Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Tìm hiểu về các nhà ngoại giao trong lịch sử dân tộc: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 84 trang )

NGUYỄN BIỂU
(? - 1413)
Danh thần đời vua Trùng Quang (1409 - 1414),
quê ở xã Yên Hồ, huyện Chi La, Nghệ An, nay là
xã Đức Phúc, Đức Thọ, Hà Tĩnh.
Ông đỗ thái học sinh, làm điện tiền ngự sử,
tính tình cương trực. Khi nhà Minh xâm lược nước
ta, Trần Quý Khoáng được sự giúp đỡ của Đặng
Dung và Nguyễn Cảnh Dị lãnh đạo nhân dân
kháng chiến, Nguyễn Biểu cũng tham gia. Tháng
4-1413, Trương Phụ mang quân vào Nghệ An đàn
áp cuộc khởi nghĩa. Vì tin vào chiêu bài “Phù Trần
diệt Hồ” của quân Minh, Trần Quý Khoáng đã
mấy lần cho sứ sang nhà Minh, Trung Quốc cầu
phong. Nhưng nhà Minh không những khơng
nghe mà cịn tìm cách giết sứ của ta.
Khi cho quân rút về Hóa Châu, một lần nữa
Trần Quý Khống hy vọng dựa vào nhà Minh để
khơi phục nhà Trần nên sai quan ngự sử Nguyễn
Biểu đến dinh Trương Phụ, yêu cầu tiến cử sang
nhà Minh cầu phong.
Tới trước mặt Trương Phụ, quân Minh bắt ông
quỳ lạy, ông không chịu, cứ đứng trơ trơ. Trương
Phụ nghe tiếng ông là người cương trực nên muốn
uy hiếp tinh thần sứ giả nghĩa quân. Y sai nấu

81


chín một cái đầu người rồi dọn lên mời ơng ăn.
Ơng khơng ngần ngại, ung dung cười nói: “Đã mấy


khi người nước Nam được vinh hạnh ăn đầu người
phương Bắc”.
Đoạn ông cầm đũa khoét hai con mắt chấm
dấm ăn, vừa ăn vừa làm thơ nói về sự kiện này.
Trương Phụ thấy vậy khâm phục ông là người can
đảm và phải lấy lễ tiếp ơng rồi để ơng về.
Vì nghe theo một tên ngụy quan nên Trương
Phụ liền cho người đuổi theo gọi lại và kiếm cớ là
vô lễ để giữ ơng. Nguyễn Biểu liền mắng Trương
Phụ rằng:
“Trong lịng thì mưu đánh chiếm nước người
ta, ngồi mặt thì nói láo là quân nhân nghĩa, đã
hứa lập con cháu nhà Trần mà lại lập quận
huyện, khơng những cướp bóc của báu mà còn tàn
hại sinh dân, quả thật là giặc tàn ngược”.
Bị Nguyễn Biểu mắng và vạch bộ mặt xảo trá
xâm lược nên Trương Phụ tức giận sai trói Nguyễn
Biểu vào cột cầu Lam, cạnh chùa Yên Quốc để nước
thủy triều dâng lên dìm chết ơng. Nguyễn Biểu
ln mồm chửi mắng Trương Phụ. Nhưng liền ba
ngày mà không thấy nước thủy triều lên, Trương
Phụ phải sai qn cởi trói và mang ơng đến chùa
Yên Quốc đánh chết. Ông biết thế nào cũng bị giết,
nên vội đề mấy chữ vào cột Lam Kiều:
“Thất nguyệt, thập nhất nhật Nguyễn Biểu tử”.
(Nguyễn Biểu chết ngày 11 tháng 7). Ông
mất năm 1413.

82



Lo sợ và khơng thể khơng kính phục trước cái
chết của Nguyễn Biểu, Trương Phụ phải lấy hậu
lễ đưa ông về táng ở quê.
Sau khi đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh,
vua Lê Thái Tổ phong ông làm “Nghĩa liệt hiền
ứng linh trợ thuận đại thần”. Cịn vua Lê Thánh
Tơng truy tặng ơng là Nghĩa Vương. Nhân dân ta
lúc đó thương tiếc vị sứ giả trung dũng, kiên
cường của dân tộc, đặt tên cầu Lam là cầu Nghĩa
Vương và lập đền thờ ông gọi là Nghĩa Vương từ.

