Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận triết học mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên trong hoạt động tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.85 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Mỗi bộ mơn khoa học đều có hệ thống phạm trù riêng của mình, phản ánh những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa học
mà nó nghiên cứu. Đối với phạm trù của phép biện chứng duy vật là những khái niệm
chung nhất, phản ánh những mặt, thuộc tính của tồn bộ thế giới hiện thực bao gồm cả
tự nhiên, xã hội và tư duy vào các cặp phạm trù cơ bản như: cái riêng và cái chung;
nguyên nhân và kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên.... Tất cả các cặp phạm trù trên đều có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng trong lĩnh vực tự nhiên cũng như xã hội, đặc biệt trong các
hoạt động Tài chính - Ngân hàng, là một quá trình kết hợp giữa chủ quan và khách quan,
nên cần có phương pháp tư duy và nhận thức đúng đắn về vai trò, những đặc trưng cơ
bản, các nguyên lý cơ bản và các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tế quan trọng đó, cá nhân em đã lựa chọn đề tài phân
tích “Mối quan hệ biện chứng giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên trong hoạt động
Tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Hai Bà Trưng”.
Đề tài sẽ đi sâu vào phân tích cặp phạm trù tất nhiên – ngẫu nhiên, mối quan hệ biện
chứng giữa cặp phạm trù này và liên hệ thực tế trong hoạt động Tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Hai Bà Trưng (VietinBank Hai Bà Trưng) để
từ đó rút ra những kinh nghiệm nhằm cải thiện, nâng cao hiệu quả trong hoạt động Tín
dụng, góp phần vào tiến trình tăng trưởng và phát triển của VietinBank Hai Bà Trưng.
Mục đích nghiên cứu:
+ Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên và phương pháp
luận của mối quan hệ đó.
+ Liên hệ thực tiễn thể hiện mối quan hệ đó trong hoạt động Tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Hai Bà Trưng (VietinBank Hai Bà
Trưng).
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng: Cặp phạm trù cơ bản tất nhiên và ngẫu nhiên cũng như mối quan hệ
biện chứng của cặp phạm trù này.



+ Phạm vi nghiên cứu: Thể hiện của cặp phạm trù này trong phạm vi hoạt động
Tín dụng tại VietinBank Hai Bà Trưng
Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu em có sử dụng các Phương pháp so sánh, phân tích,
tổng hợp để làm rõ các nội dung cụ thể và chính xác.
Nội dung:
Ngồi lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo ở phần cuối, bài tiểu luận gồm
02 chương:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về lý luận.
Chương 2: Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên trong hoạt động
Tín dụng tại VietinBank Hai Bà Trưng.


CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN
Những vấn đề lý luận chung về phép biện chứng:
I.1. Sơ lược về Biện chứng:
Khái niệm: Thuật ngữ “biện chứng” xuất hiện từ thời kỳ cổ đại. Trong triết học
Hy Lạp lúc bấy giờ, thuật ngữ này được hiểu là nghệ thuật tranh luận, đàm thoại, thông
qua sự tranh luận mà người ta tìm ra chân lý. Do đó, thuật ngữ “biện chứng” được coi là
nghệ thuật phát hiện và tìm ra chân lý… Về sau thuật ngữ “biện chứng” bao quát một
phạm vi rộng lớn hơn và được sử dụng để chỉ một phương pháp nhìn nhận, xem xét thế
giới – phương pháp biện chứng.
Ngày nay, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác,
chuyển hoá và vận động phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng
khách quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh
biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người.
Phép biện chứng là khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự

phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.
I.2. Phép biện chứng duy vật:
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ăngghen cho rằng: Phép biện
chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến, Ăngghen định nghĩa: Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ
biến; khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển, Lênin định nghĩa: Phép biện
chứng là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hồn bị nhất, sâu sắc nhất và không
phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức con người, nhận thức này phản
ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng.
Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác-Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới
quan duy vật khoa học. Đây là sự khác biệt về trình độ phát triển so với các tư tưởng
biện chứng đã từng có trong lịch sử triết học. Thứ hai, trong phép biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác-Lênin có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan (duy vật biện

I.


chứng) và phương pháp luận (biện chứng duy vật), do đó nó khơng dừng lại ở sự giải
thích thế giới mà cịn là cơng cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản nói trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trị là một
nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng
thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo
trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Khái lược về phạm trù triết học:
II.1. Định nghĩa về phạm trù:
Trong quá trình suy nghĩ, con người thường xuyên phải sử dụng những khái niệm
nhất định như “người”, “động vật”, “kim loại”, vv… Những khái niệm đó là hình thức

của tư duy để phản ánh những mặt, những thuộc tính quan trọng nhất của lớp sự vật,
hiện tượng nhất định. Tuỳ thuộc vào số lượng của sự vật, hiện tượng được khái niệm
phản ánh mà ta có các khái niệm rộng, hẹp khác nhau.
Phạm trù là khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những
mối liên hệ chung và cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện
thực nhất định.
Mỗi bộ môn khoa học đều có phạm trù riêng của mình. Chẳng hạn, vật lý học có
các phạm trù năng lượng, khối lượng…; trong sinh học có phạm trù biến dị, di truyền,
…; trong kinh tế học có các phạm trù hàng hóa, giá trị, mỹ học có các phạm trù cái đẹp,
cái bi, cái hài… v.v…
Phạm trù của phép biện chứng duy vật là những khái niệm chung nhất, phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản phổ biến nhất của toàn bộ thế
giới hiện thực (bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy). Ví dụ như các phạm trù: vật chất,
ý thức, mâu thuẫn, nguyên nhân, kết quả, bản chất, hiện tượng.v.v... phản ánh những mối
liên hệ phổ biến không chỉ của tự nhiên mà cả xã hội và tư duy của con người. Giữa
phạm trù của các khoa học cụ thể và phạm trù của phép biện chứng có mối quan hệ biện
chứng với nhau, đó là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
II.2. Bản chất của phạm trù:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng:
- Phạm trù được hình thành trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn.

II.


Mỗi phạm trù là kết quả của giai đoạn nhận thức trước đó, đồng thời là điểm tựa cho giai
đoạn nhận thức kế tiếp để con người đi sâu tìm hiểu bản chất của sự vật. Vì vậy, Lênin
cho rằng, các phạm trù là những bậc thang của quá trình nhận thức.
- Là kết quả của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn, các phạm trù
phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ tương ứng vốn có trong bản thân hiện
thực. Vì vậy, nội dung của chúng mang tính khách quan, bị thế giới khách quan quy định

(mặc dù hình thức tồn tại của phạm trù là chủ quan). Do đó, phạm trù là những hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
- Vì thế giới khách quan luôn ở trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng;
cho nên nội dung của các phạm trù cũng thay đổi và phát triển theo, hệ thống các phạm
trù cũng ngày càng được bổ sung bằng những phạm trù mới hơn.
Phép biện chứng duy vật đã khái quát một số cặp phạm trù mà mối liên hệ giữa
chúng mang tính quy luật, phản ánh những mặt khác nhau cơ bản, phổ biến nhất và bền
vững của thế giới khách quan, trong đó có cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
Cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên (tất yếu) là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật
chất quyết định và trong những hiện tượng nhất định, nó phải xảy ra đúng như thế chứ
không thể khác được.
Ngẫu nhiên là cái không phải do mối quan hệ bản chất của các kết cấu vật chất,
bên trong sự vật quyết định mà do những yếu tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hồn
cảnh bên ngồi quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện, có thể khơng xuất hiện, có thể
xuất hiện như thế này hoặc có thể xuất hiện như thế khác. Về ngữ nghĩa, thuật ngữ “ngẫu
nhiên” ở đây được dùng theo nghĩa “không phải do mối quan hệ bản chất của các kết
cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do những yếu tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp
nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định”, cịn có thể hiểu là tính chất “tùy cơ”. Nội hàm
như vậy hơi khác với nghĩa thông dụng của từ “ngẫu nhiên” trong tiếng Việt hiện đại là
“xảy ra khơng thể dự đốn được”.
Ví dụ như đã là nhà tư bản thì tất yếu phải bóc lột sức lao động của cơng nhân.
Điều đó do bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định. Nhưng nhà tư bản
tiến hành sản xuất cái gì: ơ tơ, vải vóc, hay vũ khí chất độc, và bóc lột cơng nhân như thế
nào... thì lại là cái ngẫu nhiên vì nó do những nguyên nhân riêng biệt như: sự tác động

