Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Vai trò của luật so sánh trong cải cách pháp luật quốc gia (cấy ghép pháp luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.28 KB, 12 trang )

VAI TRÒ CỦA LUẬT SO SÁNH TRONG CẢI CÁCH PHÁP LUẬT
QUỐC GIA (CẤY GHÉP PHÁP LUẬT)
1. Vai trò của luật so sánh trong cải cách pháp luật quốc gia:
-

Giúp nhà làm luật có thể dự báo được 1 cách chính xác khả năng tác động của các
đạo luật hoặc giải pháp pháp lý cụ thể ở nước mình nếu tiến hành các nghiên cứu
so sánh các giải pháp pháp lý đã được sử dụng ở các quốc gia khác nhau.

-

Thay vì phải dự đốn và có nguy cơ phải chịu những giải pháp kém thích hợp, họ
có thể khai thác tham khảo các kinh nghiệm quý báu, phong phú từ các hệ thống
pháp luật nước ngoài.

-

Các nghiên cứu so sánh cũng như việc nghiên cứu các hệ thống nước ngoài sẽ
cung cấp cho các nhà làm luật hệ thống khái niệm cũng như giữa các giải pháp mà
pháp luật nước ngồi sử dụng để giải quyết vấn đề nào đó phù hợp với điều kiện
và hồn cảnh của mình.

-

Việc sử dụng khái niệm và các giải pháp pháp lý nước ngồi trong q trình xây
dựng pháp luật có thể tiến hành theo hai phương thức:
+ Dựa vào kinh nghiệm pháp luật nước ngoài mà cụ thể là hệ thống khái niệm và
giải pháp để xây dựng giải pháp cho nước mình.
+ Cấy ghép pháp luật.

2. Phương thức cấy ghép pháp luật quốc gia


a. Khái niệm
-

Cấy ghép pháp luật được hiểu là quá trình “di chuyển” của các quy tắc pháp lý hay
các chế định pháp luật (hoặc có thể là các học thuyết pháp lý) từ nước này sang
nước khác trong quá trình làm luật và cải cách pháp luật. Sự di chuyển này thể
hiện ở việc các quy tắc, chế định, học thuyết pháp lý của nước A được nước B tiếp
nhận và đưa vào hệ thống pháp luật của mình. Việc tiếp nhận có thể thực hiện ở
nhiều cấp độ: quy tắc đơn lẻ, một chế định, một nguyên tắc pháp lý và thậm chí, cả
cấu trúc pháp luật.

-

Lịch sử đã chứng kiến nhiều sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài ở tất cả các châu
lục. Chẳng hạn, Bộ luật dân sự Napoleon 1804 của người Pháp đã được phát triển


từ sự vay mượn nhiều quy tắc pháp lý của luật La mã (Roman law) để rồi sau đó,
nhiều nước châu Âu lại vay mượn Bộ luật nổi tiếng này để xây dựng hệ thống
pháp luật dân sự của mình. Hệ thống pháp luật kiểu Anh (English law) đã trở
thành hình mẫu pháp luật của các thuộc địa Anh như: Mỹ, Úc, New Zealand,
Singapo, Ấn Độ, Pakistan,.. để có hệ thống Common law như hiện nay.
-

Song, thế giới cũng chứng kiến những sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài một
cách tự nguyện để phát triển. Nhật Bản là một ví dụ điển hình về sự vay mượn rất
thành cơng pháp luật nước ngồi. Chúng ta có thể thấy “hình dáng” truyền thống
pháp luật của cả civil law (dân luật) và common law (thông luật) của Pháp, Đức,
Hoa Kỳ trong hệ thống pháp luật hiện hành của Nhật Bản.


b. Đặc điểm
-

Thứ nhất, cấy ghép pháp luật là việc đưa quy định pháp luật từ một quốc gia này
sang áp dụng tại một quốc gia khác.