83


NGUYỄN TRỰC
(1417 - 1473)
Danh sĩ nhà Lê Sơ, tự là Công Dĩnh, hiệu
Hu Liêu; quê ở thôn Bối Khê, huyện Thanh Oai,
tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội) con danh sĩ Nguyễn
Thì Trung.
Ơng nổi tiếng giỏi văn thơ. Năm 1441, ông thi
đỗ trạng nguyên, là vị trạng nguyên đầu tiên nhà
Lê Sơ. Thời vua Lê Nhân Tông, ông làm trực học
viện sĩ Hàn lâm, rồi thăng nam sách an vũ sứ.
Tương truyền ơng được Lê Nhân Tơng vẽ hình để
bên cạnh chỗ ngồi, tỏ ý không lúc nào quên.
Thời vua Lê Thánh Tông, ông làm thư chỉ
Viện Hàn lâm, trung thư lịch kiêm tế tửu Quốc Tử
Giám. Vua rất nể trọng ông.

Năm 1444, thời vua Lê Nhân Tông, Nguyễn
Trực đi sứ Trung Quốc, gặp dịp triều đình nhà
Minh, Trung Quốc mở khoa thi hội, mời các sứ
thần ứng thi. Nguyễn Trực tham gia, bằng tài văn
chương kiệt xuất, ông đã khiến vua quan nhà Minh,
Trung Quốc và các sứ thần các nước khác khâm
phục, xưng tặng “lưỡng quốc trạng nguyên”, nâng
cao uy tín Đại Việt. Khi về nước ơng được nhận
tám chữ vua ban: “Thành công danh Nam Bắc
triều biên ngã”, ý là cơng danh ở cả hai nước đều
hồn thành.

84


LƯƠNG NHƯ HỘC
(1420 - 1501)
Danh sĩ đời Lê Thái Tông, tự Tường Phủ, quê
ở xã Hồng Liễu, huyện Trường Tân, nay là xã
Thanh Liễu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Ông từng hai lần đi sứ sang nhà Minh, Trung
Quốc và đã có cơng truyền lại nghề khắc bản in cho
dân, được tôn xưng là ông tổ nghề khắc ván in.
Năm 18 tuổi, ông đỗ hương cống, ước mong đỗ
cao hơn, ông tìm lên kinh thành mua sách học để
thi đình. Đáng tiếc, ở Thăng Long khi ấy phần lớn
là sách từ phương Bắc truyền sang. Từ đấy ơng
ni chí quyết học bằng được nghề in để trong
nước tự cường, vươn lên bằng người. Năm Đại Bảo
thứ ba (1442) đời vua Lê Thái Tông, Lương Như

Hộc thi đậu thám hoa lúc 22 tuổi và làm đến đô
ngự sử. Năm sau, Lê Nhân Tông lên ngôi, cử ông
đi sứ sang nhà Minh để báo tang và cầu phong,
nên ơng có cơ hội tìm hiểu cơng nghệ in ấn ở
Trung Quốc. Năm 1459, ông đi sứ lần thứ hai
sang Trung Quốc.
Cả hai lần đi sứ nhà Minh ông đều chú ý đến
việc in sách và học được nghề in mộc bản.
Khi đó, việc học nghề này rất khó, vì người
Trung Hoa giấu nghề, chỉ cha truyền con nối.

85


Hồng đế Đại Minh chun chế, chủ trương chính
sách bế quan tỏa cảng, khơng muốn thiên hạ biết
như mình nên bắt nhà nghề phải giấu môn gia
truyền. Những người nước ngoài dù là thần phục,
đi cống sứ đều bị canh chừng, theo dõi chặt chẽ để
hạn chế việc tìm học các thuật bí truyền của
Trung Hoa.
Ở Yên Kinh các sứ thần đều phải ở trong Cơng
qn, xung quanh có lính canh đêm ngày và bị
theo dõi chặt chẽ.
Lương Như Hộc đã khéo mua chuộc được lính
canh, ngày ngày thốt ra ngồi giả làm người du
ngoạn đến mấy ngơi chùa có thợ khắc đang làm
việc quan sát kỹ và học được nghề khắc ván in. Về
nước ông truyền nghề cho dân Liễu Tràng mở
mang nghề in sách. Ơng được tơn là tổ sư trong

ngành. Ơng cịn là tác giả bộ Hồng châu quốc ngữ
thi tập.

86


LƯƠNG THẾ VINH
(1441 -?)
Danh sĩ đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1479),
tự là Cảnh Nghị, hiệu Thụy Hiên, quê ở thôn Cao
Hương, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, nay
là thôn Cao Phương, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Từ nhỏ ông đã nổi tiếng là người thông minh,
học rộng. Năm Quý Mùi (1463), Lương Thế Vinh đỗ
trạng nguyên dưới đời vua Lê Thánh Tơng, lúc 23
tuổi. Ơng soạn nhiều sách về đạo Phật và quyển
Toán pháp đại thành, nên tục gọi ơng là Trạng Lường.
Ơng làm đến thừa chỉ ở Viện Hàn lâm, có
chân trong Tao Đàn sối phủ, làm Hàn lâm viện
thị giảng, trưởng viện sự, được giao soạn các công
văn bang giao với Trung Quốc.
Nhà Minh thường khen ngợi tác giả của
những văn hàm ấy. Ông là người mang mơn tốn
bàn tính của người Trung Hoa về dạy trong nước.
Khi làm quan, ông thường được giao nhiệm vụ
tiếp các sứ giả. Một lần, sứ thần nhà Minh là Chu
Hy sang, nhân thể muốn dò xem nhân tài đất
Việt. Khi đi chơi dọc sông Tô Lịch, sứ nhà Minh
sai người đi theo lấy cái cân và đố Lương Thế Vinh
cân con voi cạnh đó. Vốn biết tài uyên bác của