III.


của quy luật cung-cầu trong thị trường; điều kiện thuận lợi hay khó khăn về nguyên vật

liệu, về cơ sở hạ tầng, về thị trường tiêu thụ, hoặc do những điều kiện cá nhân v.v.. để
nhà tư bản lựa chọn sản xuất mặt này hay mặt kia.
Khi phân biệt phạm trù tất nhiên và phạm trù ngẫu nhiên cần chú ý:
Không đồng nhất phạm trù tất nhiên với phạm trù “cái chung”. Bởi vì, phần lớn
cái chung được quyết định bởi bản chất nội tại, bởi quy luật bên trong của sự vật khi đó
cái chung gắn liền với cái tất nhiên, nhưng cũng có cái chung chỉ là những thuộc tính
được lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật riêng lẻ, khi đó cái chung là hình thức thể hiện của cái
ngẫu nhiên.
Vì vậy, có cái chung là tất nhiên, nhưng cũng có cái chung là ngẫu nhiên.
Thuộc tính “biết chế tạo cơng cụ lao động và có ngơn ngữ” là cái chung của con
người. Cái chung này đồng thời cũng là cái tất nhiên, vì nó được nảy sinh do tác động
của bản thân quy luật nội tại của q trình hình thành con người. Nhưng có cái chung là
cái ngẫu nhiên, như trong cuộc thi tuyển viên chức của một cơng ty viễn thơng nọ, có rất
nhiều người dự thi từ nhiều trường đại học khác nhau, nhưng những người được tuyển
chọn đều là sinh viên được đào tạo tại Học viện cơng nghệ bưu chính viễn thơng. Đó là
sự trùng hợp hồn tồn ngẫu nhiên. Điều đó chứng tỏ rằng khơng phải cái chung nào
cũng là tất nhiên.
Cả ngẫu nhiên và tất nhiên đều có nguyên nhân. Sự khác nhau giữa chúng chỉ là ở
chỗ cái tất nhiên gắn liền với nguyên nhân cơ bản, nội tại của sự vật, còn ngẫu nhiên là
kết quả tác động của một số ngun nhân bên ngồi. Ví dụ: Học và thi hết mơn học đó là
tất nhiên, nhưng trong q trình học tập có những sinh viên học chăm chỉ, hiểu bài thì tất
nhiên họ sẽ là bài tốt, nhưng cũng có những sinh viên học lệch, học tủ những nội dung
mà họ cho là quan trọng, và khi bốc thăm đề thi, có thể họ bốc đề trúng phần họ học tủ
và họ làm bài được đó chính là ngẫu nhiên.
Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có quy luật. Sự khác nhau ở chỗ: tất nhiên được
tuân theo một loại quy luật được gọi là quy luật động lực: khi biết trạng thái ban đầu của
hệ thống nào đó ta có thể tiên đốn chính xác trạng thái tương lai của nó (các định luật
của quy luật Newton là ví dụ cụ thể về quy luật động lực). Còn cái ngẫu nhiên tuân theo
quy luật thống kê: nếu biết trạng thái ban đầu của của một hệ thống nào đó, ta khơng thể
tiên đốn được trạng thái của nó trong tương lai một cách chắc chắn mà chỉ có thể tiên

đốn được với một xác suất nhất định.


Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con
người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật.
Trong q trình phát triển của sự vật, khơng phải chỉ có cái tất nhiên mà cả cái
ngẫu nhiên đều có vai trị quan trọng. Nếu cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát
triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên ảnh hưởng tới sự phát triển đó, có thể làm cho sự
phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm.
Như Ăng-ghen đã nói “Ở đâu mà cái ngẫu nhiên hình như tác động mặt ngồi thì
ở đấy bao giờ tính ngẫu nhiên ấy cũng phải phục tùng những quy luật nội tại ẩn giấu.
Toàn bộ vấn đề chỉ là phát hiện những quy luật đó”.
Tất nhiên và ngẫu nhiên cùng tồn tại trong một sự thống nhất hữu cơ, phi
thuần túy.
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không bao giờ tồn tại một cách
biệt lập với nhau dưới dạng thuần túy, mà bao giờ cũng cùng nhau tồn tại trong sự thống
nhất hữu cơ. Sự thống nhất đó được thể hiện ở chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện
sự tồn tại của mình thơng qua vơ số cái ngẫu nhiên. Cịn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu
hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên.
Điều đó có nghĩa là, cái tất nhiên bao giờ cũng là khuynh hướng chủ yếu của sự
phát triển, nhưng khuynh hướng ấy mỗi khi tự bộc lộ mình thì bao giờ cũng phải phải
bộc lộ ra dưới một hình thức ngẫu nhiên nào đó. Hơn nữa, bản thân cái tất nhiên ấy chỉ
có thể được tạo nên từ những cái ngẫu nhiên (tất cả những cái ngẫu nhiên ta thấy trong
hiện thực không phải là ngẫu nhiên thuần tuý mà là những ngẫu nhiên trong đó đã bao
hàm cái tất nhiên, che giấu cái tất nhiên nào đó).
Trong những thư từ trao đổi về triết học, Ăng-ghen cũng ghi nhận rằng cái tất yếu
như là khuynh hướng chung của sự phát triển và khuynh hướng đó khơng tồn tại thuần
túy, biệt lập, mà được thể hiện dưới hình thức cái ngẫu nhiên. Trong cái ngẫu nhiên ẩn
giấu cái tất yếu: “Cái mà người ta quả quyết là tất yếu thì lại hồn tồn do những cái

ngẫu nhiên thuần túy cấu thành, và được gọi là ngẫu nhiên lại là hình thức trong đó ẩn
nấp cái tất yếu”.
Các Mác đánh giá vai trị khơng thể phủ nhận của nhân tố ngẫu nhiên trong tiến
trình lịch sử, ơng cho rằng: Lịch sử sẽ mang tính chất thần bí nếu tất cả những cái ngẫu

IV.


nhiên khơng có tác dụng gì cả. Những ngẫu nhiên này chính là một bộ phận trong tiến
trình chung và sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào cái ngẫu nhiên, kể
cả những cái ngẫu nhiên rất nhỏ. Thí dụ như: cá tính của những người lúc đầu lãnh đạo
phong trào.
Trên lĩnh vực xã hội cũng như vậy, chẳng hạn sự xuất hiện nhân vật xuất sắc trong
lịch sử là một tất nhiên do nhu cầu của xã hội cần giải quyết những nhiệm vụ đã chín
muồi. Nhưng ai sẽ giữ vai trò lịch sử ấy lại là ngẫu nhiên. Nếu ta gạt bỏ người ấy thì sẽ
xuất hiện nhu cầu phải có một người khác thay thế, và sớm hay muộn, người thay thế
này sẽ xuất hiện, tốt hơn hay xấu hơn, nhưng cuối cùng nhất định sẽ xuất hiện.
Như Ăng-ghen nhận xét: “sự xuất hiện các nhân vật xuất sắc trong lịch sử là tất
nhiên do nhu cầu xã hội phải giải quyết những nhiệm vụ chín muồi của lịch sử tạo nên.
Nhưng nhân vật đó là ai lại khơng phải là cái tất nhiên, vì cái đó khơng phụ thuộc vào
tiến trình chung của lịch sử. Nếu gạt bỏ nhân vật này thì nhân vật khác sẽ xuất hiện,
thay thế. Người thay thế này có thể tốt hơn hay xấu hơn, nhưng cuối cùng nhất định nó
phải xuất hiện”.
Sự xuất hiện lãnh tụ của giai cấp vơ sản có quan điểm duy vật về lịch sử giữa thế
kỷ 19 là nhu cầu tất yếu của sự phát triển của thực tiễn xã hội. Nhưng người đầu tiên đó
là C.Mác và P. Ăngghen lại là điều ngẫu nhiên. Có nhiều tài liệu cho thấy nếu C.Mác và
P. Ăngghen khơng nêu lên quan điểm đó thì sẽ có người khác nêu ra.
Như vậy, cái tất nhiên đã vạch đường đi cho mình xun qua vơ số những cái
ngẫu nhiên, cịn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, đồng thời là cái bổ xung
cho tất nhiên, làm cho cái tất nhiên được bộc lộ một cách sinh động cụ thể.

Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hố cho nhau.
Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự
thay đổi của sự vật và trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hố thành
ngẫu nhiên và ngược lại.
Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, việc trao đổi vật này lấy vật khác là việc hồn
tồn ngẫu nhiên. Vì khi đó, lực lượng sản xuất thấp kém, mỗi công xã chỉ sản xuất đủ
cho riêng mình dùng, Nhưng về sau, nhờ có sự phân công lao động, kinh nghiệm sản
xuất của con người cũng được tích luỹ, con người đã sản xuất được nhiều sản phẩm hơn,
dẫn đến có sản phẩm dư thừa. Khi đó, sự trao đổi sản phẩm trở nên thường xuyên hơn và
biến thành hiện tượng tất nhiên của xã hội.


Sự chuyển hóa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên cịn thể hiện ở chỗ, khi xem xét trong
mối quan hệ này, thơng qua mặt này thì sự vật, hiện tượng đó là cái ngẫu nhiên, nhưng
khi xem xét trong mối quan hệ khác thơng qua mặt khác thì sự vật, hiện tượng đó lại là
cái tất nhiên. Như vậy, ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối.
Do vậy không nên cứng nhắc khi xem xét sự vật, hiện tượng.
Ý nghĩa Phương pháp luận:
Vì cái tất nhiên là cái trong những điều kiện nhất định dứt khoát phải xảy ra và
phải xảy ra đúng như thế này chứ khơng thể thế khác, cịn cái ngẫu nhiên là cái có thể
xảy ra cũng có thể khơng xảy ra, có thể xảy ra thế này, cũng có thể xảy ra thế khác. Cho
nên, trong hoạt động thực tiễn, ta cần dựa vào cái tất nhiên chứ không thể dựa vào cái
ngẫu nhiên. Nhưng khơng phải vì thế mà có thể bỏ qua cái ngẫu nhiên, vì tuy cái ngẫu
nhiên không chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển
ấy, đơi khi có thể làm cho tiến trình phát triển bình thường của sự vật đột nhiên biến đổi,
thậm chí đến mức khác biệt. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn cần có các phương án
hành động dự phịng cho trường hợp các sự biến ngẫu nhiên xuất hiện. Có như vậy mới
tránh được bị động trong các hoạt động thực tiễn.
- Vì cái tất nhiên bao giờ cũng biểu lộ ra ngồi thơng qua cái ngẫu nhiên, vạch
đường đi cho mình thơng qua vơ số cái ngẫu nhiên, cho nên muốn nhận thức cái tất

nhiên cần bắt đầu từ nghiên cứu rất nhiều cái ngẫu nhiên.
- Cái ngẫu nhiên là hình thức trong đó ẩn nấp cái tất nhiên, cho nên trong hoạt
động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn không nên bỏ qua cái ngẫu nhiên, mà bao
giờ cũng phải chú ý tìm ra cái tất nhiên ẩn giấu đằng sau những cái ngẫu nhiên đó.
- Cái ngẫu nhiên khơng chỉ là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, mà còn là cái
bổ sung cho tất nhiên, do đó, ta phải nghiên cứu cái ngẫu nhiên để có thể biết cách ngăn
ngừa hạn chế những ngẫu nhiên có hại và lợi dụng những ngẫu nhiên có lợi.
- Không phải cái chung nào cũng đồng thời là cái tất nhiên, cho nên vạch ra được
cái chung chưa có ý nghĩa là đã vạch ra được cái tất nhiên. Đó mới chỉ là một bước trên
con đường vạch ra cái tất nhiên mà thôi.
- Trong những điều kiện nhất định, cái tất nhiên có thể biến thành cái ngẫu nhiên,
và ngược lại, cho nên cần chú ý tạo ra những điều kiện cần thiết hoặc để tạo điều kiện,
hoặc để ngăn trở sự chuyển hố đó diễn ra tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
V.


Tổng quan về nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như một doanh
nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối đa hố lợi nhuận. Ngân
hàng Thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay lại. So với các doanh
nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng hố của Ngân hàng Thương mại là một loại
hàng hố đặc biệt, đó là tiền vốn. Giá cả của loại hàng hố này biểu hiện ra bên ngồi là
các mức lãi suất huy động hoặc lãi suất cho vay, nó chịu tác động bởi quan hệ cung - cầu
vốn trên thị trường và trên cơ sở khoản lợi nhuận đạt được khi đưa vốn vay vào sản xuất
kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ yếu của hoạt động ngân hàng sẽ là khoản chênh lệch
giữa chi phí trả lãi huy động với thu nhập từ lãi cho vay. Để có hàng hố kinh doanh,
ngân hàng phải đưa ra một giá mua hợp lý cũng như đa dạng các hình thức huy động.
Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hố các hình thức cho vay nhằm phân tán
giảm thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh Ngân hàng Thương mại thực hiện các dịch vụ

trung gian hưởng hoa hồng. Ngày nay, hệ thống Ngân hàng Thương mại phát triển mạnh
mẽ, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Sự đa dạng và phong phú
các nghiệp vụ kinh doanh đã làm cho Ngân hàng Thương mại trở thành một tổ chức kinh
doanh không thể thiếu trong tiến trình phát triển kinh tế.
III.1. Nghiệp vụ nhận tiền gửi:
Đây là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhận được
các khoản tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của cá nhân,
của tổ chức và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi
đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng đến rút tiền ở ngân hàng.
III.2. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng:
Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ liên
quan đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực thanh tốn bình
thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ đặc trưng nhất của
Ngân hàng Thương mại. Nó tạo ra hình thức tín dụng ngân hàng và ngân hàng sẽ tiến
hành phân phối có trọng điểm nguồn vốn đã hình thành trong nghiệp vụ huy động, điều
tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh. Đối với ngân

VI.


hàng, đây là nghiệp vụ quan trọng nhất, sử dụng phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập
chủ yếu.
Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân thành:
• Căn cứ vào mục đích:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng
bất động sản nhà ở, đất đai.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp.

- Cho vay thuê mua và các loại khác.
• Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu được sử
dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các doanh
nghiệp.
- Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt năm
thì loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 năm. Tín dụng trung hạn thường sử dụng để
đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản
xuất, xây dụng các dự án mới có quy mơ nhỏ với thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm (Việt
nam). Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở,
các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mơ lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
• Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
- Cho vay khơng bảo đảm: là loại cho vay khơng có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào sự uy tín của bản thân khách
hàng.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải có
tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
• Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng:
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung
cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được thực hiện bằng
các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ...
- Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng,


ví dụ như tài trợ th mua.
• Căn cứ vào phương pháp hồn trả:
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.

Ngồi các loại cho vay trên, ngân hàng cịn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho
khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này, ngân hàng không phải
cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh khơng thực hiện được nghĩa vụ theo hợp
đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh tốn. Vì thế, nghiệp vụ này
cịn được gọi là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm: tín dụng chấp
nhận, tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.
III.3. Nghiệp vụ đầu tư:
Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng
khốn nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ chêch lệch thị giá
chứng khốn mua bán trên thị trường.
Ngồi ra, ngân hàng cịn thực hiện hùn vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp vốn
vào các doanh nghiệp để thành lập cơng ty, xí nghiệp mới.
III.4. Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại:
Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ nhằm
đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh doanh ngoại tệ cịn
góp phần thúc đẩy trong cơng tác thanh toán quốc tế, tài trợ cho xuất nhập khẩu...
III.5. Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng:
- Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ chuyển
tiền để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển tiền là chuyển tiền
bằng điện và chuyển tiền bằng thư.
- Thu chi hộ tiền hàng: Theo những lệnh uỷ nhiệm thu hoặc uỷ nhiệm chi, ngân
hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng chuyển trả tiền hàng
hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng khi nhận được chứng từ khách
hàng nhờ thu hộ...
- Nghiệp vụ uỷ thác: Là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác của
khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo quản chứng
khốn, vàng bạc, giấy tờ có giá... để hưởng hoa hồng.


