Tải bản đầy đủ (.pdf) (252 trang)

TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM TIỂU HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 252 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM TIỂU HỌC

TS. LÊ MỸ DUNG

Đà Nẵng, 2022

0


DUYỆT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC KHOA

TRƯỞNG KHOA

TRƯỞNG BỘ MÔN

1


CHƯƠNG 1. NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
(7 tiết)
I. MỤC TIÊU
Sau khi học xong chương này, sinh viên đạt được các yêu cầu sau:
1. Về kiến thức
- Trình bày được đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học; Chức năng của tâm lý;
Phân tích được bản chất hiện tượng tâm lý người.
- Trình bày được đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học sư phạm; Lịch sử hình
thành và phát triển tâm lý học sư phạm


2. Về kĩ năng
-

Vận dụng quan điểm của Tâm lý học duy vật biện chứng để giải thích nguyên

nhân của các hiện tượng tâm lý trong đời sống con người.
-

Vận dụng được các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu tâm lí học sư

phạm vào việc nghiên cứu tâm lí của học sinh, giáo viên.
3. Về thái độ
-

Có cái nhìn khách quan, khoa học về bản chất tâm lý người, qua đó vận

dụng vào việc hình thành, rèn luyện, phát triển tâm lý của bản thân và học sinh.
-

Thể hiện sự yêu thích, coi trọng và hứng thú học tâm lí học, tăng thêm lòng

yêu con người, yêu nghề, tự hào về nghề dạy học.
II. NỘI DUNG KHÁI QUÁT
1. Khái quát chung về tâm lý học
2. Khái quát về tâm lý học sư phạm
3. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học sư phạm
III. CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Hãy phân tích đối tượng và nhiệm vụ của tâm lý học
2. Phân tích đối tượng và nhiệm vụ của tâm lý học sư phạm
3. Từ các luận điểm về bản chất của hiện tượng tâm lí người, hãy rút ra những

kết luận sư phạm cho việc tổ chức cuộc sống nhà trường cho học sinh tiểu
học?
4. Trình bày nguyên tắc nghiên cứu tâm lý học sư phạm. Lấy ví dụ minh họa?
2


5. Thực nghiệm dạy học là gì? Mơ tả một thực nghiệm dạy học trong nghiên
cứu tâm lý học sinh tiểu học?
IV. NỘI DUNG CHI TIẾT
1. Khái quát chung về tâm lý học và tâm lý học sư phạm
1.1. Khái quát về tâm lý học
1.1.1. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học
a. Tâm lý học là gì?
Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường sử dụng từ tâm lý để nói về nhu
cầu, nguyện vọng, là sự đốn ý của người này với người khác hay cách cư xử của
người nào đó. Đơi khi, người ta cịn dùng từ “Tâm lý” như là khả năng chinh phục
đối tượng. Đó là cách hiểu “tâm lý” ở cấp độ nhận thức thông thường. Thực tế, tâm
lý không đơn giản như vậy, mà tâm lý là hiện tượng tinh thần đặc biệt khác hẳn với
các hiện tượng khác trong thế giới. Tâm lý của con người rất đa dạng, phong phú
nhưng cũng rất phức tạp bí ẩn và trừu tượng. Nó rất gần gũi và gắn liền với đời
sống hoạt động của con người, mọi hành vi hoạt động của con người đều chứa đựng
những biểu hiện tâm lý. