Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật common law

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.31 KB, 16 trang )

VAI TRÒ CỦA ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT COMMON LAW
I. Khái quát về hệ thống common law và án lệ
1.1. Dòng họ pháp luật Common law
Dòng họ pháp luật Common law được nhắc đến với nhiều tên gọi khác nhau. Có tài
liệu gọi dịng họ pháp luật này là dòng họ pháp luật Anh – Mỹ (Anglo – American legal
family); cũng có tài liệu sử dụng tên “dịng họ pháp luật án lệ” (case law family) hoặc
“dòng họ Common law” (Common law family) ...
Khi mới ra đời, thuật ngữ “Common law” có nghĩa là luật được áp dụng chung
trên tồn nước Anh chứ khơng phải là luật của từng địa phương. Ngày nay, thuật ngữ
“Common law” được hiểu theo nghĩa thông dụng hơn và thường đặt trong mối quan hệ
với pháp luật thành văn (statutes). Nói cách khác, theo nghĩa này, “Common law” là luật
không do cơ quan lập pháp làm ra mà được tạo ra bằng các phán quyết của tòa án (án
lệ) và bằng tập quán pháp. Thuật ngữ này cịn có nghĩa là “luật” chứ khơng phải “cơng
bằng” (equity). Thêm vào đó, thuật ngữ này cịn có nghĩa là luật khơng phải luật nước
ngồi, đó là luật của Anh tại Anh quốc và tại các thuộc địa của Anh. Cuối cùng,
“Common law” còn hàm chỉ toàn bộ những hệ thống pháp luật bắt nguồn từ hệ
thống pháp luật Anh, ở đó phán quyết của tịa giữ vị trí quan trọng trong cấu trúc
nguồn luật. Như vậy, có thể thấy rằng nghĩa chuẩn xác của thuật ngữ “Common law”
hoàn toàn phụ thuộc vào ngữ cảnh cụ thể mà thuật ngữ được sử dụng.
Những đặc điểm cơ bản của dòng họ Common law
Thứ nhất, Common law là dịng họ pháp luật trong đó các hệ thống pháp luật trực
thuộc ít nhiều chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật của Anh và thừa nhận án lệ
như nguồn luật chính thống, tức là thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp.
Thứ hai, thẩm phán trong các hệ thống pháp luật thuộc dịng họ Common law đóng
vai trị quan trọng trong việc sáng tạo và phát triển các quy phạm pháp luật, tức là thẩm
phán có vai trị làm luật.
Thứ ba, nhìn chung các hệ thống pháp luật thuộc dịng họ Common law khơng có sự
phân biệt giữa luật cơng và luật tư như dòng họ Civil law, trừ pháp luật Anh. Tuy
nhiên, sự phân biệt giữa luật công và luật tư ở Anh khơng có cùng mục đích như ở các
nước thuộc dòng họ Civil law. Ở Anh, việc phân biệt hai mảnh luật này là nhằm xác định
thủ tục tố tụng nào cần áp dụng để giải quyết vụ việc có liên quan.


Thứ tư, chế định pháp luật tiêu biểu của các hệ thống pháp luật dòng họ Common
law là chế định ủy thác – chế định đặc thù của hệ thống pháp luật Anh, ra đời gắn liền


với nhu cầu giải quyết tranh chấp đất đai phát sinh từ hợp đồng ủy thác đất đai ở Anh thời
trung cổ nhằm đưa ra giải pháp công bằng đối với những người được ủy thác có hành vi
chiếm dụng đất đai của người ủy thác trong quá trình thực hiện hợp đồng ủy thác đất đai.
Ngày nay phạm vi điều chỉnh đã được mở rộng sang nhiều quan hệ xã hội thuộc các lĩnh
vực khác.
Thứ năm, sau khi hình thành ở Anh quốc, Common law đã lan sang khắp các lục
địa châu Phi, châu Mỹ đến châu Úc và châu Á và làm thành dòng họ Common law,
một trong hai dòng họ pháp luật lớn nhất thế giới.
1.2. Vị trí của án lệ trong Common law
Theo nghĩa rộng, “Án lệ” là một hệ thống những quy tắc bất thành văn đã được
cơng nhận và được hình thành thơng qua những các quyết định của tịa án, đó là
ngun tắc bắt buộc đòi hỏi Thẩm phán trong hệ thống các cơ quan Tòa án khi xét xử
một vụ việc cụ thể cần phải căn cứ ngay vào các bản án, các vụ việc trước đó để giải
quyết, đặc biệt là các phán quyết của các Tòa cấp cao (Hight Court), Tòa phúc thẩm
(Court of Appeal) và Tòa án tối cao (Supreme Court hoặc House of Lord Thượng nghị
viện, là Tối cao Pháp viện trong hệ thống tòa án Anh), hay là những nguyên tắc không
theo luật định được đưa ra từ các quyết định tư pháp, hay là hệ thống những nguyên tắc
bất thành văn đã được công nhận và hình thành thơng qua các quyết định của Tịa án.
Theo nghĩa hẹp, “Án lệ” là một cách thức sử dụng các nguyên tắc có sẵn như là
những căn cứ áp dùng để quyết định các vụ việc sẽ xảy ra trong tương lai, đây chính
là phương pháp điển hình của sự hình thành và phát triển truyền thống pháp luật án lệ.
Hay nói cách khác án lệ được hiểu bao gồm toàn bộ các quyết định, bản án được tuyên bố
bởi Tịa án và có giá trị như nguồn luật, đưa ra những nguyên tắc, nền tảng áp dụng cho
các vụ việc xảy ra sau này, hay là cách thức sử dụng các nguyên tắc có sẵn như là những
căn cứ áp dụng để quyết định các vụ việc xảy ra trong tương lai.
Theo cách hiểu ngắn gọn nhất  “Án lệ” là bản án đã tuyên hoặc sự giải thích, áp