CHƯƠNG II:

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN TRONG
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI VIETINBANK HAI BÀ TRƯNG
I.
Tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn:
- Khái quát về khu vực địa lý, tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn:
VietinBank Hai Bà Trưng có trụ sở chính đặt tại 285 Trần Khát Chân, Quận Hai
Bà Trưng và có 08 phịng Giao dịch đặt chủ yếu trong địa bàn Quận Hai Bà Trưng. Với
đặc thù là một trong bốn Quận nội thành Thành phố Hà Nội trước đây, kinh tế xã hội của
Quận phát triển rất ổn định và bền vững. Tuy nhiên, cũng như các Quận nội thành khác,
địa bàn Quận Hai Bà Trưng phát triển kinh doanh thương mại là chủ yếu, hoạt động sản
xuất của các nhà máy, xí nghiệp Nhà nước hầu hết đã được chuyển dịch sang các địa bàn
lân cận thành phố Hà Nội để đảm bảo mỹ quan cũng như môi trường sinh thái của nội
thành Hà Nội.
Với chủ trương đổi đất lấy hạ tầng, các khu đô thị mới đang tiếp tục được hình
thành tại khu vực phía Nam quận Hai Bà Trưng, nơi tiếp giáp với Quận Hoàng Mai; đây
là cơ hội và cũng là thách thức để chi nhánh tiếp cận, mở rộng đối tượng Khách hàng (cả
chủ đầu tư và Khách hàng mua nhà) để chiếm lĩnh thị phần, quảng bá hình ảnh của
Vietinbank ngày càng lớn mạnh trên địa bàn.
Với việc các dự án xây dựng các khu đô thị tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, mật
độ dân cư khu vực Hai Bà Trưng ngày càng lớn, năm 2021 mật độ dân cư của Quận đã
đạt mức gần 40.000 người /km2 (nguồn www.hanoi.gov.vn).
Về cơ cấu kinh tế, trên địa bàn tập trung các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh
nghiệp Tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể…..; các doanh nghiệp kinh doanh ô tơ, xe gắn
máy. Ngồi ra, cịn có rất nhiều trường học và bệnh viện nằm trên địa bàn.
- Số tổ chức tín dụng trên địa bàn, phân chia theo các loại hình:
Là quận trung tâm thuộc nội thành Hà Nội, do vậy hầu hết các Tổ chức tín dụng
như Ngân hàng TM Quốc doanh, Ngân hàng TMCP đều có chi nhánh và/hoặc phòng
Giao dịch đặt tại địa bàn quận Hai Bà Trưng. do vậy sự cạnh tranh thu hút nguồn vốn, dư
nợ, hoạt động thanh toán… trên địa bàn quận Hai Bà Trưng nói riêng và trên địa bàn
thành phố Hà Nội nói chung là rất gay gắt. Đặc biệt, các Ngân hàng TM Quốc doanh và

Ngân hàng TMCP Quốc doanh như BIDV, Agribank, Vietcombank đều có chi nhánh
cũng như các phòng Giao dịch đặt gần Trụ sở, phòng Giao dịch của VietinBank Hai Bà


Trưng, do vậy việc giữ vững và tăng trưởng ổn định quy mô và hiệu quả hoạt động của
chi nhánh cũng gặp phải nhiều trở ngại, thách thức lớn.
- Triển vọng, khó khăn:
Với địa bàn có hoạt động kinh doanh thương mại rất đa dạng, do vậy chi nhánh có
cơ hội tiếp cận, mở rộng phân khúc khách hàng Bán lẻ, đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm
khách hàng sản xuất kinh doanh trên địa bàn để có thể đa dạng hóa danh mục khách
hàng, sản phẩm cho vay cũng như sản phẩm huy động.
Bên cạnh đó, với các khu đơ thị, các tòa nhà chung cư đang được triển khai trên
địa bàn thì việc đẩy mạnh sản phẩm cho vay cả chủ đầu tư và người mua nhà cũng là
mục tiêu được chi nhánh đặt ra trong công tác mở rộng hoạt động Bán lẻ theo định
hướng của VietinBank.
- Nhận định về tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, dư nợ trên địa bàn:
Như đã trình bầy ở trên, quận Hai Bà Trưng là một trong bốn quận nội thành cũ
của thành phố Hà Nội, do vậy việc tăng trưởng mạnh mẽ nguồn vốn, dư nợ từ các Khách
hàng Bán lẻ và Khách hàng Doanh nghiệp trên địa bàn quận là hết sức khó khăn do các
đối tượng Khách hàng này đã có quan hệ mật thiết với các TCTD. Để tạo sự đột phá
trong công tác huy động vốn và cho vay, chi nhánh đã tiếp cận và đẩy mạnh hoạt động
thu hộ Kho bạc Nhà nước quận Hai Bà Trưng, đang tiếp cận các trường học, bệnh viện
trên địa bàn để có thể cung cấp sản phẩm thu hộ học phí, viện phí từ đó thu hút, tăng
trưởng được nguồn vốn giá rẻ và có tính ổn định tương đối cao.
- Phân tích đặc điểm ngành nghề trên địa bàn: các ngành nghề thế mạnh trên địa
bàn, tính mùa vụ
Là quận trung tâm của thành phố Hà Nội, có rất nhiều tuyến phố sầm uất như phố
Bà Triệu, phố Huế, Lò Đúc… và các chợ truyền thống như chợ Hơm Đức Viên, chợ Hịa
Bình, chợ Đồng Tâm… do vậy ngành nghề thế mạnh trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
chủ yếu liên quan đến hoạt động kinh doanh thương mại.

Bên cạnh đó, trên địa bàn quận cịn có các bệnh viện và trường đại học lớn, do
vậy mật độ dân cư luôn ở mức cao, nhu cầu nhà ở, dịch vụ đi kèm cũng tương đối phát
triển. Địa bàn quận hiện cũng đang triển khai rất nhiều dự án đầu tư xây dựng các khu
căn hộ cao cấp, chung cư…
- Phân tích cạnh tranh:
Trên địa bàn quận Hai Bà Trưng hiện có hầu hết các chi nhánh/Phịng Giao dịch


của các Tổ chức Tín dụng. Hiện các NHTM Cổ phần quốc doanh như VCB, BIDV cũng
như các NHTM Cổ phần tư nhân có quy mơ ở mức khá như Techcombank, MB, VPB…
cũng đang cạnh tranh rất gay gắt để tăng trưởng quy mô hoạt động; đặc biệt các NHTM
Cổ phần có cơ chế lãi suất huy động rất cạnh tranh để thu hút nguồn tiền gửi;
Về phí dịch vụ, một số NHTM Cổ phần miễn phí dịch vụ khi chuyển tiền/thanh
toán qua internet banking như Techcombank, PVCombank.. dẫn đến việc khách hàng
thường xuyên có phản hồi, so sánh về mức phí hiện Vietinbank đang áp dụng.
II.