Lương Thế Vinh, nhất là về mặt toán pháp, nhưng

87


sứ nhà Minh yên trí lần này sẽ làm nhục được
trạng nguyên nước Việt. Không hề nao núng,
Lương Thế Vinh liền sai quản tượng dắt voi xuống
bến rồi sai người ghép mảng và cho voi đứng lên.
Ông bẻ cây đo độ cao từ mảng bị chìm đến mặt
thống của nước, đoạn sai dắt voi lên bờ và
chuyển những tảng đá lớn xuống mảng. Khi mảng
chìm sâu như lúc voi đứng, ông dùng cân, cân số
đá trên mảng. Sứ Minh tỏ lịng bái phục về sự
thơng minh đó, nhưng Lương Thế Vinh nói: Dùng
cân để cân voi là việc người xưa đã làm, Tào Thực
con Tào Tháo trong Tam quốc chí đã làm việc đó.
Sứ Minh lại bị một địn nữa vì sự dốt nát của
mình khi thử tài người khác.
Chu Hy lại đưa cho ông một tờ giấy mỏng từ
một cuốn sách và bảo đo độ dầy tờ giấy. Lương
Thế Vinh khơng hề bối rối. Ơng đo cả quyển sách
và chia chiều dầy đó cho số tờ giấy thì ra độ dầy
của một tờ giấy. Sứ Trung Hoa phải thốt lên thán
phục: nước Nam quả lắm nhân tài.
Không rõ ông mất năm nào. Khi ông mất được
phong làm phúc thần và tại đình làng Cao Hương
vẫn cịn bức vẽ chân dung ông.

88



QUÁCH HỮU NGHIÊM
(1442 - 1503)
Làm quan dưới thời vua Lê Thánh Tông và Lê
Hiến Tông; là người làng Phúc Khuê, huyện
Thanh Quan, phủ Tiên Hưng, nay thuộc xã Thái
Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Ơng đỗ hồng giáp khoa Bính Tuất (1466), lúc
24 tuổi, dưới thời vua Lê Thánh Tông. Trong 31
năm làm quan, ông đã kinh qua nhiều chức vụ cao,
được giao nhiệm vụ chánh chủ khảo hai khoa thi
đình năm Q Sửu (1493), năm Bính Thìn (1496).
Năm 1502, Quách Hữu Nghiêm được cử làm
chánh sứ đi Trung Quốc với nhiệm vụ tạ ơn vua
Minh ban mũ, áo cho vua Lê Hiến Tơng và tiếp
tục “bồi đắp hịa khí”. Bài biểu do ông soạn, dâng
vua Minh hôm ra mắt đã gây ấn tượng tốt đẹp.
Trong biểu có đoạn: “Cứ thấy chiếu thư ban
xuống, tập phong vừa được quang vinh, áo mũ ban
cho, vẻ mình càng thêm rực rỡ... Kính nghĩ: Hoàng
đế bệ hạ, áo mũ để khuyên mọi phương, lễ văn rực
rỡ, đến cả cõi Nam xa cách cũng thêm vẻ đẹp huy
hồng. Thần (Lê Hiến Tơng) kính giữ chức xưa
được ban ân mới. Khắp bốn biển đều theo đức
thấm nhuần ơn huệ từ lâu, đến muôn năm giữ yên
dân, đằng đặc khúc trời thêm hưởng”.

89



Theo thơng lệ, hồng hậu nhà Minh sai quan
kiểm nhận q biếu. Ơng có mua cái áo long cổn
là của cấm để trong hòm, sợ xét thấy sẽ dẫn đến
rầy rà, nên ông đã làm vội bài văn “Mục dị hưởng
tự hiến” để dâng lên.
“Người dân tầm thường mang ngọc bích, Lân
Kinh (tức Kinh Xuân Thu) chê là tham của; lái
buôn rợ Hồ cất ngọc châu Mã sử (Sử ký Tư Mã
Thiên) răn là liều mình. Cho nên, kẻ tự gõ cửa
trình phong thư được khen là trung thần, đáng
quý, mà kẻ tiến rau cần dâng sưởi nắng tuy là nhỏ
mọn cũng nên khen. Hay dở đã rành, gương soi
rất rõ. Xét ra, bọn sử thần bản bộ, cùng nhau đến
tự phương xa để xem chế độ thượng quốc. Vượt
qua biển non mn dặm, khó nhọc sá từ, tưởng
mong nhật nguyệt chín tầng, mặt rồng mừng
thấy. Hướng về thanh minh văn vật của triều Ngu
trước, thấy rõ lễ nhạc y quan của nhà Chu xưa.
Một niềm kính tơn, khơn bề báo đáp. Phàm những
của cải mang theo đâu dám tơ hào luyến tiếc.
Chúng tơi có một hộp hương kỳ nam rất quý lạ,
trình giao sai quan chọn lựa dâng lên”.
Bài văn của ơng trình bày khéo đến nỗi vua
Minh khơng bắt tội mà còn khen là “nhân tài đời
Tam đại”, rồi thưởng áo màu đại hồng có thêu con
dê thần và đám mây bằng kim tuyến, xen chỉ tơ
sống, chỉ gai và ban yến.
Đầu năm Quý Hợi (1503), Quách Hữu Nghiêm
cáo từ vua Minh về nước và còn được vua ban cho


90


chiếc áo thứ hai cùng nhiều quà khác và thuyền
lớn để về nước nhanh hơn. Khi nhận quà ông làm
bài thơ: “Bắc sứ phụng ân tứ thuật thị quán”:
“Nhân đi việc nước, đem cống đồ vật quý
Được lạm dự yến tiệc ở nơi bệ ngọc
Hình con dê thần thêu rực rỡ ở áo tam phẩm
Lại đi thuyền vẽ đầu chim ích vượt qua tám
thứ gió.
Tự cười thơ mình khơng được rộng như biển
Và sức uống rượu của mình khơng được như
sức hút của cầu vồng.
Xin chúc nhà vua hưởng phúc sống lâu như lời
chúc trong thiên Chu nhã
Như mặt trời mới mọc, như trăng thượng
huyền soi khắp cả thiên hạ”.
Bài thơ trên đã được Lê Quý Đôn tuyển chọn
để đưa vào Toàn Việt thi lục - một bộ hợp tuyển
thi ca nổi tiếng của Việt Nam.
Như vậy, chuyến đi sứ của ông đã thành công
mỹ mãn. Đánh giá về sự kiện trên, nhà sử học
Phan Huy Chú nhận định rằng Quách Hữu
Nghiêm là “nhà ngoại giao đầy mưu chước”.

91



PHẠM ĐÔN LỄ
(1455 - 1497)
Là văn thần đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497),
hiệu Lê Khanh; quê thôn Hải Triều, huyện Ngự
Thiên, phủ Long Hưng, trấn Sơn Nam hạ (nay là
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Năm 1481, ơng đỗ trạng nguyên lúc 26 tuổi, từ
thi hương đến thi đình, đều đỗ đầu, là vị tam
nguyên đầu tiên trong khoa cử ở nước ta. Ngày
vinh quy, ông được vua ban ngựa tốt và việc này
sau thành lệ.
Ơng giỏi văn thơ, chính trị, kinh tế, làm đến tả
thị lang và được truy phong thượng thư sau khi mất.
Tương truyền ông được cử đi sứ nhà Minh,
trên đường đi đến vùng Ngọc Hồ, Quế Lâm (nay
thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) thấy dân
trong vùng chuyên sống bằng nghề dệt chiếu, ông
đã chú ý khảo sát kỹ lưỡng, học được kỹ thuật dệt
chiếu mới của họ về phổ biến cho làng Hải Triều
và vùng duyên hải.
Trước đây, ở quê ông khi dệt chiếu dùng bàn
dệt đứng, khơng có ngựa đỡ sợi. Ơng đã cho áp
dụng kỹ thuật dệt theo bàn dệt nằm có ngựa đỡ
sợi. Sợi dây đay giữ cói được căng, chiếu dệt ra đều
sợi và đẹp hơn. Chiếu Hải Triều được nhiều người

92


u thích, nổi tiếng khắp chốn kinh đơ. Chiếu Hải

Triều có màu trắng ngà, có nhiều loại: cải, đậu,
đót, trơn, kẻ sọc, màu, in hoa, cạp điều, sợi xe,...
dùng lâu chiếu đều ngả màu vàng, trơn nhẵn, độ
mềm vừa phải, thốt nước nhanh, mau khơ. Đặc
biệt là kỹ thuật chiếu cải mà nhiều nơi không làm
được. Những lá chiếu cải phải nhuộm cói trước khi
dệt, sau đó dệt thành những chữ thọ, bông hoa,
chân dung, rồng, phượng... Đường biên của chiếu
Hải Triều cũng rất bền và đẹp. Biên được bện sau
khi dệt xong đòi hỏi phải khéo léo, cẩn thận.
Người dân ở đây từ xưa đã có câu: “Mua chiếu xem
biên, người hiền xem mặt”.
Người Hải Triều đã tôn thờ ông là tổ nghề dệt
chiếu và gọi ông là “Trạng Chiếu”.