-

Thứ hai, quá trình “di chuyển được thể hiện ở việc các quy tắc, chế định, học
thuyết pháp lý của nước A được nước B tiếp nhận và đưa vào hệ thống pháp luật
của mình.

-

Thứ ba, việc tiếp nhận có thể thực hiện ở nhiều cấp độ: quy tắc đơn lẻ, một chế
định, một nguyên tắc pháp lý và thậm chí, cả cấu trúc pháp luật.

c. Mục đích của việc cấy ghép
Mục đích của việc chuyển hóa luật là nhằm hài hịa hóa pháp luật, cải cách pháp luật,
thúc đẩy những chuyển biến về kinh tế - xã hội, tìm hiểu các giải pháp đối với những
vấn đề cụ thể của luật trong nước, xóa đi những khác biệt giữa các hệ thống luật pháp
ở những khu vực xung đột, hoặc tìm kiếm những góc nhìn mới đối với luật trong
nước.
d. Các phương thức cấy ghép trong lịch sử:
Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam đã chứng kiến những sự tiếp nhận pháp
luật nước ngoài quy mô lớn. Trước hết, là sự tiếp nhận pháp luật Trung Hoa trong lịch sử
của các triều đại phong kiến Việt Nam, sau 1000 năm cai trị thì việc tiếp nhận pháp luật
phong kiến Trung Hoa, hệ tư tưởng và các quy tắc pháp luật Trung Hoa vào Việt Nam của



các triều đại phong kiến nước ta cũng là điều dễ hiểu. Quá trình du nhập pháp luật
phương Tây vào Việt Nam theo đoàn quân viễn chinh Pháp từ cuối thế kỷ thứ 19 lại là
một quá trình cưỡng bức. Và có lẽ cũng vì thế mà người Pháp đã không mấy thành công
khi áp dụng pháp luật của họ vào Việt Nam. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, các tư
tưởng, học thuyết, quy tắc pháp lý xã hội chủ nghĩa từ Liên Xơ, Cộng hồ dân chủ Đức
và một vài nước xã hội chủ nghĩa khác, cũng đã được tiếp nhận tự nguyện vào Việt Nam,
nhằm mục tiêu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
 Quốc triều hình luật cấy ghép từ luật nhà Đường và nhà Minh:
-

Bộ Quốc triều hình luật là thành tựu chung của toàn bộ nền pháp chế thời Lê với
nhiều lần được san định, bổ sung, hoàn chỉnh và in khắc. Quốc triều hình luật là sự
tuyển chọn tổng hợp nhiều điều luật được ban hành từ triều vua Lê Thái Tổ, rồi
sau đó khơng ngừng được các triều vua kế tiếp bổ sung, hồn chỉnh dần, trong đó
chắc chắn là có những đóng góp to lớn của ơng vua nổi tiếng văn hiến Lê Thánh
Tông và niên hiệu Hồng Đức của ơng.

-

Bộ luật nhà Lê có cấy ghép từ luật nhà Đường và nhà Minh của Trung Quốc. Tuy
nhiên, bộ Luật nhà Lê cịn có một khía cạnh khác, đó là tính đặc thù, có tầm quan
trọng lớn để giúp chúng ta hiểu được xã hội Việt Nam truyền thống. Các nhà làm
luật thời Lê, một mặt theo pháp luật Trung Quốc nhưng mặt khác lại kết hợp với
những hệ thống của chính họ. 722 điều khoản bộ Luật nhà Lê, nếu đem so sánh
với 502 điều trong bộ Luật nhà Đường và 460 điều trong bộ Luật nhà Minh thì ít
nhất cũng hơn hai bộ luật đó tới 220 điều.

-

Những điểm tương đồng được phản ánh trong hầu hết các điều khoản mà Quốc

triều hình luật vay mượn hồn toàn hay một phần từ các luật Trung Quốc. Bởi đó
đều là những điều được xây dựng trên cơ sở định hướng giá trị quan Nho giáo mà
hai giá trị quan trọng nhất là trung và hiếu. Đặc biệt, bộ luật dành hẳn chương Vệ
cấm gồm 47 điều khoản, trong đó có 17 điều vay mượn từ các đạo luật Trung
Quốc, nhằm bảo vệ tuyệt đối tính mạng, thân thể, uy tín và quyền sở hữu tài sản
của vua.