Kết quả hoạt động kinh doanh của VietinBank Hai Bà Trưng:
Tốc độ tăng trưởng của VietinBank Hai Bà Trưng trong 05 năm vừa qua

TT

1

2
3

4
5


Chỉ tiêu

Nguồn vốn
cuối kỳ
KHDN
Cá nhân
Khác
Nguồn vốn
bình quân
Dư nợ cuối
kỳ
KHDN
Cá nhân

nợ
bình quân
Nợ xấu /
∑Dư nợ

So sánh với
năm trước

Số liệu
31/12
/2017

Số liệu
31/12
/2018


(+,-)

9.238

10.242

4.927

5.953

3.135
1.176

So sánh với
năm trước

(%)

Số liệu
31/12
/2019

(+,-)

1.004

10,87

12.450


1.026

20,82

3.834

699

455

-721

8.173

9.574

5.489

So sánh với
năm trước

(%)

Số liệu
31/12
/2020

(+,-)

(%)


Số liệu
31/12
/2021

2.208

21,56

14.191

1.741

13,98

7.415

1.462

24,56

8.653

1.238

22,30

3.962

128


3,34

4.918

61,31

1.073

618

135,8

620

1.401

17,14

11.485

1.911

19,96

12.728

5.694

205


3,73

5.852

158

2,78

5.256

5.463

207

3,94

5.387

-76

233

231

-2

-0,86

465


234

4.376

4.382

6

0,14

5.277

895

20,42

0,67

0,70

0,03

0,71

0,01

So sánh với năm
trước
(+,-)


(%)

14.664

473

3,33

16,70

9.210

557

6,44

956

24,13

5.207

289

5,88

-453

42,22


247

-373

-60,16

1.243

10,82

14.081

1.353

10,63

6.913

1.061

18,13

7.079

166

2,40

-1,39


5.773

386

7,16

5.989

216

3,74

101,3

1.140

675

145,2

1.090

-50

-4,38

6.164

887


16,81

6.808

644

10,45

0,26

-0,45

0,06

-0,02

6

Nợ XLRR

16,11

6,36

-9,75

-60,5

35,47


29,11

457,7

29,78

-5,69

16,04

13,81

-15,97

-53,63

7

Thu
vụ

15,1

15,7

0,6

3,97


21

5,3

33,76

22,7

1,7

8,09

30,6

7,9

34,8

8

Lợi nhuận

157

150

-7

-4,46


191

41

27,33

218

27

14,14

296

78

35,78

-

9,75

9,75

-

0,69

-9,06


1.313

5,69

5.00

724,7

20,67

14,98

263,3

10,4
11,2

10,9
12,1

0,5
0,9

11,3
13,5

0,4
1,4

12,9

14,3

1,6
0,8

13,4
14,7

0,5
0,4

9
10

dịch

Thu
nợ
XLRR
Thị phần
Cho vay
HĐV

Từ năm 2017 đến hết năm 2021, quy mô và hiệu quả hoạt động kinh doanh của Chi
nhánh Hai Bà Trưng có sự tăng trưởng ổn định qua các năm.


a. Về nguồn vốn

Nguồn vốn tại Chi nhánh tăng trưởng rất ổn định và đồng đều; nguồn vốn từ phân

khúc KHDN và Khách hàng Bán lẻ liên tục tăng trưởng mạnh đặc biệt là phân khúc KHDN.
Ở phân khúc nguồn vốn Khách hàng Khác, nguồn vốn huy động từ Định chế Tài chính đã
được cơ cấu giảm dần thay vào đó là nguồn vốn giá rẻ và có tính ổn định cao hơn là nguồn
vốn Kho bạc Nhà nước.
Có thể thấy, nguồn vốn có tính ổn định cao từ thị trường 1 (Khách hàng Doanh
nghiệp và Khách hàng Bán lẻ) của Chi nhánh tăng trưởng rất ổn định theo đúng định hướng
của NHCTVN về việc tăng trưởng thị phần và quy mô hoạt động. Nguồn vốn Khách hàng
khác đã được cơ cấu giảm dần, giảm nguồn vốn từ các khách hàng thiếu tính ổn định (các
TCTD, ĐCTC) thay vào đó là tập trung huy động ở các khách hàng có nguồn vốn ổn định
và chi phí thấp hơn như Tiền gửi Kho bạc Nhà nước….
Về cơ cấu nguồn vốn: Nguồn vốn phân khúc KHDN tại Chi nhánh tiếp tục tăng
trưởng và chiếm tỷ trọng lớn về quy mô trong tổng nguồn vốn tại chi nhánh. Nguồn vốn
phân khúc Khách hàng Bán lẻ cũng đã có sự tăng trưởng về quy mô và tỷ trọng trong tổng
nguồn vốn của chi nhánh. Dự kiến sẽ là đối tượng tăng trưởng chủ lực tại chi nhánh trong
các giai đoạn tiếp theo.
Xét theo kỳ hạn, nguồn vốn trong giai đoạn 2017 – 2021 tăng trưởng mạnh ở tiền gửi
có kỳ hạn nên đảm bảo sự ổn định trong tăng trưởng nhưng vẫn duy trì tốt tỷ trọng tiền gửi
không kỳ hạn và các kỳ hạn có hiệu quả sinh lời cao.

Phân theo loại tiền, nguồn vốn ngoại tệ giai đoạn 2017 – 2021 tăng trưởng nhanh cả
về tuyệt đối lẫn tương đối, được Chi nhánh tập trung phát triển khi lãi suất huy động USD
đối với toàn bộ các đối tượng khách hàng giảm về 0% theo quy định của NHNN, dẫn tới
NIM huy động đối với nguồn tiền này lớn, hiệu quả trong hoạt động mua bán vốn cao. Tỷ
trọng tiền gửi ngoại tệ trên tổng nguồn vốn huy động đã tăng từ 8,3% trong năm 2017 lên
lần lượt 17,6% và 18,4% trong các năm 2020 và 2021.
b. Về dư nợ cho vay và đầu tư:

Cũng như nguồn vốn, dư nợ của chi nhánh tập trung chủ yếu tại phân khúc KHDN.
Tuy nhiên, dư nợ phân khúc Khách hàng Bán lẻ cũng đã có sự tăng trưởng rất mạnh trong
giai đoạn vừa qua; từ đó có đóng góp đáng kể vào kết quả hoạt động kinh doanh chung của

chi nhánh.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về mục tiêu tăng trưởng thị phần Bán lẻ, chi


nhánh thường xuyên bám sát các chỉ đạo của NHCT VN để có kế hoạch, chiến lược phù hợp
trong từng giai đoạn, từ đó tăng trưởng mạnh mẽ quy mơ hoạt động bán lẻ tại chi nhánh. Từ
năm 2015, với định hướng phân khúc mới của NHCTVN, Chi nhánh đã tập trung vào tăng
trưởng các phân khúc ưu tiên là bán lẻ và KHDN VVN. Dư nợ bình quân tăng trưởng ổn
định và chất lượng nợ được kiểm soát tốt.

Về kỳ hạn, tỷ trọng dư nợ trung hạn và dài hạn trên tổng dư nợ có xu hướng tăng
trong giai đoạn 2017 – 2021 do được Chi nhánh tập trung phát triển. Nhờ đó, dư nợ bình
qn tăng trưởng ổn định nhưng cũng kéo theo mức độ tập trung của dư nợ TDH tăng theo.
Trong thời gian tới, Chi nhánh có định hướng điều chỉnh giảm một chút mức độ tập trung
này theo hướng cân bằng hài hoà giữa tăng trưởng ổn định và đảm bảo quản lý rủi ro tín
dụng theo kỳ hạn.
Xét trên giác độ quản lý rủi ro tín dụng, trong giai đoạn 2017-2021, Chi nhánh cũng
đã giảm mức độ tập trung dư nợ vào 1 số khách hàng lớn, phát triển thêm nhiều khách hàng
mới trong quá trình tăng trưởng để đạt được mục tiêu phân tán dư nợ - dàn trải rủi ro, cụ
thể: Tại thời điểm cuối năm 2017, tỷ trọng tổng dư nợ của 03 KH lớn nhất Chi nhánh trên
tổng dư nợ là 65,8% (tỷ trọng dư nợ chi tiết lần lượt là 38,4%, 14,7% và 12,7%), đến hết
năm 2021 tỷ trọng này giảm xuống còn 48,1% (tỷ trọng dư nợ chi tiết lần lượt là 29,7%,
11,9% và 6,5%). Số lượng khách hàng vay tăng từ 1.659 khách hàng tại cuối năm 2017 lên
4.057 khách hàng cuối năm 2021.
Bên cạnh tăng trưởng quy mơ tín dụng, chất lượng nợ cũng được chi nhánh đặc biệt
lưu ý kiểm soát; do vậy tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ luôn ở mức dưới 1% trong giai đoạn
từ năm 2017 đến năm 2021. Năm 2021, tỷ lệ nợ nhóm 2, nợ xấu trên tổng dư nợ lần lượt là
0,13% và 0,06%. Đến thời điểm 31/10/2022, tỷ lệ nợ nhóm 2, nợ xấu trên tổng dư nợ vẫn
được kiểm soát ổn định ở mức 0,17% và 0,07%.
c. Thu phí dịch vụ