93


TRỊNH THIẾT TRƯỜNG
(Thế kỷ XV)
Là thượng thư dưới thời Lê Sơ; q ở thơn Đắc
Chí, xã Định Bình, huyện n Định, tỉnh Thanh
Hóa. Năm 1442, ơng đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
Đến kỳ thi hội năm 1448, Trịnh Thiết Trường đỗ
bảng nhãn. Tháng 1 - 1475, ông được vua Lê
Thánh Tông cử đi sứ nhà Minh. Chánh sứ trong
chuyến đi sứ này là trạng nguyên Nguyễn Trực,
đậu trạng nguyên cùng khoa thi năm 1448 với
Trịnh Thiết Trường. Đúng lúc đó, triều đình nhà
Minh mở khoa thi. Để tỏ rõ tài năng của người

nước Nam, nên hai ông đã đề nghị vua Minh cho
phép tham dự kỳ thi với các sĩ tử Trung Hoa. Vua
Minh đồng ý. Tại trường thi, khi đã làm bài được
hơn nửa thời gian, Trương Thiết Trường nảy ra
một ý và nói với Nguyễn Trực: Trong kỳ thi này
chắc chỉ có tơi và bác là đỗ đầu. Nếu tơi đỗ trạng
ngun thì sẽ khơng hay cho chúng ta vì ở nước ta
bác đỗ trạng ngun, cịn tơi đỗ bảng nhãn. Như
vậy, vua Lê Thánh Tông sẽ không vừa lịng và Hội
đồng giám khảo sẽ bất bình vì bị cho là việc chấm
thi khơng chính xác. Để chắc chắn, Trịnh Thiết
Trường nảy ra ý định làm bài sao để giữ nguyên
như thứ tự trong nước. Nghĩa là Trịnh Thiết Trường

94


phải làm bài thi có lỗi để kém hơn bài của Nguyễn
Trực. Trong bài văn của Trịnh Thiết Trường có
đoạn văn: Nam chi châu, bắc chi mã (nghĩa là
thuyền phương Nam, ngựa phương Bắc). Thiết
Trường đã xóa chữ mã (ngựa) và viết chữ mã
ngoài lề và chữ mã này chỉ có ba dấu chấm, thiếu
một dấu chấm. Khi chấm thi, các quan giám khảo
thấy chỉ có bài của Trịnh Thiết Trường là đáng đỗ
trạng nguyên, bài của Nguyễn Trực là đỗ bảng
nhãn. Tuy nhiên, sau đó các quan chấm thi coi lại
bài của Trịnh Thiết Trường thấy chữ mã chỉ có ba
dấu chấm, cho Trịnh Thiết Trường có ý chê ngựa
Trung Hoa là ngựa què, khinh thường thiên triều,

quyết định thay đổi thứ tự cho Nguyễn Trực đỗ
trạng nguyên, còn Trịnh Thiết Trường chỉ đỗ bảng
nhãn. Vua Minh phong cho hai người là “lưỡng
quốc trạng nguyên” và “lưỡng quốc bảng nhãn”,
ban áo gấm hốt vàng, lọng và ngựa tốt để về nước.
Khi giao ngựa cho Thiết Trường, vua Minh lệnh
cho quân lính buộc một chân ngựa lại và lệnh nếu
ngựa ba chân không đi được sẽ phải giữ lại không
cho về nước. Thiết Trường đã sai người đẽo một
chân ngựa giả bằng gỗ, buộc vào chân ngựa bị
buộc nên ngựa ba chân vẫn đi được, dù có khó
khăn. Triều đình nhà Minh rất khâm phục sứ
thần Đại Việt có tài ứng biến nên lệnh cho cởi
chân ngựa và để ông về nước.

95


TRIỆU THÁI
(Thế kỷ XV)
Là danh thần, nhà ngoại giao thời Lê Sơ; q
ở thơn Hồng Chung, xã Đồng Tích, huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phú.
Thời niên thiếu ông lưu lạc sang Trung Quốc
song vẫn chăm chỉ học hành và đỗ tiến sĩ, làm hàn
lâm học sĩ đời Vĩnh Lạc, nhà Minh (1368-1644).
Khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống quân xâm
lược nhà Minh, ông cáo quan về nước sống tại quê
nhà. Sau kháng chiến chống Minh thắng lợi năm
Thuận Thiên thứ hai (1429), Lê Thái Tổ mở khoa

thi chọn hiền tài giúp nước. Ông đỗ đầu khoa
Minh Kinh và được bổ làm quan đến chức thị ngự
sử. Ông làm quan dưới ba đời vua Lê: Lê Thái Tổ,
Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông. Trong gần 20
năm làm quan dưới triều Lê Sơ, Triệu Thái đã
tham gia xây dựng nhiều bộ luật quan trọng, tạo
cơ sở cho việc soạn thảo bộ luật Hồng Đức sau
này. Ơng cịn là một nhà giáo dục, tham gia chọn
nhân tài cho đất nước, trong đó có trạng ngun
Nguyễn Trực và nhà sử học Ngơ Sĩ Liên trong
khoa thi năm 1442 và khoa thi năm 1443 mà ơng
là phó chủ khảo.

96


Triệu Thái cịn là nhà ngoại giao giỏi. Ơng am
hiểu lịch sử, Hán học, phong tục tập quán Trung
Quốc. Tháng 10-1442, ơng dẫn đầu một phái đồn
ngoại giao sang Trung Quốc, đàm phán với nhà
Minh về vấn đề vùng biên giới Khâm Châu (vùng
Đơng Bắc thuộc Quảng Ninh, giáp phía tây Quảng
Đông, Trung Quốc). Đây là vùng núi non hiểm trở,
vị trí quân sự xung yếu, thường xảy ra mâu thuẫn
giữa hai nước.
Vào thế kỷ XV, cả hai bên đều nỗ lực giành
chủ quyền và đấu tranh diễn ra trong vịng 6-7
năm. Tư liệu cịn lại rất ít, song cũng khẳng định
Triệu Thái đã đấu tranh rất kiên quyết để bảo vệ
vùng lãnh thổ này. Cùng với kết quả các chuyến

đi sứ tiếp theo của Đào Công Soạn, Lê Quát,
Nguyễn Lan (1444), Hà Thủ và Đinh Lan (1447),
cuối cùng vùng Chiêm Lãng, Như Tích (thuộc
Khâm Châu) đã được cơng nhận là lãnh thổ Đại
Việt như Dư địa chí của Nguyễn Trãi khẳng định.
Rất tiếc, thế kỷ XVI, hai vùng đất trên lại bị sáp
nhập vào Trung Quốc do Mạc Đăng Dung đầu
hàng nhà Minh.

97


LÊ QUANG BÍ
(1504 - ?)
Văn thần, nhà ngoại giao nhà Mạc, cịn gọi là
Lê Quang Bơn (vì chữ Bí cũng đọc là Bơn), tự
Thuần Phu, hiệu Hối Trai.
Lê Quang Bí sinh ra trong gia đình khoa
bảng, dịng dõi Lê Cảnh Tuân, quê ở thôn Mộ
Trạch, huyện Đường An, nay là xã Tân Hồng,
huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Năm 22 tuổi (1526), ơng đỗ Hồng giáp, đời Lê
Cung Hồng (có sách nói ơng sinh năm 1506).
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê Sơ,
ông thành bề tôi nhà Mạc, làm tả thị lang bộ Hộ.
Năm Mậu Thân (1548), ông được nhà Mạc cử làm
chánh sứ sang nhà Minh tuế cống thường kỳ. Lúc
đó, nhà Lê Trung Hưng ở Thanh Hóa cũng cử sứ
thần sang Minh, nên các sứ thần nhà Mạc thường
phải chịu sách nhiễu, giam cầm, tra khảo vì bị

nghi là sứ thần giả mạo. Ông bị Tổng đốc Lưỡng
Quảng giam, bịt mắt và thử tài. Ông đã đọc thuộc
lịng quyển Đại học diễn nghĩa khơng sai một chữ.
Quan lại nhà Minh rất phục ông. Bị giam lỏng,
ông tập trung biên soạn bộ Tư hương vận lực gửi
về nước. Có một vị cử nhân là Đặng Hồng Chấn
xin đến thụ nghiệp, học hỏi. Đặng Hồng Chấn sau

98


này đỗ tiến sĩ và thăng chức Yên Kinh chủ sư, đã
dâng biểu nói rõ sự tình, ca ngợi sứ thần Đại Việt,
lúc đó Lê Quang Bí mới được đưa lên kinh (1563)
yết kiến vua Minh. Vua Minh lập tức cho triệu
kiến, nhận cống phẩm và cho về.
Tháng 1 năm Bính Dần (1566), ơng về đến Đại
Việt sau 18 năm đi sứ, lúc đó đã 62 tuổi, đầu bạc
phơ, giống như Tô Vũ nhà Hán đi sứ Hung Nô,
phải đi chăn dê ở Bắc Hải gần 20 năm. Triều đình
phong ông làm thượng thư bộ Hộ và sau khi mất
được tặng tước hiệu Bảo Tô quận công.