-

Đi đơi với việc pháp chế hóa quan hệ vua - tôi theo định hướng giá trị của chữ
trung, Quốc triều hình luật cũng có nhiều điều vay mượn các luật Trung Quốc
(như các điều 130, 131, 317, 318, 504,…) nhằm trừng trị những hành vi không tôn
trọng chữ hiếu.

 Từ những điểm vừa nêu trên đây, ta thấy được việc pháp điển hóa những giá trị
văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc đã thể hiện rõ tính độc đáo của Quốc
triều hình luật, cũng như cho thấy những ông vua đầu tiên của nhà Lê, nhất là Lê
Thái Tổ và Lê Thánh Tơng, cùng những trí thức lớn như Nguyễn Trãi, Đỗ
Nhuận… đã dày công tham khảo, đối chiếu, so sánh, suy ngẫm về từng điều khoản
của các bộ luật Trung Quốc để từ đó đi đến quyết định xem nên tiếp nhận những
gì, khước từ những gì, đồng thời cần bổ sung, sáng tạo thêm những gì trong suốt
quá trình soạn thảo và phê duyệt hệ thống pháp luật của triều đại mình. Đây chính
là biểu hiện điển hình của tiếp biến văn hóa thơng qua đối thoại giữa văn hóa Đại
Việt với văn hóa Trung Hoa trong quá trình xây dựng pháp luật ở thời Lê.
 Hoàng Việt Luật lệ cấy ghép pháp luật nhà Thanh:
-

Về kết cấu, các điều khoản trong “Hoàng Việt luật lệ” chia làm luật và lệ. Kết cấu
này mô phỏng bộ luật của nhà Thanh ở Trung Quốc, không giống với kết cấu của

bộ “Quốc triều hình luật” nhà Lê trước đó. Các điều lệ bổ sung kèm với các điều
luật làm bớt đi tính lý thuyết của bộ luật, phù hợp hơn với thực tiễn xã hội đương
thời. Vì thế, các điều lệ thường có tính thực tiễn hơn so với điều luật. Cách kết cấu
điều khoản thành hai phần luật và lệ vừa bảo đảm được tính ổn định của luật pháp,
vừa thể hiện sự linh hoạt trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật, thuận
tiện cho người thi hành và người chấp hành luật. Đây được đánh giá là bước tiến
mới trong lịch sử lập pháp của nhà Minh - Thanh ở Trung Hoa. Do vậy, việc nhà
Nguyễn tiếp thu cách kết cấu của bộ luật nhà Thanh cũng phần nào dễ lý giải.

-

Vì kết cấu bộ luật mô phỏng của nhà Thanh nên tên gọi của bộ luật nhà Nguyễn là
“Hoàng Việt luật lệ”, như luật nhà Thanh là “Đại Thanh luật lệ”. Giống như “Đại
Thanh luật lệ”, “Hoàng Việt luật lệ” ngoài quyển đầu là mục lục các điều luật,
bảng (hay đồ), thể lệ về phục tang, diễn giải thuật ngữ, các quyển còn lại được


chia thành 6 thể loại, tương ứng với việc của 6 bộ: Lại, Bộ, Lễ, Binh, Hình, Cơng.
Trong từng phần Lại luật, Công luật, Hộ luật, Lễ luật, Binh luật, Hình luật thì các
đề mục cũng giống hồn tồn với bộ luật nhà Thanh.
-

Về nội dung của các điều luật, nếu làm một phép so sánh tỉ mỉ giữa “Hoàng Việt
luật lệ”và “Đại Thanh luật lệ” thì thấy, ngoại trừ những điều kể trên, còn khoảng
vài chục điều trong luật Nguyễn không sao chép nguyên xi mà mô phỏng lại trên
tinh thần giữ lại tên gọi và những nội dung cơ bản của các điều luật nhà Thanh có
cải biến chút ít. Cụ thể như sau: Phần “Danh luật lệ”, điều luật thứ 33 “Hóa ngoại
nhân hữu phạm” (Giáo hóa người nước ngoài phạm tội) của “Hoàng Việt luật lệ”
tên gọi giống điều luật thứ 34 của “Đại Thanh luật lệ” nhưng nội dung thì hồn
tồn khác nhau. Luật Nguyễn quy định: “Phàm người nước ngoài (đã hàng phục)

mà phạm tội thì đều căn cứ theo luật để xét. Người nước ngồi đã đến quy phụ thì
là dân của nhà vua, nếu mắc tội cứ chiếu theo luật xét xử để chứng tỏ khơng phải
là ngồi”. Trong khi đó, điều luật này của nhà Thanh nói về đối tượng những vùng
còn lạc hậu phạm tội: “Những người vùng lạc hậu (đã hàng phục) nếu phạm tội
vẫn chiếu theo luật mà xét xử. Bắt được những người ở những vùng lệ thuộc vẫn
chiếu theo lệ đã định với người Mông Cổ để xét xử”

 Sự khác biệt chưa đủ để tạo nên dấu ấn của nền lập pháp Việt trong các điều luật
của “Hồng Việt luật lệ” nhưng nó thể hiện sự cố gắng, nỗ lực của các nhà làm
luật thời Nguyễn trong quá trình sao chép một bộ luật của một vương triều khác ở
một quốc gia khác, để bớt đi sự khập khiễng khi áp dụng vào xã hội Việt Nam thời
Nguyễn.
e. Các phương thức cấy ghép hiện nay (liên hệ Việt Nam)
Dựa trên thực tế có thể thấy hệ thống pháp luật nước ta những thành tựu đáng trân trọng
của nhà nước ta, tuy nhiên không thể phủ nhận những khuyết điểm và vẫn còn nhiều bất
cập trong khung pháp luật vẫn chưa được hồn thiện. Chính vì vậy việc áp dụng và đòi
hỏi phải biết pháp luật nước ngồi là điều quan trọng để từ đó có thể tiếp thu có chọn lọc
áp dụng dựa trên thực tế hiện nay ở Việt Nam và giúp chúng ta thấy được một số khuyết
điểm ở pháp luật nước ta . Điều đó được thể hiện trong việc tiếp nhận những luồng tư tư
tưởng khác nhau trong việc vận dụng luật so sánh để cấy ghép vào Việt Nam.


-

 Cấy ghép bộ luật dân sự, luật thương mại của Pháp
Pháp: Là quốc gia ảnh hưởng tới nền pháp luật nước ta nhiều nhất hiện nay.
+ Yếu tố lịch sử: bởi Pháp là quốc gia từng mang một nền pháp luật vào đất

nước Việt Nam từ thời kỳ chiến tranh, do vậy pháp luật vẫn bị ảnh hưởng bởi pháp luật
Pháp

+Yếu tố thực tế: Hiện nay Pháp là quốc gia có nền pháp luật tiến bộ trên thế
giới, việc tiếp nhận và vận dụng có nguyên tắc các quy định trong pháp luật của Pháp sẽ
giúp Việt Nam thấy được những điểm hạn chế và khuyết điểm trong pháp luật từ đó có
thể hồn thiện hơn.
+Lĩnh vực cấy ghép: Hiện nay lĩnh vực được Việt Nam vận dụng và cấy ghép
nhiều dựa trên luật so sánh có thể kể đến là: lĩnh vực dân sự và Lĩnh vực thương mại, ….
Trong hai lĩnh vực đấy thì việc khơng phân biệt được hợp đồng thuê tài sản dân sự và hợp
đồng của hàng thương mại là một khiếm khuyết ở trong hai bộ luật ở nước ta là bộ luật
dân sự và luật thương mại, nhưng ở bộ luật Pháp lại làm rất tốt việc giải quyết hai khiếm
khuyết ấy. Chúng ta có thể vận dụng các quy định trong pháp luật pháp làm phương
hướng để hoàn thiện, thiết lập những quy định phù hợp với hoàn cảnh nước ta.
-