Phí dịch vụ cũng là một trong những chỉ tiêu được chi nhánh rất chú trọng thực hiện.
Ngồi các kênh thu phí truyền thống như nộp tiền, chuyển tiền… chi nhánh còn tập trung
đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh, tài trợ thương mại, chuyển lương, thanh tốn khơng dùng tiền
mặt….
Từ năm 2017 đến 2021, thu phí dịch vụ tại chi nhánh đã tăng hơn gấp 2 lần và là hoạt
động đem lại hiệu quả rất ổn định, bền vững cho chi nhánh.
Tốc độ tăng trưởng Phí dịch vụ giai đoạn 2017 -2021 (tỷ đồng)


d. Về Lợi nhuận

Mặc dù trong giai đoạn 2017-2021, kinh tế vĩ mơ gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên
cùng với quy mô tổng tài sản, chất lượng nợ được kiểm soát, lợi nhuận của chi nhánh tăng
trưởng ổn định. Từ đó làm cơ sở trong việc đảm bảo thu nhập của người lao động tại chi
nhánh.
Tốc độ tăng trưởng Lợi nhuận giai đoạn 2017 -2021 (tỷ đồng)

Xét về cơ cấu lợi nhuận, trong giai đoạn 2017-2021, bên cạnh việc tăng trưởng lợi
nhuận, Chi nhánh đã chú ý điều chỉnh cơ cấu thu nhập theo đúng định hướng của
NHCTVN: giảm phụ thuộc vào thu nhập từ tín dụng, tăng tỷ trọng thu nhập ngồi tín dụng,
đặc biệt tăng tỷ trọng thu phí dịch vụ.
Cơ cấu chi tiết lợi nhuận các năm (triệu đồng)
Chỉ tiêu
Thu phí dịch vụ

Năm 2017
Tuyệt đối
15.146

Năm 2019

%
9,64%

Tuyệt đối
21.094

Năm 2021
%

11,04%

Tuyệt đối
30.658

%
10,34%


Thu XLRR
LN từ HĐV
LN từ CV & ĐT
Tổng LN

-

0,00%

686

0,36%


20.673

6,97%

113.629

72,29%

139.061

72,75%

213.738

72,07%

28.407

18,07%

30.302

15,85%

31.505

10,62%

157.182


100%

191.143

100%

296.574

100%

II.
Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên thể hiện trong hoạt
động Tín dụng tại VietinBank Hai Bà Trưng:
Kết quả hoạt động các năm gần đây của VietinBank Hai Bà Trưng cho thấy hoạt
động Tín dụng vẫn là hoạt động cơ bản, chủ chốt đóng góp vào lợi nhuận, góp phần thúc
đẩy q trình tăng trưởng và phát triển của Chi nhánh. Việc ghi nhận kết quả hoạt động huy
động vốn hoặc cho vay tại các Chi nhánh của VietinBank đã được tách bạch rõ ràng để dễ
dàng đánh giá hiệu quả thông qua hoạt động mua bán vốn trực tiếp của từng nghiệp vụ huy
động, cho vay với Trụ sở chính. Đối với hoạt động Tín dụng, mỗi kỳ hạn, mỗi phân khúc,
phân nhóm khách hàng và tùy theo mục đích sử dụng vốn, Trụ sở chính có mức lãi suất mua
vốn niêm yết khác nhau theo từng thời kỳ.
Xét theo chiều chi tiết từ dưới lên, chênh lệch giữa mức lãi suất cho khách hàng vay
vốn với lãi suất mua vốn của Chi nhánh từ Trụ sở chính (lãi suất Trụ sở chính bán vốn) và tỷ
lệ các chi phí hợp lý cho hoạt động tín dụng bình quân của từng kỳ hạn và/hoặc phân khúc
khách hàng, nhóm mục đích sử dụng vốn vay là tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM – Net Interest
Margin) trong hoạt động tín dụng của từng kỳ hạn và/hoặc phân khúc khách hàng, nhóm
mục đích sử dụng vốn. Bình qn gia quyền theo quy mơ tại từng kỳ hạn/phân khúc/nhóm
mục đích sử dụng vốn của các NIM theo từng kỳ hạn và/hoặc phân khúc/nhóm mục đích sử
dụng vốn này sẽ là NIM bình qn chung của hoạt động tín dụng tại Chi nhánh. Tích số của

NIM của từng kỳ hạn, phân khúc, nhóm mục đích sử dụng vốn này với quy mơ dư nợ bình
qn của kỳ hạn, phân phúc hay nhóm mục đích sử dụng vốn tương ứng sẽ đưa ra được mức
thu nhập lãi thuần (NII – Net Interest Income) từ hoạt động tín dụng của kỳ hạn, phân khúc,
nhóm mục đích sử dụng vốn này này. Tổng NII của các kỳ hạn hoặc phân khúc, nhóm mục
đích sử dụng vốn hoặc tích số của NIM bình qn chung của hoạt động tín dụng với quy mơ
dư nợ bình quân chính là thu nhập lại thuần (NII) từ hoạt động tín dụng.
Như vậy, muốn cải thiện hiệu quả hoạt động tín dụng tại Chi nhánh cần tìm cách cải
thiện NIM bình qn chung của hoạt động tín dụng và/hoặc cải thiện mở rộng quy mô cho
vay.
II.1. Mối quan hệ biện chứng:
Phù hợp với quy luật vận động và phát triển, quá trình tăng trưởng và phát triển của


VietinBank Hai Bà Trưng là một quá trình tất yếu gắn liền với hoạt động tín dụng, hoạt
động cơ bản của Ngân hàng Thương mại nói chung và với VietinBank Hai Bà Trưng nói
riêng, góp phần thúc đẩy q trình tăng trưởng và phát triển của Chi nhánh. Hoạt động tín
dụng và cải thiện hoạt động tín dụng là những yếu tố tất nhiên, tất yếu, xuất phát từ những
nguyên nhân, yếu tố nội tại của Ngân hàng Thương mại nói chung và VietinBank Hai Bà
Trưng nói riêng để đơn vị tồn tại, tăng trưởng và phát triển.

a. Tính khách quan của cái tất nhiên và ngẫu nhiên trong hoạt động tín dụng
của VietinBank Hai Bà Trưng:
Theo quan điểm duy vật biện chứng, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan,
độc lập với ý thức của con người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật.
Điều này hoàn toàn đúng đối với hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại nói
chung và VietinBank Hai Bà Trưng nói riêng. Hoạt động tín dụng, tăng trưởng tín dụng là
yếu tố tất nhiên, tất yếu mà bất cứ Ngân hàng Thương mại nào muốn tồn tại và phát triển
đều phải làm, do nguyên nhân cơ bản nội tại quyết định và nó phải xảy ra như thế trong
những điều kiện nhất định. Còn cái ngẫu nhiêu ở đây chính là bất cứ quyết định cho vay cụ
thể nào, có thể là cho vay khách hàng cá nhân hay khách hàng doanh nghiệp, cho vay ngắn

hạn, trung hạn hay dài hạn, cho vay theo mục đích sử dụng vốn hoặc theo loại tiền VND
hay ngoại tệ. Các quyết định cho vay cụ thể này phụ thuộc những yếu tố bên ngoài, do sự
ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định như sự cạnh tranh của các Ngân hàng
Thương mại khác trong cùng lĩnh vực, tệp khách hàng hiện hữu và tiềm năng của Chi
nhánh, lạm phát/biến động tỷ giá ngoại hối, sự hấp dẫn của các kênh đầu tư khác như bất
động sản, chứng khốn, trái phiếu doanh nghiệp…. Ví dụ như các Ngân hàng Thương mại
khác trên địa bàn đang cạnh tranh quyết liệt và có ưu thế trong mảng tín dụng bán lẻ, buộc
VietinBank Hai Bà Trưng phải tập trung vào khai thác cho vay trong mảng KHDN mình có
lợi thế từ tệp KH hiện hữu và KH tiềm năng của mình. Từ đó có thể dẫn tới cho vay trong
phân khúc KHDN tăng, cho vay trong phân khúc KH bán lẻ có thể khơng biến động nhiều
hoặc suy giảm nếu bị các Ngân hàng khác cạnh tranh quyết liệt. Hay như khi kênh đầu tư
BĐS hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư tham gia đầu tư, kinh doanh mua bán kiếm lời có thể
dẫn tới tín dụng theo mục đích kinh doanh BĐS hoặc mua BĐS tiêu dùng tăng.
Cả hai đều tồn tại khách quan, độc lập nhưng các quyết định tín dụng/cho vay cụ thể
là cái ngẫu nhiên phụ thuộc những yếu tố bên ngoài nên ngay cả trong cùng VietinBank Hai
Bà Trưng, ở những thời điểm khác nhau, với những tác động khác nhau mang tính ngẫu hợp
có thể dẫn tới những quyết định huy động vốn khác nhau như đã nói ở trên.


b. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập
dưới dạng thuần túy cũng như khơng có cái ngẫu nhiên thuần túy trong hoạt động
tín dụng tại VietinBank Hai Bà Trưng:
Trong q trình hoạt động và phát triển của VietinBank Hai Bà Trưng, cả hoạt động
tín dụng và các quyết định tín dụng/cho vay cụ thể đều cùng tồn tại khách quan trong sự
thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất hữu cơ này thể hiện ở chỗ cái tất nhiên – hoạt
động tín dụng, tăng trưởng tín dụng bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thơng qua vơ
số cái ngẫu nhiên – các quyết định tín dụng/cho vay cụ thể tại từng thời điểm và những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Ví dụ như về tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn 2017 –
2021 của VietinBank Hai Bà Trưng như đã nêu trên, ta thấy hoạt động tín dụng, tăng trưởng
tín dụng gắn liền với việc tăng trưởng tín dụng trong từng phạm vi phân khúc khách hàng,

kỳ hạn, loại tiền hoặc nhóm mục đích sử dụng vốn thơng qua các quyết định tín dụng/cho
vay cụ thể trong từng thời điểm.
Cụ thể, xét theo phân khúc khách hàng, trong giai đoạn 2019-2021, trên cơ sở các
yếu tố về lãi suất mua vốn để cho vay thấp theo định hướng điều hành của NHNN, nguồn
vốn cho vay sẵn có với giá rẻ, khá thu hút với khách hàng và mức NIM trong phân khúc
KHDN Vừa và Nhỏ, KH bán lẻ tương đối tốt, các quyết định cụ thể tập trung cho vay trong
các phân khúc này đã làm dư nợ bình quân trong phân khúc tăng, là hình thức thể hiện ra
bên ngồi của tăng trưởng tín dụng, của hoạt động tín dụng của VietinBank Hai Bà Trưng.
Ở một góc nhìn khác về đảm bảo chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng
trong tăng trưởng tín dụng trong cùng giai đoạn này, xét theo mức độ tập trung dư nợ
vào 1 số khách hàng đã được điều chỉnh giảm theo định hướng phân tán dư nợ - dàn trải
rủi ro. Các quyết định tín dụng cụ thể này làm tỷ trọng dư nợ của 03 khách hàng lớn nhất
trên tổng dư nợ của VietinBank Hai Bà Trưng giảm từ 65,8% năm 2017 xuống còn
48,1% năm 2021. Các quyết định ngẫu nhiên, cụ thể này cũng giúp cho số lượng khách
hàng vay tăng từ 1.659 khách hàng cuối năm 2017 lên tới 4.057 khách hàng năm 2021
và quan trọng là tổng dư nợ cho vay trong giai đoạn này vẫn tăng trưởng gần 1.600 tỷ
đồng.
Mỗi quyết định cho vay/tín dụng cụ thể được coi là yếu tố ngẫu nhiên, là hình
thức của cái tất nhiên và cái tất nhiên là hoạt động tín dụng sẽ được bộc lộ một cách sinh
động, cụ thể qua những cái ngẫu nhiên, thể hiện rất rõ thông qua các khoản mục Vốn


huy động trong Bảng cân đối vốn kinh doanh của Ngân hàng nói chung và VietinBank
Hai Bà Trưng nói riêng.
Các quyết định cho vay/tín dụng cụ thể này có thể làm cho hoạt động tín dụng
hiệu quả hơn, tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh hơn nếu phù hợp các điều kiện khách
quan hoặc ngược lại nếu chưa phù hợp. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng phát triển, tăng
trưởng là quá trình tất yếu, khuynh hướng chung của quá trình hoạt động và phát triển
của VietinBank Hai Bà Trưng.
c. Sự chuyển hóa lẫn nhau giữa tất nhiên và ngẫu nhiên trong hoạt động tín

dụng ở VietinBank Hai Bà Trưng:
Theo quan điểm duy vật biện chứng, tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở
trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi của sự vật và trong những điều kiện nhất
định tất nhiên có thể chuyển hóa thành ngẫu nhiên và ngược lại. Bên cạnh đó, sự chuyển
hóa giữa ngẫu nhiên và tất nhiên còn thể hiện ở chỗ, khi xem xét trong mối quan hệ này,
thông qua mặt này thì sự vật hiện tượng đó là cái ngẫu nhiên, nhưng khi xem xét trong
mối quan hệ khác, thơng qua mặt khác thì sự vật, hiện tượng đó lại là cái tất yếu.
Trong quá trình hoạt động và phát triển tại Ngân hàng nói chung, hoạt động tín
dụng phát triển là yếu tố tất yếu, là cái tất nhiên. Tuy nhiên hoạt động này phát triển theo
hướng tăng trưởng về quy mô cho vay hay tăng trưởng về NIM – tỷ lệ thu nhập lãi thuần
hay cả hai là những ngẫu nhiên trong từng thời kỳ, phụ thuộc nhiều nhân tố bên ngoài
tác động như đã đề cập ở trên. Tuy nhiên, xem xét ở khía cạnh khác, ở những thời điểm
và đơn vị cụ thể khác nhau như về phân khúc hay nhóm mục đích sử dụng vốn tại
VietinBank Hai Bà Trưng trong giai đoạn 2019-2021 nêu trên, việc tăng trưởng về quy
mơ tín dụng trong phân khúc KHDN Vừa và Nhỏ và phân khúc KHBL là tất yếu đi kèm
với quá trình phát triển và tăng trưởng tín dụng. Cái ngẫu nhiên ở đây chính là việc cho
vay cụ thể ở khách hàng nào ở các phân khúc này, với mục đích sử dụng vốn cụ thể là gì.
Đối với từng phân khúc, từng nhóm khách hàng lại có nhiều khoản mục nhỏ tương ứng
với từng khách hàng cụ thể cần phải được đưa ra quyết định cho vay theo từng mục đích
sử dụng vốn khác nhau để có được con số hợp lý cân bằng từng khoản mục này trên
Bảng cân đối tài khoản, đảm bảo đem lại NIM và NII tối ưu trong hoạt động tín dụng ở
từng giai đoạn và hồn cảnh cụ thể. Tất cả tạo nên sự đa dạng trong việc đưa ra các
quyết định tín dụng/cho vay của các cấp quản trị và lãnh đạo tại VietinBank Hai Bà
Trưng.