99


MẠC GIÁP HẢI
(1506 - 1586)
Là danh sĩ nhà Mạc, còn có tên là Trừng,
hiệu là Tiết; người làng Dĩnh Kế, huyện Phượng

Nhãn, trấn Kinh Bắc, nay thuộc Yên Dũng, tỉnh
Bắc Giang.
Ông đỗ trạng nguyên khoa thi Mậu Tuất năm
1538. Mẹ ông là người thôn Công Luận, huyện
Văn Giang, trước thuộc tỉnh Hà Bắc, nay thuộc
tỉnh Hưng Yên.
Năm lên bốn tuổi, khi chơi ở bờ sông, ông bị
một phú thương đi thuyền qua bắt đem về làng
Dĩnh Kế, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, ni
dạy, đặt tên là Giáp Hải. Ơng làm quan đến lục bộ
thượng thư kiêm đông các đại học sĩ, nhập thị
kinh diên, tước Kê Khê Đá, hàm thiếu bảo.
Ngồi tài văn chương ơng cịn có tài ngoại
giao. Lúc ấy, triều Minh sai sứ sang hạch sách
nhà Mạc, địi cắt đất và sai Mao Bá Ơn, Cừu Loan
đem quân đóng ở cửa Nam Quan chuẩn bị xâm
lược. Mao Bá Ôn gửi sang triều Mạc một bài thơ
vịnh “bèo” có ý khinh dân Việt như bèo bọt. Bài
thơ như sau:
Cao sâu theo nước mọc im lìm
Nơng nổi xưa nay vốn khó dìm

100


Ngọc gốc đã trơ không lá lẩu
Cỗi cành sào lại cả gan tim
Coi thường tản mát khi thường tụ
Biết lúc lênh đênh chẳng biết chìm
Vì gập tung trời cơn gió táp

Cuốn theo về biển khó đâu tìm.
Triều Mạc phải cử trạng nguyên Giáp Hải,
thượng thư bộ Lại lên biên giới tiếp sứ thần nhà
Minh. Mạc Giáp Hải đã họa lại bài thơ “bèo” như sau:
Sin sít hoa thêu cản mũi khâu
Mấy tầng gốc rễ vẫn xen nhau
Ganh cùng mây bạc trên làn sóng
Đâu để vầng hồng lọt đáy sâu
Nước vỗ, vỗ sao cho vỡ được
Gió to, to mấy cũng chìm đâu?
Biết bao rồng cá nằm trong đó
Cụ Lã đừng hịng thả lưỡi câu!
Bài thơ họa ngụ ý dân ta sống đơng đúc như
vẩy gấm, đồn kết chặt chẽ, có thế độc lập của
mình, khơng sợ ngoại xâm. Nhân tài nước ta
nhiều như rồng, cá, dù cho kẻ địch có tướng giỏi
như Khương Tử Nha mà nhà Chu còn gọi là Lã
Vọng cũng khơng làm gì nổi.
Xem xong bài thơ họa, Mao Bá Ơn và Cừu
Loan khơng dám tiến qn vào nước ta nữa.

101


PHÙNG KHẮC KHOAN
(1528 - 1613)
Là danh sĩ đời Lê Thế Tông, tự là Hoằng Phu,
hiệu Nghị Trai; quê ở làng Bùng, xã Phùng Xá,
huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội).
Năm 1557, ông đỗ đầu khoa thi hương dưới thời

vua Lê Trung Tơng. Năm Canh Thìn 1580, Lê Thế
Tông mở kỳ thi hội và Phùng Khắc Khoan đã đỗ
Hồng giáp. Ơng là anh em cùng mẹ khác cha với
Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức Trạng Trình.
Năm Đinh Dậu (1597), vua Lê, chúa Trịnh
phái Phùng Khắc Khoan làm chánh sứ, Nguyễn
Nhân Thiềm làm phó sứ đem cống phẩm sang Yên
Kinh và xin cầu phong.
Lần đi này thật khó khăn bởi vì bấy giờ nhà
Minh vẫn còn ủng hộ họ Mạc, gây khó khăn cho
việc bình thường hóa quan hệ giữa hai triều. Lúc
này Phùng Khắc Khoan đã 70 tuổi, chưa có sứ
thần nào già như vậy. Trong hồn cảnh khó khăn
đó, ông chọn sách lược ngoại giao là “nói khéo, lời
hay” (trong bài thơ “Nỗi lòng đi sứ”). Tới Yên Kinh
đúng dịp Tết Nguyên đán, đình thần và sứ giả các
nước mỗi người đều làm một bài thơ dâng cho vua
Minh. Riêng Phùng Khắc Khoan đưa 36 bài thơ mà
bài nào cũng hay. Minh Thành Tông rất khen ngợi