Anh: Tiếp nhận chế định “Trung thực” trong pháp luật hợp đồng Anh quốc, từ đó
sẽ đưa ra những nguyên tắc mới trong những thay đổi trong luật hợp đồng từ việc
đưa ra quyết định của chủ thể, cũng như nguyên tắc vận dụng của tòa trong bộ luật

-

dân sự hiện nay.
Trước sự phát triển của xu thế tồn cầu hóa và tiếp cận hiện nay thì nhà nước ta
khơng chỉ tiếp cận pháp luật nước ngồi thơng qua pháp luật quốc gia mà còn tiếp
nhận các hệ thống pháp luật nước ngồi thơng qua:
+ Tiếp nhận thơng qua việc nội luật hố các cơng ước, điều ước, hiệp định quốc tế
song phương và đa phương
+ Tiếp nhận pháp luật trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế như: ASEAN,
APEC và WTO, …
+ Tiếp nhận từ các luật mẫu hay các điều kiện trong các lĩnh vực về thương mại và
dân sự



+ Tiếp nhận thông qua việc tư vấn đào tạo chun gia pháp luật nước ngồi thơng
qua nghiên cứu khoa học và trao đổi tư liệu
 Tóm lại trong hồn cảnh hội nhập hiện nay việc vận dụng luật so sánh sẽ là tiềm
năng to lớn trong việc hoàn thiện pháp luật hiện nay khi mà luôn không ngừng
tiếp nhận, lựa chọn có chọn lọc những giá trị để phù hợp với từng hoàn cảnh của
đất nước. Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay luật so sánh phần nào cũng phát
huy được những tiềm năng đáng có trong việc hồn thiện pháp luật nhưng lại gặp
nhiều khó khăn trong việc thiếu luật gia hiểu về pháp luật nước ngoài. Bên cạnh
việc áp dụng Luật so sánh trong việc hoàn thiện pháp luật thì việc mời các chun
gia nước ngồi cùng chung ta sửa đổi pháp luật đang được đẩy mạnh nhằm nâng
cao tính hiệu quả của pháp luật nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ nhiều hạn chế

-

trong việc tiếp cận các chuyên gia.
 Phương thức tiếp cận (các cuộc đàm thoại, trao đổi với chuyên gia …)
Ứng dụng của Luật So sánh trong thực tiễn xây dựng Bộ luật Dân sự:
+ Bộ luật Dân sự 1995
. Mơ hình pháp luật tham khảo: Liên Xô, Tây Âu, Nhật Bản
. Phương pháp pháp điển hóa: cụ thể hóa các quy phạm pháp luật (Đức).
. Cấu trúc Bộ luật: học hỏi từ Bộ luật Dân sự Liên bang Nga bao gồm 569

điều và 8 phần: Những quy định chung, Quyền sở hữu, Nghĩa vụ, Quyền tác giả, Quyền
với Phát minh, Quyền Sáng chế, Quyền thừa kế, Năng lực pháp lý của người nước ngồi;
các chế định pháp luật dân sự Xơ Viết như: các chế định về hợp đồng, về nghĩa vụ, về
thừa kế.
. Chính phủ học tập tinh thần của Bộ luật Dân sự Pháp, là hệ thống luật
thành văn lâu đời có tính pháp điển hóa cao.
. Các nhà làm luật Việt Nam đã nhờ sự trợ giúp của Chính phủ Pháp, các

luật gia nổi tiếng như công tố viên người Pháp P. Bezard hay giáo sư người Nhật
Morishima.
+ Bộ luật dân sự 2005:


. Bộ luật Dân sự đưa ra 4 quyền lợi mới: Quyền hiến các bộ phận của cơ thể;
Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; Quyền nhận bộ phận cơ thể người; Thủ tục
xác nhận lại giới tính…
. Học hỏi cách phân chia tài sản của Luật La Mã: động sản và bất động sản;
tài sản hữu hình và tài sản vơ hình; vật tiêu hao và vật không tiêu hao; vật cùng loại và
vật đặc định; vốn và lợi tức; vật được sở hữu và vật không được sở hữu; tài sản công và
tài sản tư.
. Học hỏi Pháp lấy động sản và bất động sản làm cách phân chia trọng tâm
trong BLDS.
. Khái niệm hợp đồng kinh tế sau này sẽ không tồn tại trong pháp luật thực
định nhưng tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng này vẫn có thể được giải quyết
bằng những phương thức riêng nhằm đáp ứng những yêu cầu mà thực tiễn kinh doanh đề
ra.
. Vấn đề về hợp đồng được đặt ra chịu ảnh hưởng tư duy pháp lý về hợp
đồng kinh tế như ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường như Liên bang Nga và Trung Quốc.
. Học hỏi nước ngoài thành lập ra Tòa án chuyên nghiệp giải quyết các
tranh chấp về giao dịch dân sự, có chức năng tương tự Tịa án thẩm quyền chung (Pháp,
Đức, Bỉ, Áo), Tòa án thương mại quốc tế (Mỹ), Tòa án Dân sự (Nhật Bản),...
-

Ứng dụng cụ thể luật so sánh trong quá trình xây dựng Luật doanh nghiệp
+ Thay đổi cách thức phân loại doanh nghiệp
. Trước khi ban hành LDN 2005, doanh nghiệp dựa trên hình thức sở hữu, bao


gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội,
hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, cơng ti và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài


. Sau khi ban hành LDN 2005, doanh nghiệp được phân chia dựa trên mơ
hình kinh doanh, bao gồm doanh nghiệp tư nhân và công ti; công ti được chia thành công
ti trách nhiệm hữu hạn, công ti cổ phần, công ti hợp danh.
+ Thay đổi về ghi nhận các loại hình cơng ty
. Trước LDN 1999: Nhà nước chỉ ghi nhận công ti trách nhiệm hữu hạn và
công ti cổ phần
. Sau LDN 1999: Nhà nước thừa nhận công ti một thành viên, có nghĩa là cơng
ti khơng cịn là mối liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân như quan niệm
truyền thống, và học hỏi nước ngồi ghi nhận cơng ty hợp danh
+ Thay đổi về cơ chế thành lập doanh nghiệp đối với cá nhân
. Trước khi ban hành LDN 2005, công dân Việt Nam muốn thành lập doanh
nghiệp chỉ có thể thành lập doanh nghiệp tư nhân
. Sau khi ban hành LDN 2005, các nhà làm luật học hỏi pháp luật của một số
nước trên thế giới, cá nhân cũng có thể thành lập công ti trách nhiệm hữu hạn một thành
viên.
+ Thay đổi về thủ tục đăng kí kinh doanh
. Trước đó: một doanh nghiệp muốn hoạt động phải thực hiện thủ tục xin
phép thành lập và thủ tục đăng kí kinh doanh
. Sau LDN 1999: doanh nghiệp chỉ phải thực hiện đăng kí kinh doanh
+ Các nhà làm luật đã phải tìm hiểu kinh nghiệm của nước ngồi để quy định về
vấn đề quản trị doanh nghiệp theo từng mơ hình doanh nghiệp cụ thể.
+ Các nhà đầu tư, khi thành lập doanh nghiệp thì dựa vào những quy định của pháp
luật để xây dựng cơ cấu tổ chức và quản lí cơng ti của mình.