dụng pháp luật được coi như tiền lệ là cơ sở để các thẩm phán sau đó có thể áp dụng
tương tự.
Trong hệ thống nguồn luật của dòng họ Common Law luôn chịu ảnh hưởng của hệ
thống pháp luật Anh và thừa nhận án lệ như nguồn luật chính thống, tức là thừa nhận
học thuyết tiền lệ pháp.
Học thuyết tiền lệ pháp ở các hệ thống pháp luật này đều ít, nhiều chi phối luật án
lệ theo hướng: các phán quyết đã tun của Tịa án cấp trên nói chung có giá trị


ràng buộc tịa án cấp dưới trong q trình xét xử các vụ việc hiện tại. Học thuyết này
được triển khai áp dụng trên thực tế thông qua việc xuất bản các phán quyết của Tịa án
có giá trị ràng buộc để tạo điều kiện thuận lợi và tạo nguồn tài liệu có hệ thống, đáng tin
cậy cho việc áp dụng thống nhất tiền lệ pháp tại các tòa án trên tồn quốc trong cơng tác
xét xử.

II. Vai trị của án lệ trong hệ thống Common Law
2.1. Giá trị của án lệ
- Mang tính thực tiễn cao:
o Quan niệm về lý lẽ hay các quy tắc án lệ mang tính chất ân đạo chứ khơng phải các lý
lẽ mang tính tự nhiên
o Các quy tắc án lệ được gọi là các quy tắc không thành văn. Họ cho rằng các quy phạm
pháp luật càng chặt chẽ sẽ càng làm cho nó cứng nhắc, khơ khan
- Án lệ có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách nhanh chóng và
kịp thời
- Án lệ thể hiện tính khách quan và cơng bằng
Án lệ ngày càng chứng tỏ vai trị của mình trong đời sống pháp lý hiện đại và cần
được tiếp cận như 1 nguồn luật không thể thiếu ở bất cứ quốc gia nào trong thế giới hội
nhập ngày nay.
2.2. Vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật Common Law
Án lệ trong hệ thống thông luật (common law) có vai trị hết sức quan trọng, thể

hiện ở chỗ chúng được coi là nguồn luật không thành văn áp dụng để giải quyết các vấn
đề tương tự và là cơ sở để đảm bảo sự nhất quán trong hoạt động xét xử. Ở hệ thống pháp
luật Common Law, án lệ được xem là nguồn luật chủ yếu, có giá trị pháp lý trực tiếp.
Ở nhiều lĩnh vực người ta khơng pháp điển hóa thành các bộ luật. Tuy nhiên, mức độ sử
dụng cũng như vai trò của án lệ trong cùng hệ thống pháp luật ở từng quốc gia là khác
nhau. Hai quốc gia điển hình trong hệ thống thông luật là Anh và Mỹ. Cụ thể:
2.2.1. Vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật Anh
Án lệ được coi là nguồn luật quan trọng đầu tiên do lịch sử hình thành của hệ thống
pháp luật này. Anh được coi là quê hương của án lệ, án lệ đóng vai trị quan trọng và
chiếm đa số trong hệ thống pháp luật Anh
Khoảng thế kỉ XIII, nguyên tắc “Stare decisis” có nghĩa là tuân thủ các phán
quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật đã được thiết lập trong


án lệ. Theo nguyên tắc này, tòa án cấp dưới chịu sự ràng buộc bởi các nguyên tắc pháp lý
do tòa án cấp trên sáng tạo ra được ghi nhận trong các bản án trong quá trình xét xử các
vụ việc trong quá khứ. Mức độ tuân thủ nguyên tắc “Stare decisis” của các tòa án Anh
thể hiện ở sự không muốn phủ nhận các phán quyết trong quá khứ của chính mình.
Ngồi ra các tịa án Anh tạo ra luật và thay đổi luật bằng các bản án của họ nhưng các
thẩm phán có xu hướng ra sức biện luận trong các bản án của mình rằng trong các vụ án
đang thụ lí họ khơng làm gì hơn ngồi việc tìm ra các quy định pháp luật đã có và đã
được động đến trong án lệ.
Ở Anh những phán quyết của Thượng nghị viện, tòa án phúc thẩm và tịa án cấp cao
đều có giá trị ràng buộc đối với các tịa án thấp hơn. Nhưng chỉ có bản án được xuất
bản mới trở thành án lệ và có giá trị ràng buộc. Trong mỗi bản án cũng chỉ có phần
các nguyên tắc đề ra phán quyết là có giá trị ràng buộc; cịn phần bình luận của
thẩm phán chỉ có giá trị để tham khảo.
Việc áp dụng án lệ phải thỏa mãn những điều kiện về nguyên tắc và đòi hỏi trên
thực tế. Án lệ phải tồn tại từ lâu và phù hợp với nội dung vụ việc đang xem xét.
Thẩm phán thường phải sử dụng phương pháp chung là đi tìm án lệ để áp dụng và nếu

khơng có án lệ có liên quan, người thẩm phán sẽ vận dụng án lệ có bản chất gần gũi với
vụ việc đang giải quyết. Thực tế đòi hỏi việc sử dụng án lệ phải đảm bảo được tính chắc
chắn và sự ổn định của một hệ thống pháp luật.
2.2.2. Vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật Mỹ
Án lệ ở Mỹ được coi như một phương pháp, cách thức giải thích luật. Án lệ ở
Mỹ khác so với án lệ ở Anh mặc dù 2 quốc gia đều thuộc dòng họ Common Law. Vai trò
của nguyên tắc “stare decicis” ở mỗi nước không giống nhau và ở Anh được áp dụng khắt
khe hơn. Ở Mỹ, tiền lệ pháp được tất cả các tịa án trích dẫn rất thường xuyên nhưng
trong các bản án cũng dành rất nhiều chỗ cho quan điểm của thẩm phán về chính sách
chung. So với thẩm phán Anh, thẩm phán Mỹ đã đề cập nhiều hơn tới hệ quả thực
tiễn của một phán quyết xem nó có phù hợp với nhu cầu chính sách hay không hơn
là sự kiên định, phù hợp với lập luận của thẩm phán trong án lệ trước đó. Ở Mỹ mặc
dù tỉ lệ án lệ trong hệ thống nguồn pháp luật không cao như Anh nhưng án lệ của Tịa án
cấp cao lại có vị trí đặc biệt trong cơ chế bảo hiến. Nhiều quy định trong Hiến pháp đã
được cụ thể trong các phán quyết của tòa án. Ở Mỹ mỗi bang đều có hệ thống tịa án độc
lập của riêng mình. Mặc dù tiền lệ pháp ở mỗi bang khơng chịu sự ràng buộc những
bang cịn lại nhưng rất có thể có ảnh hưởng lẫn nhau và cũng có thể ở trong trạng
thái trái ngược nhau do các bang có quan điểm khác nhau về vấn đề cần giải quyết. Do
vậy, dường như án lệ không hoạt động hiệu quả ở Mỹ khi các phán quyết ở các bang có