102


và phê vào tập thơ: “Hà địa bất sinh tài” (đất nào
chẳng có người tài), rồi đặc cách phong Phùng
Khắc Khoan làm trạng ngun. Ơng cịn họa thơ
đối đáp với sứ thần Cao Ly là Lý Toái Phong,
khiến Lý rất khâm phục.
Thành công đầu tiên của ông là biện bác được
lệ nước ta phải cống người vàng cịng lưng có từ

thời Mạc. Về việc phong vương, vua Minh tuy
nhận cống phẩm của nhà Lê, nhưng vẫn thiên về
họ Mạc. Vì vậy, Minh Thần Tông chỉ phong cho
vua Lê làm An Nam đô thống sứ, một tước tương
đương với quan nhị phẩm của triều Minh. Ơng
khơng chấp nhận và tâu: “Đơ thống sứ là tước cũ
của họ Mạc, vua nước Nam chúng tơi hiện thời là
dịng dõi chính thống con cháu nhà Lê. Thiên triều
phong cho tước ấy thật không xứng đáng. Chúng
tơi khơng dám nhận sắc phong. Xin hồng đế xét
cho”. Vua Minh vẫn không thay đổi ý kiến và tặng
ơng đồng tiền vàng. Ơng đã ném đồng tiền vua
Minh cho xuống đất khi về quán dịch.
Tuy lần đi sứ này của ơng chưa đạt được mục
đích xin phong vương cho vua Lê (50 năm sau, vào
năm 1647 nhà Minh mới chịu phong cho Lê Thần
Tông làm An Nam quốc vương), nhưng đã làm
được một số việc ích nước lợi dân.
Vốn biết Phùng Khắc Khoan là người học
rộng, biết sâu nên vua quan nhà Minh tìm cách
ngăn khơng cho ơng mang về các sách quân sự,
địa lý, lịch sử và đặc biệt những cuốn sách về các

103


nghề tiểu thủ công. Tuy vậy, họ không thể nào
lường được trí nhớ tuyệt vời của ơng.
Khi đi thăm các đô thị, ông rất chú ý đến nghề
dệt tơ lụa. Có lần ơng đã lưu lại ở xưởng dệt hơn bảy

ngày. Nhờ trí thơng minh, tài khéo léo, ơng đã quan
sát và nhớ kỹ cách dệt tơ tằm của Trung Quốc.
Lúc đến đồng ruộng phì nhiêu miền Hoa Nam,
Phùng Khắc Khoan thấy hai thứ cây lạ là cây ngô
và cây vừng. Ơng muốn mua hạt giống mang về
nhưng khơng được vì có lệnh cấm. Song nhờ tài trí
của mình ơng đã mang được hạt giống đó về ươm
tại làng Phùng Xá, huyện Thạch Thất và cứ thế
nhân dần lên. Nhân dân đua nhau trồng ngô,
vừng và đem lại cho nước ta thêm một nguồn
lương thực, thực phẩm.
Ơng cịn dạy cho dân nghề dệt the lụa bằng tơ
tằm mà ông học được ở Trung Quốc. Nhân dân tôn
ông là ông tổ nghề dệt lụa, trồng ngô, vừng và lập
đền thờ ông ở quê nhà.
Ông làm quan đến thượng thư bộ Hộ, kiêm
Quốc Tử Giám bộ Công, tước Mai lĩnh hầu rồi Mai
quận công.

104


GIANG VĂN MINH
(1573 - 1637)
Là văn thần, tự khanh tước hầu đời vua Lê
Thần Tông, tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung; quê ở
làng Mông Phụ, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn
Tây, nay là làng Mông Phụ, xã Đường Lâm, thị xã
Sơn Tây, Hà Nội.
Cuối năm 1637, ông được cử đi sứ sang nhà

Minh dâng lễ cống.
Trong buổi tiếp sứ thần Đại Việt, nhằm làm
nhục sứ thần, coi nước ta như một thuộc quốc của
Trung Quốc, vua Minh đã nhắc đến việc Mã Viện
thời Hán dựng cột đồng ở Giao Chỉ bằng một vế đối:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
Nghĩa là: Cột đồng đến nay rêu đã phủ xanh
Trước sự ngạo mạn đó của vua Minh, Giang
Văn Minh hiên ngang đối lại bằng câu:
Đằng giang tự cổ huyết do hồng
Nghĩa là: Sơng Bạch Đằng từ xưa máu cịn đỏ
Vế đối của ông ngụ ý nhắc lại ba lần thất bại
thảm hại của phong kiến Trung Quốc trên sơng
Bạch Đằng. Đó là năm 938 Ngô Quyền đánh bại
quân Nam Hán, năm 981 Lê Hoàn đánh bại quân
Tống và năm 1288 Trần Hưng Đạo đại phá quân
Nguyên - Mông. Vua Minh tức giận vì khơng làm

105


×