3. Kết luận (ý nghĩa) về phương thức cấy ghép pháp luật quốc gia và vai trò của

luật so sánh đối với việc hoàn thiện pháp luật quốc gia Việt Nam hiện nay
a. Kết luận
Chúng ta nói và bàn nhiều đến việc CGPL trong mối liên hệ pháp luật giữa các
quốc gia với nhau. Vậy việc áp dụng pháp luật quốc tế ở một quốc gia nhất định có phải
là CGPL hay khơng? Nếu có thì có cùng cơ chế với CGPL hay khơng? Nếu khơng thì
sẽ theo cơ chế nào?
Thứ nhất, nghiên cứu về từng yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến hiệu quả của
CGPL trong điều kiện nước ta hiện nay, ví dụ như: yếu tố văn hóa, pháp luật, kinh tế,
chính trị, xã hội…
Thứ hai, CGPL chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nêu trên, do vậy,
cần tiến hành nghiên cứu xem tác động trở lại của CGPL đối với văn hóa, pháp luật,
kinh tế, chính trị, xã hội… của Việt Nam như thế nào.
Thứ ba, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các nhà đầu tư nước
ngồi có ảnh hưởng mạnh đến CGPL. Do vậy, cần nghiên cứu xem tác động của các tổ
chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các nhà đầu tư nước ngồi đến việc CGPL ở Việt
Nam như thế nào.
Thứ tư, CGPL cũng có thể được thực hiện thơng qua q trình di cư của người lao
động. Hiện nay Việt Nam có hơn 500.000 lao động đang làm việc ở nước ngoài, và có
trên 50.000 lao động nước ngồi làm việc tại Việt Nam. Do vậy cần nghiên cứu xem tác
động của những lao động di cư này đến CGPL như thế nào.
b. Vai trị của luật so sánh đối với việc hồn thiện pháp luật quốc gia Việt Nam hiện
nay
-

Thứ nhất, luật so sánh cho thấy sự tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt
Nam với pháp luật các quốc gia khác trên thế giới và pháp luật quốc tế. Trong q
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường,


trước sức ép của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý cho phù hợp với

điều kiện nền kinh tế thị trường, các nhà soạn luật Việt Nam buộc phải tiếp cận
nhiều hơn với pháp luật nước ngoài và bước đầu sử dụng những kỹ năng mới mẻ
của luật so sánh để tìm ra con đường phát trưởng thích hợp cho nền pháp chế Việt
Nam.
-

Thứ hai, luật so sánh cho ta thấy những nguyên nhân và cơ sở dẫn đến sự tương
đồng hay khác biệt giữa pháp luật Việt Nam là pháp luật các quốc gia khác trên thế
giới. Đây có lẽ là vai trị quan trọng nhất của luật so sánh trong “địa hạt” xã hội
học pháp luật vì thơng qua việc nghiên cứu các ngun căn dẫn đến sự tương đồng
hay khác biệt giữa các trường phái pháp luật, chúng ta mới có dịp tìm hiểu sâu hơn
về lịch sử nhân loại, sự đa dạng hóa của các nền kinh tế, các thể chế chính trị và
các nền văn hóa khác nhau trên thế giới, với tính cách là những yếu tố chủ yếu tạo
nên sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật quốc gia cũng như giữa các dòng họ
pháp luật đương đại.

-

Thứ ba, luật so sánh trang bị cho những nhà soạn luật cách tư duy mới về nền
pháp chế hiện đại và cả kỹ thuật lập pháp tiên tiến. Tư duy và kỹ thuật này cần
được ứng dụng trong lĩnh vực xây dựng pháp luật ở nước ta mà kết quả phải là sự
tiếp nhận có chọn lọc các quy tắc pháp lý tiến bộ của nước ngoài.

-

Thứ tư, luật so sánh giúp các luật gia trong nước làm cho pháp luật nước mình
tương thích với pháp luật quốc tế . Kỹ thuật so sánh luật được các nhà soạn thảo
pháp luật sử dụng như một phương tiện trong quá trình xây dựng pháp luật quốc
gia, nhằm đáp ứng nhu cầu hài hịa và thống nhất hóa pháp luật quốc gia với pháp
luật quốc tế.





×