thể xung đột với nhau, khơng nhất thiết có sự ràng buộc lẫn nhau và khơng có tịa án nào
coi mình chịu sự ràng buộc bởi phán quyết của chính mình. Tịa án tối cao của Mỹ cũng
khẳng định rằng kết quả xét xử của một vụ việc có thể dựa trên chính sách chung nhiều
hơn là dựa vào án lệ.
Qua những phân tích trên, có thể thấy rằng án lệ có vai trị vơ cùng quan trọng trong
hệ thống nguồn luật của dòng họ Common Law. Tiêu biểu là ở hai hệ thống pháp luật
lớn trên thế giới Anh - Mỹ tuy có sự tương đồng về lịch sử hình thành, đều thuộc hệ
thống thơng luật nhưng ở mỗi quốc gia thì vai trị của án lệ lại được thể hiện rất
khác biệt. Chính điều này đã góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú trong hệ

thống nguồn luật của dòng họ Common Law.

III. Sự khác biệt về vai trò của án lệ giữa hệ thống pháp luật Anh và Mỹ
3.1. Nguyên nhân sự khác biệt
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt này, có thể kể đến như sau:
Nguyên nhân quan trọng và sâu xa: Anh là nước khởi nguồn của văn hoá án lệ. Án
lệ có lịch sử phát triển lâu dài và chiếm vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Anh.
Cịn Mỹ là nước chịu sự đơ hộ của Anh vì thế nên cũng có truyền thống án lệ. Tuy nhiên,
khi giành độc lập thì Mỹ xây dựng Hiến pháp thành văn để khẳng định rõ ràng chủ quyền
độc lập của mình. Từ khi mới giành được độc lập năm 1776 thì Mỹ khơng muốn phụ
thuộc vào vương quốc Anh, tiền lệ pháp có nguồn gốc từ Anh nên khơng thực sự
được ưa chuộng, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế xã hội có nhiều thay đổi. Mặt khác,
nước Mỹ là hợp chủng quốc, người Anh tuy chiếm phần đông nhưng không thể phủ nhận
sự tồn tại của các dân tộc khác, với bản sắc văn hóa, tơn giáo, chủng tộc khác nhau, do
đó, việc tiếp thu, chấp nhận thụ động án lệ – một thứ cứng nhắc và ra đời từ rất lâu không
phù hợp với người Mỹ. Đồng thời Mỹ không phải là nước khởi nguồn của văn hoá án
lệ nên họ cũng sẵn sàng cải tiến tập quán đó hơn, một trong những cách cải tiến tập
quán án lệ chính là ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, cả hai hệ thống pháp luật Anh, Mỹ đều tôn trọng nguyên tắc “stare decisis”
nghĩa là tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật
đã được thiết lập trong án lệ. Tuy nhiên vai trò của nguyên tắc “stare decisis” ở mỗi
nước không giống nhau, và dường như sự tuân thủ nguyên tắc này ở Anh có phần khắt
khe hơn rất nhiều so với ở Mỹ. Từ nguyên nhân sâu xa trên mà dẫn đến hệ thống pháp
luật Anh và Mỹ mặc dù cùng thuộc dòng họ Commom law nhưng vẫn có sự khác biệt
giữa vai trị của án lệ ở Anh và Mỹ.


Thứ ba, nguyên nhân của sự khác biệt cũng đến từ hình thức chính thể: Anh là
một nước qn chủ nghị viện, vẫn phụ thuộc chế độ quân chủ có nữ hoàng hoặc nhà
vua nhưng chỉ là biểu tượng của nước Anh, còn quyền lực thực chất nằm trong tay nghị

