Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về GIẢI PHÓNG dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.28 KB, 7 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHĨNG DÂN TỘC,
GIẢI PHÓNG GIAI CẤP, GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
Dân tộc Việt Nam có truyền thống u nước, sẵn sàng xả thân vì độc lập,
tự do của Tổ quốc. Trong lịch sử hànng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông
cha ta đã nhiều lần phải đương đầu với kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp bội
và từ thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm, đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm
và bài học quý báu. Trí tuệ đánh giặc, giữ nước là một trong những đỉnh cao của
trí tuệ Việt Nam.
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hành trang truyền
thống, bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc. Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin,
tìm hiểu thêm tư tưởng của một số nhà yêu nước lỗi lạc trên thế giới, nâng lên
tầm cao mới của thời đại, gắn quyện thành tư tưởng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
I. Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1. Khơng có gì q hơn độc lập, tự do.
- Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử. Từ những
hình thức cộng đồng thị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành nên các cộng
đồng dân tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự
do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành
chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề
dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do
của các dân tộc trở thành vấn đề thời đại.
- Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là độc lập,
tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Thấm đượm tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
Hồ Chí Minh nói: “Cái mà tơi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do,
Tổ quốc tôi được độc lập...”(1). Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí
Minh đã tìm hiểu Tun ngơn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp, Người hiểu rõ chân lý bất di bất


dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và quyền tự
do.
- Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được
các đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt
cho những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội nghị hịa bình Vécxây
một bản u sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Bản yêu sách đã không được dư luận chú ý đến. Người rút ra bài học: “Muốn


được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình, trơng cậy vào lực
lượng của bản thân mình”(2).
- Trong Chánh cương vắn tắt cũng như trong Lời kêu gọi sau khi thành lập
Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
“a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc lập”(3)
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8
của Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy”(4). Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc
lập, tự do của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: “Dù có phải đối cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập!”....
- Cách mạng Tháng Tám thành cơng, người thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc bản Tun ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước quốc dân đồng bào và
thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4).
- Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và
chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “... thà hy sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”(2).

- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam,
mở rộng chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân
lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại:“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”.
“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do” khơng chỉ là tư tưởng mà cịn là lẽ
sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người khơng chỉ được
tơn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà cịn được thừa
nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc
địa trong thế kỷ XX”.
2. Kết hợp nhuần nhuyển dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cần
được tiến hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc
để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có
ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời đại cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Theo Người, chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng
vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
- Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí
Minh tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường của cách
mạng vơ sản. Người viết rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với
sự nghiệp của vơ sản tồn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút


ít thắng lợi trong một nước nào đó,... thì đó càng là thắng lợi cả cho người An
Nam”(5).
- Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số đảng
cộng sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trị, vị trí cũng như
tương lai của cách mạng thuộc địa. Người đưa ra dư luận điểm: các dân tộc
thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đồn kết,
ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu
tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng

dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự
nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
- Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
thể hiện ở những luận điểm sau đây:
+ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất
nước.
Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương
Đơng, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương
Đông: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” (6); “Người ta sẽ khơng
thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và
duy nhất của đời sống xã hội của họ”(7). Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương
lĩnhhành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân
danh Quốc tế Cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,... nhất định
chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”(8).
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi gặp được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và
thuộc địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp,
dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bài Cuộc kháng
chiến viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nói về giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”(4).
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh
xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi tới xã hội
cộng sản (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
lao động trên tồn thế giới khỏi ách nơ lệ”(5).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng

dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.
+ Độc lập cho dân tộc mình đồg thời độc lập cho tất cả các dân tộc.


Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm
phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh khơng chỉ đấu
tranh cho độc lập của dân tộc mình mà cịn đấu tranh cho độc lập của tất cả các
dân tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa u nước chân chính ln luôn
thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Ngay từ năm 1941, trên đất Anh, Người nói: “Chúng ta phải tranh đấu
cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”.
Người đã nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung
Quốc cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu
hiệu “Giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách
mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
+ Giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của con
người.
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ thương nước, thương nịi, Hồ Chí
Minh ln ln gắn liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại hạnh
phúc cho nhân dân.
Người lựa chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vơ sản
chính vì cách mạng vơ sản khơng chỉ giải phóng giai cấp cơng nhân mà cịn giải
phóng mọi giai cấp và tầng lớp khác thốt khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp.
Người nói: giành độc lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã
hội “làm cho dân giàu, nước mạnh”,... “làm cho mọi người được ăn no, mặc
ấm, sung sướng, tự do”.
Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở
thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Khi chưa giành được độc

lập, Người thể hiện ý chí độc lập bằng câu nói“dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”. Nhưng sau đó Người
nói: “Nếu nước độc lập mà dân khôn được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”(9). Do đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân
tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí minh
viết: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc,... đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(2).
Như vậy, tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người ln ln gắn chặt, hịa quyện với nhau trong ttư tưởng Hồ Chí minh.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có
thể tóm tắt thành một hệ thống các luận điểm như sau:
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo con
đường của cách mạng vô sản.
- Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào
thực tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh ln


luôn khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng
có con đường nào khác là cách mạng vô sản.
- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa
đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vịi bám vào chính quốc, một vịi bám vào
thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vịi
của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vơ sản ở chính quốc với cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong
những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vơ
sản.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc

thành cơng “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới
thành cơng”(10)
- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(2).
- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai
cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của
Lênin.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của tồn dân,
trên cơ sở liên minh cơng – nơng.
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không
phải việc việc của một hai người”, vì vậy phải đồn kết tồn dân, “sĩ, nơng,
cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó,
Người khẳng định cái cốt của nó là cơng – nơng, “cơng nơng là người chủ cách
mệnh... công nông là gốc cách mệnh”(11).
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận
động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị
làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức
mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.
- Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp
nhân dân vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng phải
hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, Thanh niên, Tân Việt... để
kéo họ đi vào phe vơ sản giai cấp. Cịn đối với phú nông, trung, tiểuđịa chủ và
tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm
cho họ đứng tập trung...(12)
- Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc
chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp:
“công nông là gốc cách mệnh; cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị
tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn



cách mệnh của công nông thôi”(13). Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất
cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào
đường thỏa hiệp”(14).
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan
điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi
của cách mạng vơ sản ở chính quốc. Quan điểm này vơ hình trung đã làm giảm
tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại
Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận
mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở
các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở
các thuộc địa”(15); “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang
tập trung ở các thuộc địa”(16), nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức
là “muốn đánh chết rắn đằn đuôi”(6).
- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp cơng nhân
phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp cơng nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận
điểm: “Cơng cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”(6).
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ
nghĩa đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà có thể
giành thắng lợi trước.
- Khẳng định vị trí và vai trị của cách mạng giải phóng thuộc địa trong
mối quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ
tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế
quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm
vụ giải phóng hồn tồn”(17).

Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận
và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường
bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang
trong nhân dân.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ
Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương.
Theo Người, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa
quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí
Minh bắt nguồn từ sự phân tích vai trị của quần chúng nhân dân, bản chất phản
động của chính quyền thực dân Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt


Nam, của cách mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ
XX.
- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra
nhận định: Cuộc cách mạng Đơng Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ
trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa
phương.. mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung
ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng
các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động
đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong
vòng 10 ngày đã giành được chính quyền trong cả nước.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của
Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo,
bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự
nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách
mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

(1)

T.Lan: vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.15.
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Nà
Nội,1986, tr.31.
(3) (4)
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.3, tr.1, 198.
(4) (2)
Sđd, t.4, tr.4, 480.
(5)
Sđd, t.1, tr.469.
(6) (2) (3)
, , Sđd, t.1, tr.466,467.
(7)
. Sđd, tr.416.
(8)
. Sđd, t.10, tr.128.
(9) (2)
, . Sđd, t.4, tr.56, 161.
(10) (2)
, . Sđd, t.2, tr.267-268.
(11)
. Sđd, tr.266.
(12)

Sđd, t.3, tr.3.
(13)
Sđd, t.2, tr.266.
(14)
Sđd, t.3, tr.3
(15) (5) (6)
, , . Sđd, t.1, tr.273, 274.
(16)
Sđd, t.2, tr.128.
(17)
Sđd, t.1, tr.36.
(2)



×