câu
19-28) rất “cận nhân tình”. Mất Dương Khuê, liệu trên đời có cịn ai hiểu
Nguyễn Khuyến? Quản Trọng khóc Bảo Thúc, Khổng Minh khóc Chu Du
cũng đều bởi lẽ ấy: “Quen biết đầy thiên hạ, hiếu lòng chẳng mấy người”.
Việc Nguyễn Khuyến chẳng cịn thiết gì rượu, thơ, giao (câu 29-34) là
chuyện hồn tồn dễ thơng cảm. Bút mực Tam Nguyên nhân vậy mà có
dịp cống hiến cho đời những vần thơ thấm tình bằng hữu.

Ở bốn câu kết, thái độ quân tử của Nguyễn Khuyến mới thật rạch ròi,
sòng phẳng đến lạ lùng (theo góc nhìn của chúng ta).
Bác chẳng ở... hai hàng chứa chan (câu 35-38).
Ông ấy thế là chết thật rồi. Tơi chí nhớ (những kỉ niệm cũ) chứ khơng
thương, khơng khóc. Y sờ sờ là thế nhưng ma lực của lời lẽ bản Nôm cứ
lôi người đọc theo lòng tha thứ hơn là tỉnh táo nhận ra đạo thẳng thắn của
tác giả. Cái tài ông Tam Ngun thật đáng nể. Hãy thử phân tích một câu:
Tơi tuy thương lấy nhớ làm thương


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Chữ tuy vốn phủ nhận nhất thời cái ý đi kề sau nó (ví dụ: tuy giàu
nhưng bủn xỉn, tuy nghèo mà xài sang...). Vậy là ông “nhác khóc”, có
chung lí do với “nhắc đi lại”. Thẳng thắn đến thế thật quá đáng! Như suy
lòng ta để phê phán lịng qn tử lại q đáng hơn.
Vậy Khóc Dương Kh đích thực là khoảnh khác tình bạn qn tử.
Tình bạn ở họ vốn chuẩn mực, lí trí. Họ “nhanh nhạy trong công việc mà
thận trọng trong lời cân nhắc giữa hai bản Hán và Nơm, ta thấy Khóc
Dương Kh là đem lòng tha thứ làm dịu đi dạo thẳng thắn quá căng ở
nguyên tác. Ít ai chịu nhận ra ý đồ ấy vì người đời quen nghĩ rằng khóc là
việc của tình cảm đơn thuần, quân tử, Tam nguyên gì cũng thế thơi,
Nguyễn Khuyến vận dụng đúng đắn “đạo thẳng thắn và tha thứ“ của
người quan tử vào cả hai bài nhưng điều thú vị là ông dành thẳng thắn
cho nguyên tác, dành tha thứ cho bản Nôm. Rốt cuộc, quân tử vẫn đủ chất
quân tử mà không làm chạnh lịng những “phi qn tử”. Khơng độc đáo
được thế thì tài Tam ngun cịn kể làm gì!
Cũng nên biết thêm rằng trong nguyên tác, Nguyễn Khuyến xưng
mình là dư chứ không xưng ngã. Xưng dư nghe lãnh đạm hơn, có thể
phiếm xưng với cả người khơng quen biết (Kiểu Chu Hi mở đầu bài tựa

Kinh Thi: “Hoặc hữu vấn ư dư viết”. Nếu ai đó hỏi Ta rằng...). Cũng
trong nguyên tác, Nguyên gọi Dương vỏn vẹn hai lần bằng chữ Quân
thích đáng, phải chăng (để nhắc quãng ngày thân thiết), cịn bảy lần xưng
hơ tiếp theo (các câu 17, 23, 24, 25, 28, 35, 36) ông đều gọi bằng công là
cách thường dùng ở ngôi thứ ba và chỉ dùng xưng hô trực tiếp khi cố
tránh vẻ mặn mà. Trong bản Nôm, Nguyễn Khuyến dịch thành “bác” cho
cả quân lẫn công, thế là ông “quân tử thêm phen nửa”, vẻ lạnh nhạt của
ông đã che chắn khéo léo, cảnh “hịa nhi bất" càng ít bị nhận ra càng hay.
Chính vì thế mà Khóc Dương Kh càng thực thụ là khoảnh khắc tình
bạn quân tử.


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Cái kiểu “giận thì giận mà thương thì thương” ấy thật chẳng nhất
quán, chăng đồng bộ chút nào, nhưng phải thế mới cân bằng giữa lí trí với
tình cảm. Với chúng ta, điều ấy nghe rất chướng nhưng đạo quan tử thà
đành phải thế. Chỗ đặc sắc của Khóc Dương Kh là nó làm vừa lịng cả
hai phía cảm thụ: phía thích nghĩ răng Nguyễn nẫu cả lịng vì thương bạn
lẫn phía nhận ra rằng người thực sự chẳng thương bạn mà chỉ khơng kìm
nổi xúc động vì “chút nghĩa”. Chính khả năng hai chiều ấy mới làm đậm
dấu ấn Tam Nguyên. Cái lối người đọc vốn là thú sở trường của Nguyễn
Khuyến (nhất là trong lĩnh vực câu đối). Cũng đừng quên rằng đâỵ là bài
thơ tự sự riêng tư chứ không phải nét để chia buồn, để truy điệu theo kiểu
thù tạc đời thường. Rất có thể tang gia họ Dương vào thời điểm ấy chưa
mấy ai biết đến.
Cuối cùng, nếu có ai đó nghĩ rằng “bảo là khóc nhưng cuối cùng nhác
khóc thì thà đừng khóc”. Nghĩ như thế là dựa lập trường “phi quân tử” để
phủ nhận tính cách quân tử của Nguyễn Khuyến cũng như trong cuộc đời
và đánh mất đi của cõi đời một kiệt tác về Tình Bạn vậy.

Các tài liệu liên quan:
 Soạn

văn 11 bài: Khóc Dương Khuê

 Soạn

bài Khóc Dương Kh

 Phân

tích bài thơ Khóc Dương Kh của Nguyễn Khuyến

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Phân tích
Khóc Dương Kh để cho thấy đây là khoảnh khắc tình bạn qn tử của
Nguyễn Khuyến. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới
thiệu tới các bạn học sinh tài liệu soạn bài lớp 11 ngắn gọn, soạn văn lớp
11, Đề thi học kì 2 lớp 11, các tài liệu môn Ngữ văn 11 mà VnDoc tổng
hợp và đăng tải.



×