viện đứng đầu là Thủ tướng. Mỹ là nước cộng hoà tổng thống với hai đảng Dân chủ và
Cộng hoà thay nhau cầm quyền và cũng là một quốc gia liên bang, mỗi bang đều có pháp
luật riêng của mình nhưng chịu sự chi phối của toà án liên bang nên trong đó ln có sự
dung hồ về lợi ích giữa các bang.
Ngồi ra, giữa Anh và Mỹ có sự khác nhau rất lớn về mặt kinh tế, cơ cấu chủng
tộc, tơn giáo, mức sống (v.v…), tư tưởng tình cảm, giáo dục, thậm chí tiếng Anh tại Anh
và Mỹ cũng có sự khác nhau.
Những nguyên nhân trên làm cho án lệ ở Anh và Mỹ có những nét riêng, đặc
thù dẫn đến hệ quả về mặt pháp lý cách giải quyết vấn đề của người Mỹ rất khác so
với người Anh. Pháp luật của Anh chủ yếu gây ảnh hưởng đối với pháp luật Mỹ ở những
lĩnh vực tạm gọi là “luật tư”, còn với những lĩnh vực khác như luật hình sự, tố tụng hình
sự, thương mại… thì ảnh hưởng của pháp luật Anh đối với pháp luật Mỹ là khá lu mờ. Do
đó một số luật gia Mỹ có thể dễ dàng tiếp cận pháp luật Anh cũng như một số án lệ Anh
vẫn được dẫn chiếu để giải quyết một số vụ việc ở Mỹ. Ngược lại luật gia Anh sẽ gặp khó
khăn khi tiếp cận pháp luật Mỹ.
3.2. Sự khác biệt
Sự khác biệt về vai trò của án lệ giữa hệ thống pháp luật Anh và Mỹ được thể hiện chủ
yếu ở việc áp dụng nguyên tắc stare decisis ở Anh có phần khắt khe hơn ở Mỹ.
Thực tế cho thấy, các tòa án của Anh thường bám sát án lệ trong quá trình xét xử
hơn các tịa án của Mỹ vì các tịa án Mỹ khi giải quyết các vấn đề liên quan tới Hiến
pháp có quyền đi chệch khỏi án lệ. Ở Mỹ, tiền lệ pháp được tất cả các tịa án trích dẫn
rất thường xuyên nhưng phán quyết của tòa án cũng dành rất nhiều chỗ cho quan
điểm của thẩm phán về chính sách cơng, đặc biệt với những vụ việc mà tịa án coi là
quan trọng. So với các thẩm phán Anh, thẩm phán Mỹ rõ ràng quan tâm hơn tới hệ
quả thực tiễn của một phán quyết và tới việc liệu những hệ quả này có phù hợp với
yêu cầu của chính sách hơn là quan tâm tới sự kiên định của người thẩm phán trong
việc xem xét vụ việc hiện tại trong mối quan hệ với tiền lệ pháp luật có liên quan.

Sự hình thành án lệ


Anh
Được tạo ra từ các phán quyết

Mỹ
– Toà án bang.


của toà án cấp trên

– Toà án liên bang.
– Toà án tối cao Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ.

Vai trò

– Pháp luật thành văn có vị trí
cao hơn án lệ nhưng thẩm
phán Anh thường cố gắng tìm
cách để áp dụng án lệ nhằm
hạn chế tối đa sự áp dụng luật
thành văn.

– Luật thành văn có vị trí cao
nhất đặc biệt là hiến pháp
Hoa Kỳ. Tất cả các văn bản
luật và án lệ nếu trái với Hiến
pháp để sẽ bị tuyên bố là vi
hiến.

Cách thức áp dụng


Án lệ ở Anh được các thẩm
phán áp dụng một cách cứng
nhắc.

Án lệ đươc các thẩm phán áp
dụng một cách mềm dẻo, linh
hoạt hơn.

Nguyên tắc áp dụng

Rule of stare decicis (tất cả
các tòa án dều phải tuân theo
án lệ (trừ Ủy ban phúc thẩm
Thượng nghị viện).

Rule of precedent (tất cả các
tịa án đều có quyền thay đổi
án lệ).

Sự ghi chép

Tại Anh các án lệ bắt buộc
thường được ghi chép trong
Law Reports, All England
Law Reports, Weekly Law
Reports.

Tại Mỹ tập hợp các án lệ
được in trong tuyển tập Trình

bày về pháp luật
(Restatement of the Law) của
một hiệp hội tư nhân có tên là
Viện luật Hoa Kỳ (American
Law Institute).

IV. Kết luận
Như vậy, án lệ là nguồn luật cơ bản và bắt buộc áp dụng trong hệ thống pháp luật
Common Law, hơn nữa án lệ được ban hành càng lâu thì càng có giá trị áp dụng cao.
Qua q trình nghiên cứu và hoạt động thực tiễn xét xử, có thể thấy án lệ có rất nhiều ưu
điểm nổi trội như:


- Án lệ giải quyết kịp thời các vụ việc xảy ra trên thực tế nhưng chưa có văn bản
quy phạm pháp luật quy định cụ thể hoặc có quy định nhưng lại có nhiều cách
hiểu khác nhau
- Việc lực chọn tốt các án lệ, sẽ làm tiền đề cho các vụ việc sau này khi xét xử, tránh
được tình trạng oan sai.
- Việc áp dụng án lệ tạo ra sự bình đẳng, minh bạch, cơng khai trong hoạt động xét
xử.
- Việc thừa nhận án lệ cũng là một điểm lợi cho các Thẩm phán khi xét xử, chỉ cần xem
xét đối chiếu để đưa ra phán quyết, tránh trường hợp mỗi người nhìn nhận, đánh
giá vấn đề một kiểu dẫn đến trong dự luận xã hội cho rằng việc xét xử này khơng
bình đẳng
Bên cạnh những thành quả đạt được thì các nước trong hệ thống Common Law cũng
cần nâng cao chất lượng quan điểm pháp lý của các Thẩm phán. Các Thẩm phán
cần phải nâng cao trình độ của mình, đảm bảo yếu tố tranh luận và đa dạng về lý lẽ
khi đưa ra lập luận, mở rộng nguồn tài liệu là cơ sở đưa các lập luận hay lý lẽ để
thực hiện các quyết định, cuối cùng là các lập luận này cần phải được đưa vào cộng
đồng pháp lý cũng như thực tiễn pháp lý để kiểm nghiệm và bổ sung hồn chỉnh –

điều này địi hỏi các Thẩm phán cần phải biết lắng nghe, loại bỏ tư tưởng bảo thủ.
Việt Nam có hệ thống pháp luật mang nhiều đặc điểm của hệ thống Civil law. Tuy
nhiên pháp luật Việt Nam vẫn luôn học hỏi những điểm sáng của pháp luật thế giới, cụ
thể Luật Tòa án nhân dân 2014 nước ta đã công nhận vai trò của án lệ trong việc
làm rõ các quy định pháp luật có cách hiểu khác nhau và đã cho phép cơng bố, áp
dụng án lệ trong q trình giải quyết vụ án. Nói cách khác thì án lệ ở Việt Nam không
được xem là nguồn luật cơ bản, chỉ là căn cứ để các thẩm phán tham khảo, còn việc làm
luật vẫn thuộc về Quốc hội.
VAI TRÒ CỦA ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT COMMON LAW
V. Khái quát về hệ thống common law và án lệ
1.3. Dòng họ pháp luật Common law
Dòng họ pháp luật Common law được nhắc đến với nhiều tên gọi khác nhau. Có tài
liệu gọi dòng họ pháp luật này là dòng họ pháp luật Anh – Mỹ (Anglo – American legal
family); cũng có tài liệu sử dụng tên “dòng họ pháp luật án lệ” (case law family) hoặc
“dòng họ Common law” (Common law family) ...
Khi mới ra đời, thuật ngữ “Common law” có nghĩa là luật được áp dụng chung
trên toàn nước Anh chứ không phải là luật của từng địa phương. Ngày nay, thuật ngữ