Đây là một ví dụ nhỏ để cho thấy sự chuyển hóa giữa cái tất nhiên và ngẫu nhiên
trong hoạt động tín dụng tại VietinBank Hai Bà Trưng, qua đó thể hiện: trong một yếu tố
tất nhiên, tất yếu, có rất nhiều yếu tố ngẫn nhiên sẽ xảy ra, và đối với từng yếu tố ngẫu
nhiên sẽ xảy ra đó, đặt trong hồn cảnh khác, trong bối cảnh khác nó lại là một yếu tố tất

nhiên và vạch đường đi xuyên suốt cho nhiều yếu tố ngẫu nhiên khác.
II.2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận giữa cái tất nhiên và ngẫu nhiên trong
hoạt động tín dụng tại VietinBank Hai Bà Trưng để cải thiện hoạt động này:
Vì cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội
tại của sự vật, cịn cái ngẫu nhiên là cái khơng gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có
thể hoặc khơng xảy ra; có thể xảy ra thế này, cũng có thể xảy ra như thế khác. Do vậy,
trong hoạt động thực tiễn nói chung và hoạt động tín dụng tại VietinBank Hai Bà Trưng
nói riêng chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên mà không thể dựa vào cái ngẫu nhiên. Ví
dụ, các yếu tố tất nhiên gắn liền với nội tại đơn vị là các định hướng phát triển của ngân
hàng, cơ sở hạ tầng và công nghệ cốt lõi (core-banking), nguồn nhân lực nói chung và
kết quả kinh doanh dẫn tới việc điểm tín nhiệm của Ngân hàng, của VietinBank Hai Bà
Trưng tăng cao, từ đó làm tăng lượng khách hàng tìm đến VietinBank Hai Bà Trưng, khi
có nhu cầu vay vốn, dẫn tới gia tăng cho vay, tăng trưởng tín dụng.
Tuy nhiên, cũng khơng được bỏ qua hồn tồn cái ngẫu nhiên. Vì cái ngẫu nhiên
tuy khơng chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của
sự vật, đơi khi cịn có thể ảnh hưởng rất sâu sắc. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn tín
dụng/cho vay tại VietinBank Hai Bà Trưng, ngồi phương án chính chúng ta cần có
phương án hành động dự phịng để chủ động đáp ứng những sự biến đổi ngẫu nhiên có
thể xảy ra. Ví dụ trong giai đoạn 2017-2021 nêu trên, xét về phân khúc, phương án chính
trong hoạt động tín dụng/cho vay của VietinBank Hai Bà Trưng vẫn là quyết định cho
vay trong phân khúc KHDN, cụ thể là KHDN Lớn, tuy nhiên vẫn có phương án dự
phịng tăng trưởng tín dụng trong lĩnh vực bán lẻ nên trong 2 năm 2020 và 2021, khi
điều kiện ngẫu nhiên thay đổi do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 làm sản xuất đình


đốn, đứt gãy chuỗi sản xuất và cung ứng làm cho vay KHDN chậm tăng trưởng, nên đã
kịp thời ra các quyết định tín dụng/cho vay KHBL bổ sung, thay thế, giúp duy trì tăng
trưởng cho vay, đảm bảo cho hoạt động tín dụng. Hay như việc dự kiến quyết định cho
vay ở một/một nhóm khách hàng lớn của VietinBank Hai Bà Trưng theo phân khúc hay
mục đích sử dụng vốn, vẫn cần có phương án dự phịng cho vay/tín dụng khác đối với

nhóm khách hàng tiềm năng để có thể chủ động thay thế, chuyển hướng nếu có các biến
đổi ngẫu nhiên làm việc cho vay đối với một/một nhóm khách hàng lớn này gặp khó
khăn, thậm chí khơng thực hiện được.
Vì cái tất nhiên khơng tồn tại thuần túy mà bộc lộ qua vô vàn cái ngẫu nhiên. Do
vậy muốn nhận thức được cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích so
sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên. Vì khơng phải cái chung nào cũng là cái tất yếu, nên khi
nghiên cứu cái ngẫu nhiên không chỉ dừng lại ở việc tìm ra cái chung, mà cần phải tiến
sâu hơn nữa mới tìm ra cái chung tất yếu.
Cái ngẫu nhiên khơng chỉ là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, mà còn là cái
bổ sung cho tất nhiên. Do đó, trong hoạt động huy động vốn tại VietinBank Hai Bà
Trưng, ta phải nghiên cứu cái ngẫu nhiên để có thể biết cách ngăn ngừa hạn chế những
ngẫu nhiên có hại và lợi dụng những ngẫu nhiên có lợi. Một số ngẫu nhiên được phát
hiện trong quá trình huy động vốn tại VietinBank Hai Bà Trưng và phương án ngăn
ngừa, hạn chế hoặc lợi dụng:
- Cạnh tranh của các ngân hàng khác: các yếu tố ngẫu nhiên cạnh tranh của ngân
hàng khác về lãi suất huy động, thái độ phục vụ của nhân viên có thể tác động có hại đến
hoạt động huy động vốn của VietinBank Hai Bà Trưng. Bản thân VietinBank Hai Bà
Trưng cần phải nâng cao chất lượng phục vụ, thái độ ứng xử và chăm sóc khách hàng
của CBNV, cải thiện cơ sở vật chất để đảm bảo sự hài lòng của khách hàng. Bên cạnh
đó, VietinBank Hai Bà Trưng cần thường xuyên theo dõi, cập nhật diễn biến lãi suất của
các Ngân hàng khác trên thị trường để kịp thời báo cáo, tham mưu Trụ sở chính ban
hành điều chỉnh lãi suất cho phù hợp, đảm bảo khả năng cạnh tranh với các ngân hàng
khác.
- Biến động tỷ giá/đồng nội tệ mất giá hoặc suy thoái kinh tế dẫn tới nhu cầu


chuyển đổi một phần tài sản sang ngoại tệ để đảm bảo an tồn: những yếu tố ngẫu nhiên
này có thể ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn nội tệ (VND) nhưng cũng có thể
làm cho nguồn vốn ngoại tệ tăng trưởng. Vì vậy, VietinBank Hai Bà Trưng cần ưu tiên
quyết định huy động nguồn vốn ngoại tệ, bên cạnh đó thực hiện các chương trình ưu đãi,

tri ân, chăm sóc các khách hàng tiền gửi VND hiện hữu để duy trì, hạn chế suy giảm
nguồn vốn nội tệ…
- Sự hấp dẫn, thu hút nguồn vốn của các kênh đầu tư khác như chứng khoán, bất
động sản, bảo hiểm nhân thọ…: các yếu tố ngẫu nhiên này có thể “hút bớt” nguồn vốn
huy động của VietinBank Hai Bà Trưng. Vì vậy, VietinBank Hai Bà Trưng cần chủ động
phân nhóm khách hàng sớm, kể cả khách hàng hiện hữu và khách hàng tiềm năng,
khoanh vùng, lựa chọn ra nhóm khách hàng ưa thích sự an tồn, ít chấp nhận rủi ro đi
kèm với lợi nhuận cao hơn để tập trung giữ chân khách hàng cũ và phát triển thêm khách
hàng qua các chính sách ưu đãi, khuyến mại, chăm sóc hợp lý. Bên cạnh đó, phối hợp,
hợp tác với các đơn vị khác, ngay cả trong chuỗi/kênh cạnh tranh nêu trên như các cơng
ty chứng khốn, cơng ty kinh doanh BĐS, công ty bảo hiểm nhân thọ để phát triển thêm
các sản phẩm bán chéo, bán kèm tận dụng các “khoảng nghỉ”, “khoảng chờ” của nguồn
tiền đầu tư tại các kênh này đưa vào nguồn vốn huy động với kỳ hạn phù hợp.
- Quy mô và chất lượng một số khách hàng hiện hữu: các khách hàng lớn cụ thể
ngẫu nhiên của Chi nhánh có thể có những thời điểm dư thừa nguồn vốn để VietinBank
Hai Bà Trưng có thể huy động, có những thời điểm có nhu cầu sử dụng nhiều nguồn vốn
dẫn tới rút bớt tiền gửi tại VietinBank Hai Bà Trưng. Chi nhánh cần có những giải pháp
phù hợp, chủ động theo dõi sát nguồn cũng như nhu cầu sử dụng vốn của các khách
hàng này từ đó tư vấn các phương án sử dụng vốn hợp lý cho khách hàng (có thể song
song duy trì nguồn tiền gửi đồng thời thực hiện vay nợ khi phương án này hiệu quả hơn
rút trước hạn do thời hạn gửi tiền đã tương đối dài), chào mời tiếp thị gửi tiền ngay khi
đơn vị có nguồn vốn nhàn dỗi chuyển về.
Cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hóa thành cái tất nhiên. Do
vậy trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không được xem nhẹ,
bỏ qua cái ngẫu nhiên, mặc dù nó khơng quyết định xu hướng phát triển của sự vật; cần
chú ý tạo ra những điều kiện cần thiết hoặc để tạo điều kiện, hoặc để ngăn trở sự chuyển


×