“Common law” được hiểu theo nghĩa thông dụng hơn và thường đặt trong mối quan hệ
với pháp luật thành văn (statutes). Nói cách khác, theo nghĩa này, “Common law” là luật
không do cơ quan lập pháp làm ra mà được tạo ra bằng các phán quyết của tòa án (án
lệ) và bằng tập qn pháp. Thuật ngữ này cịn có nghĩa là “luật” chứ không phải “công
bằng” (equity). Thêm vào đó, thuật ngữ này cịn có nghĩa là luật khơng phải luật nước
ngồi, đó là luật của Anh tại Anh quốc và tại các thuộc địa của Anh. Cuối cùng,
“Common law” cịn hàm chỉ tồn bộ những hệ thống pháp luật bắt nguồn từ hệ
thống pháp luật Anh, ở đó phán quyết của tịa giữ vị trí quan trọng trong cấu trúc
nguồn luật. Như vậy, có thể thấy rằng nghĩa chuẩn xác của thuật ngữ “Common law”
hoàn toàn phụ thuộc vào ngữ cảnh cụ thể mà thuật ngữ được sử dụng.
Những đặc điểm cơ bản của dòng họ Common law

Thứ nhất, Common law là dịng họ pháp luật trong đó các hệ thống pháp luật trực
thuộc ít nhiều chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật của Anh và thừa nhận án lệ
như nguồn luật chính thống, tức là thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp.
Thứ hai, thẩm phán trong các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Common law đóng
vai trị quan trọng trong việc sáng tạo và phát triển các quy phạm pháp luật, tức là thẩm
phán có vai trị làm luật.
Thứ ba, nhìn chung các hệ thống pháp luật thuộc dịng họ Common law khơng có sự
phân biệt giữa luật cơng và luật tư như dịng họ Civil law, trừ pháp luật Anh. Tuy
nhiên, sự phân biệt giữa luật cơng và luật tư ở Anh khơng có cùng mục đích như ở các
nước thuộc dịng họ Civil law. Ở Anh, việc phân biệt hai mảnh luật này là nhằm xác định
thủ tục tố tụng nào cần áp dụng để giải quyết vụ việc có liên quan.
Thứ tư, chế định pháp luật tiêu biểu của các hệ thống pháp luật dòng họ Common
law là chế định ủy thác – chế định đặc thù của hệ thống pháp luật Anh, ra đời gắn liền
với nhu cầu giải quyết tranh chấp đất đai phát sinh từ hợp đồng ủy thác đất đai ở Anh thời
trung cổ nhằm đưa ra giải pháp công bằng đối với những người được ủy thác có hành vi
chiếm dụng đất đai của người ủy thác trong quá trình thực hiện hợp đồng ủy thác đất đai.
Ngày nay phạm vi điều chỉnh đã được mở rộng sang nhiều quan hệ xã hội thuộc các lĩnh
vực khác.
Thứ năm, sau khi hình thành ở Anh quốc, Common law đã lan sang khắp các lục
địa châu Phi, châu Mỹ đến châu Úc và châu Á và làm thành dòng họ Common law,
một trong hai dòng họ pháp luật lớn nhất thế giới.
1.4. Vị trí của án lệ trong Common law


Theo nghĩa rộng, “Án lệ” là một hệ thống những quy tắc bất thành văn đã được
công nhận và được hình thành thơng qua những các quyết định của tịa án, đó là
ngun tắc bắt buộc địi hỏi Thẩm phán trong hệ thống các cơ quan Tòa án khi xét xử
một vụ việc cụ thể cần phải căn cứ ngay vào các bản án, các vụ việc trước đó để giải
quyết, đặc biệt là các phán quyết của các Tòa cấp cao (Hight Court), Tòa phúc thẩm
(Court of Appeal) và Tòa án tối cao (Supreme Court hoặc House of Lord Thượng nghị

viện, là Tối cao Pháp viện trong hệ thống tịa án Anh), hay là những ngun tắc khơng
theo luật định được đưa ra từ các quyết định tư pháp, hay là hệ thống những nguyên tắc
bất thành văn đã được cơng nhận và hình thành thơng qua các quyết định của Tòa án.
Theo nghĩa hẹp, “Án lệ” là một cách thức sử dụng các nguyên tắc có sẵn như là
những căn cứ áp dùng để quyết định các vụ việc sẽ xảy ra trong tương lai, đây chính
là phương pháp điển hình của sự hình thành và phát triển truyền thống pháp luật án lệ.
Hay nói cách khác án lệ được hiểu bao gồm toàn bộ các quyết định, bản án được tun bố
bởi Tịa án và có giá trị như nguồn luật, đưa ra những nguyên tắc, nền tảng áp dụng cho
các vụ việc xảy ra sau này, hay là cách thức sử dụng các nguyên tắc có sẵn như là những
căn cứ áp dụng để quyết định các vụ việc xảy ra trong tương lai.
Theo cách hiểu ngắn gọn nhất  “Án lệ” là bản án đã tuyên hoặc sự giải thích, áp
dụng pháp luật được coi như tiền lệ là cơ sở để các thẩm phán sau đó có thể áp dụng
tương tự.
Trong hệ thống nguồn luật của dịng họ Common Law ln chịu ảnh hưởng của hệ
thống pháp luật Anh và thừa nhận án lệ như nguồn luật chính thống, tức là thừa nhận
học thuyết tiền lệ pháp.
Học thuyết tiền lệ pháp ở các hệ thống pháp luật này đều ít, nhiều chi phối luật án
lệ theo hướng: các phán quyết đã tuyên của Tòa án cấp trên nói chung có giá trị
ràng buộc tịa án cấp dưới trong quá trình xét xử các vụ việc hiện tại. Học thuyết này
được triển khai áp dụng trên thực tế thông qua việc xuất bản các phán quyết của Tịa án
có giá trị ràng buộc để tạo điều kiện thuận lợi và tạo nguồn tài liệu có hệ thống, đáng tin
cậy cho việc áp dụng thống nhất tiền lệ pháp tại các tịa án trên tồn quốc trong cơng tác
xét xử.

VI. Vai trị của án lệ trong hệ thống Common Law
2.3. Giá trị của án lệ
- Mang tính thực tiễn cao:


o Quan niệm về lý lẽ hay các quy tắc án lệ mang tính chất ân đạo chứ khơng phải các lý

lẽ mang tính tự nhiên
o Các quy tắc án lệ được gọi là các quy tắc không thành văn. Họ cho rằng các quy phạm
pháp luật càng chặt chẽ sẽ càng làm cho nó cứng nhắc, khơ khan
- Án lệ có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách nhanh chóng và
kịp thời
- Án lệ thể hiện tính khách quan và cơng bằng
Án lệ ngày càng chứng tỏ vai trị của mình trong đời sống pháp lý hiện đại và cần
được tiếp cận như 1 nguồn luật không thể thiếu ở bất cứ quốc gia nào trong thế giới hội
nhập ngày nay.
2.4. Vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật Common Law
Án lệ trong hệ thống thơng luật (common law) có vai trị hết sức quan trọng, thể
hiện ở chỗ chúng được coi là nguồn luật không thành văn áp dụng để giải quyết các vấn
đề tương tự và là cơ sở để đảm bảo sự nhất quán trong hoạt động xét xử. Ở hệ thống pháp
luật Common Law, án lệ được xem là nguồn luật chủ yếu, có giá trị pháp lý trực tiếp.
Ở nhiều lĩnh vực người ta khơng pháp điển hóa thành các bộ luật. Tuy nhiên, mức độ sử
dụng cũng như vai trò của án lệ trong cùng hệ thống pháp luật ở từng quốc gia là khác
nhau. Hai quốc gia điển hình trong hệ thống thơng luật là Anh và Mỹ. Cụ thể:
2.2.3. Vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật Anh
Án lệ được coi là nguồn luật quan trọng đầu tiên do lịch sử hình thành của hệ thống
pháp luật này. Anh được coi là quê hương của án lệ, án lệ đóng vai trị quan trọng và
chiếm đa số trong hệ thống pháp luật Anh
Khoảng thế kỉ XIII, nguyên tắc “Stare decisis” có nghĩa là tuân thủ các phán
quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật đã được thiết lập trong
án lệ. Theo nguyên tắc này, tòa án cấp dưới chịu sự ràng buộc bởi các nguyên tắc pháp lý
do tòa án cấp trên sáng tạo ra được ghi nhận trong các bản án trong quá trình xét xử các
vụ việc trong quá khứ. Mức độ tuân thủ nguyên tắc “Stare decisis” của các tịa án Anh
thể hiện ở sự khơng muốn phủ nhận các phán quyết trong quá khứ của chính mình.
Ngồi ra các tịa án Anh tạo ra luật và thay đổi luật bằng các bản án của họ nhưng các
thẩm phán có xu hướng ra sức biện luận trong các bản án của mình rằng trong các vụ án
đang thụ lí họ khơng làm gì hơn ngồi việc tìm ra các quy định pháp luật đã có và đã

được động đến trong án lệ.
Ở Anh những phán quyết của Thượng nghị viện, tòa án phúc thẩm và tòa án cấp cao
đều có giá trị ràng buộc đối với các tịa án thấp hơn. Nhưng chỉ có bản án được xuất


bản mới trở thành án lệ và có giá trị ràng buộc. Trong mỗi bản án cũng chỉ có phần
các nguyên tắc đề ra phán quyết là có giá trị ràng buộc; cịn phần bình luận của
thẩm phán chỉ có giá trị để tham khảo.
Việc áp dụng án lệ phải thỏa mãn những điều kiện về nguyên tắc và đòi hỏi trên
thực tế. Án lệ phải tồn tại từ lâu và phù hợp với nội dung vụ việc đang xem xét.
Thẩm phán thường phải sử dụng phương pháp chung là đi tìm án lệ để áp dụng và nếu
khơng có án lệ có liên quan, người thẩm phán sẽ vận dụng án lệ có bản chất gần gũi với
vụ việc đang giải quyết. Thực tế đòi hỏi việc sử dụng án lệ phải đảm bảo được tính chắc
chắn và sự ổn định của một hệ thống pháp luật.
2.2.4. Vai trò của án lệ trong hệ thống nguồn luật Mỹ
Án lệ ở Mỹ được coi như một phương pháp, cách thức giải thích luật. Án lệ ở
Mỹ khác so với án lệ ở Anh mặc dù 2 quốc gia đều thuộc dòng họ Common Law. Vai trò
của nguyên tắc “stare decicis” ở mỗi nước không giống nhau và ở Anh được áp dụng khắt
khe hơn. Ở Mỹ, tiền lệ pháp được tất cả các tịa án trích dẫn rất thường xun nhưng
trong các bản án cũng dành rất nhiều chỗ cho quan điểm của thẩm phán về chính sách
chung. So với thẩm phán Anh, thẩm phán Mỹ đã đề cập nhiều hơn tới hệ quả thực
tiễn của một phán quyết xem nó có phù hợp với nhu cầu chính sách hay không hơn
là sự kiên định, phù hợp với lập luận của thẩm phán trong án lệ trước đó. Ở Mỹ mặc
dù tỉ lệ án lệ trong hệ thống nguồn pháp luật khơng cao như Anh nhưng án lệ của Tịa án
cấp cao lại có vị trí đặc biệt trong cơ chế bảo hiến. Nhiều quy định trong Hiến pháp đã
được cụ thể trong các phán quyết của tòa án. Ở Mỹ mỗi bang đều có hệ thống tịa án độc
lập của riêng mình. Mặc dù tiền lệ pháp ở mỗi bang khơng chịu sự ràng buộc những
bang cịn lại nhưng rất có thể có ảnh hưởng lẫn nhau và cũng có thể ở trong trạng
thái trái ngược nhau do các bang có quan điểm khác nhau về vấn đề cần giải quyết. Do
vậy, dường như án lệ không hoạt động hiệu quả ở Mỹ khi các phán quyết ở các bang có

thể xung đột với nhau, khơng nhất thiết có sự ràng buộc lẫn nhau và khơng có tịa án nào
coi mình chịu sự ràng buộc bởi phán quyết của chính mình. Tịa án tối cao của Mỹ cũng
khẳng định rằng kết quả xét xử của một vụ việc có thể dựa trên chính sách chung nhiều
hơn là dựa vào án lệ.
Qua những phân tích trên, có thể thấy rằng án lệ có vai trị vơ cùng quan trọng trong
hệ thống nguồn luật của dòng họ Common Law. Tiêu biểu là ở hai hệ thống pháp luật
lớn trên thế giới Anh - Mỹ tuy có sự tương đồng về lịch sử hình thành, đều thuộc hệ
thống thơng luật nhưng ở mỗi quốc gia thì vai trị của án lệ lại được thể hiện rất
khác biệt. Chính điều này đã góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú trong hệ
thống nguồn luật của dòng họ Common Law.


VII. Sự khác biệt về vai trò của án lệ giữa hệ thống pháp luật Anh và Mỹ
3.3. Nguyên nhân sự khác biệt
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt này, có thể kể đến như sau:
Nguyên nhân quan trọng và sâu xa: Anh là nước khởi nguồn của văn hố án lệ. Án
lệ có lịch sử phát triển lâu dài và chiếm vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Anh.
Còn Mỹ là nước chịu sự đơ hộ của Anh vì thế nên cũng có truyền thống án lệ. Tuy nhiên,
khi giành độc lập thì Mỹ xây dựng Hiến pháp thành văn để khẳng định rõ ràng chủ quyền
độc lập của mình. Từ khi mới giành được độc lập năm 1776 thì Mỹ khơng muốn phụ
thuộc vào vương quốc Anh, tiền lệ pháp có nguồn gốc từ Anh nên không thực sự
được ưa chuộng, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế xã hội có nhiều thay đổi. Mặt khác,
nước Mỹ là hợp chủng quốc, người Anh tuy chiếm phần đông nhưng không thể phủ nhận
sự tồn tại của các dân tộc khác, với bản sắc văn hóa, tơn giáo, chủng tộc khác nhau, do
đó, việc tiếp thu, chấp nhận thụ động án lệ – một thứ cứng nhắc và ra đời từ rất lâu không
phù hợp với người Mỹ. Đồng thời Mỹ không phải là nước khởi nguồn của văn hoá án
lệ nên họ cũng sẵn sàng cải tiến tập quán đó hơn, một trong những cách cải tiến tập
quán án lệ chính là ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, cả hai hệ thống pháp luật Anh, Mỹ đều tôn trọng nguyên tắc “stare decisis”
nghĩa là tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật

đã được thiết lập trong án lệ. Tuy nhiên vai trị của ngun tắc “stare decisis” ở mỗi
nước khơng giống nhau, và dường như sự tuân thủ nguyên tắc này ở Anh có phần khắt
khe hơn rất nhiều so với ở Mỹ. Từ nguyên nhân sâu xa trên mà dẫn đến hệ thống pháp
luật Anh và Mỹ mặc dù cùng thuộc dịng họ Commom law nhưng vẫn có sự khác biệt
giữa vai trò của án lệ ở Anh và Mỹ.
Thứ ba, nguyên nhân của sự khác biệt cũng đến từ hình thức chính thể: Anh là
một nước qn chủ nghị viện, vẫn phụ thuộc chế độ quân chủ có nữ hoàng hoặc nhà
vua nhưng chỉ là biểu tượng của nước Anh, còn quyền lực thực chất nằm trong tay nghị
viện đứng đầu là Thủ tướng. Mỹ là nước cộng hoà tổng thống với hai đảng Dân chủ và
Cộng hoà thay nhau cầm quyền và cũng là một quốc gia liên bang, mỗi bang đều có pháp
luật riêng của mình nhưng chịu sự chi phối của toà án liên bang nên trong đó ln có sự
dung hồ về lợi ích giữa các bang.


Ngồi ra, giữa Anh và Mỹ có sự khác nhau rất lớn về mặt kinh tế, cơ cấu chủng
tộc, tôn giáo, mức sống (v.v…), tư tưởng tình cảm, giáo dục, thậm chí tiếng Anh tại Anh
và Mỹ cũng có sự khác nhau.
Những nguyên nhân trên làm cho án lệ ở Anh và Mỹ có những nét riêng, đặc
thù dẫn đến hệ quả về mặt pháp lý cách giải quyết vấn đề của người Mỹ rất khác so
với người Anh. Pháp luật của Anh chủ yếu gây ảnh hưởng đối với pháp luật Mỹ ở những
lĩnh vực tạm gọi là “luật tư”, cịn với những lĩnh vực khác như luật hình sự, tố tụng hình
sự, thương mại… thì ảnh hưởng của pháp luật Anh đối với pháp luật Mỹ là khá lu mờ. Do
đó một số luật gia Mỹ có thể dễ dàng tiếp cận pháp luật Anh cũng như một số án lệ Anh
vẫn được dẫn chiếu để giải quyết một số vụ việc ở Mỹ. Ngược lại luật gia Anh sẽ gặp khó
khăn khi tiếp cận pháp luật Mỹ.
3.4. Sự khác biệt
Sự khác biệt về vai trò của án lệ giữa hệ thống pháp luật Anh và Mỹ được thể hiện chủ
yếu ở việc áp dụng nguyên tắc stare decisis ở Anh có phần khắt khe hơn ở Mỹ.
Thực tế cho thấy, các tòa án của Anh thường bám sát án lệ trong q trình xét xử
hơn các tịa án của Mỹ vì các tịa án Mỹ khi giải quyết các vấn đề liên quan tới Hiến

pháp có quyền đi chệch khỏi án lệ. Ở Mỹ, tiền lệ pháp được tất cả các tịa án trích dẫn
rất thường xun nhưng phán quyết của tòa án cũng dành rất nhiều chỗ cho quan
điểm của thẩm phán về chính sách cơng, đặc biệt với những vụ việc mà tòa án coi là
quan trọng. So với các thẩm phán Anh, thẩm phán Mỹ rõ ràng quan tâm hơn tới hệ
quả thực tiễn của một phán quyết và tới việc liệu những hệ quả này có phù hợp với
u cầu của chính sách hơn là quan tâm tới sự kiên định của người thẩm phán trong
việc xem xét vụ việc hiện tại trong mối quan hệ với tiền lệ pháp luật có liên quan.

Sự hình thành án lệ

Vai trị

Anh
Được tạo ra từ các phán quyết
của toà án cấp trên

Mỹ
– Toà án bang.
– Toà án liên bang.
– Toà án tối cao Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ.

– Pháp luật thành văn có vị trí
cao hơn án lệ nhưng thẩm
phán Anh thường cố gắng tìm
cách để áp dụng án lệ nhằm
hạn chế tối đa sự áp dụng luật

– Luật thành văn có vị trí cao
nhất đặc biệt là hiến pháp

Hoa Kỳ. Tất cả các văn bản
luật và án lệ nếu trái với Hiến
pháp để sẽ bị tuyên bố là vi


thành văn.

hiến.

Cách thức áp dụng

Án lệ ở Anh được các thẩm
phán áp dụng một cách cứng
nhắc.

Án lệ đươc các thẩm phán áp
dụng một cách mềm dẻo, linh
hoạt hơn.

Nguyên tắc áp dụng

Rule of stare decicis (tất cả
các tòa án dều phải tuân theo
án lệ (trừ Ủy ban phúc thẩm
Thượng nghị viện).

Rule of precedent (tất cả các
tịa án đều có quyền thay đổi
án lệ).


Sự ghi chép

Tại Anh các án lệ bắt buộc
thường được ghi chép trong
Law Reports, All England
Law Reports, Weekly Law
Reports.

Tại Mỹ tập hợp các án lệ
được in trong tuyển tập Trình
bày về pháp luật
(Restatement of the Law) của
một hiệp hội tư nhân có tên là
Viện luật Hoa Kỳ (American
Law Institute).

VIII. Kết luận
Như vậy, án lệ là nguồn luật cơ bản và bắt buộc áp dụng trong hệ thống pháp luật
Common Law, hơn nữa án lệ được ban hành càng lâu thì càng có giá trị áp dụng cao.
Qua q trình nghiên cứu và hoạt động thực tiễn xét xử, có thể thấy án lệ có rất nhiều ưu
điểm nổi trội như:
- Án lệ giải quyết kịp thời các vụ việc xảy ra trên thực tế nhưng chưa có văn bản
quy phạm pháp luật quy định cụ thể hoặc có quy định nhưng lại có nhiều cách
hiểu khác nhau
- Việc lực chọn tốt các án lệ, sẽ làm tiền đề cho các vụ việc sau này khi xét xử, tránh
được tình trạng oan sai.
- Việc áp dụng án lệ tạo ra sự bình đẳng, minh bạch, cơng khai trong hoạt động xét
xử.
- Việc thừa nhận án lệ cũng là một điểm lợi cho các Thẩm phán khi xét xử, chỉ cần xem
xét đối chiếu để đưa ra phán quyết, tránh trường hợp mỗi người nhìn nhận, đánh



giá vấn đề một kiểu dẫn đến trong dự luận xã hội cho rằng việc xét xử này khơng
bình đẳng
Bên cạnh những thành quả đạt được thì các nước trong hệ thống Common Law cũng
cần nâng cao chất lượng quan điểm pháp lý của các Thẩm phán. Các Thẩm phán
cần phải nâng cao trình độ của mình, đảm bảo yếu tố tranh luận và đa dạng về lý lẽ
khi đưa ra lập luận, mở rộng nguồn tài liệu là cơ sở đưa các lập luận hay lý lẽ để
thực hiện các quyết định, cuối cùng là các lập luận này cần phải được đưa vào cộng
đồng pháp lý cũng như thực tiễn pháp lý để kiểm nghiệm và bổ sung hồn chỉnh –
điều này địi hỏi các Thẩm phán cần phải biết lắng nghe, loại bỏ tư tưởng bảo thủ.
Việt Nam có hệ thống pháp luật mang nhiều đặc điểm của hệ thống Civil law. Tuy
nhiên pháp luật Việt Nam vẫn luôn học hỏi những điểm sáng của pháp luật thế giới, cụ
thể Luật Tòa án nhân dân 2014 nước ta đã cơng nhận vai trị của án lệ trong việc
làm rõ các quy định pháp luật có cách hiểu khác nhau và đã cho phép công bố, áp
dụng án lệ trong q trình giải quyết vụ án. Nói cách khác thì án lệ ở Việt Nam khơng
được xem là nguồn luật cơ bản, chỉ là căn cứ để các thẩm phán tham khảo, còn việc làm
luật vẫn thuộc về Quốc hội.



×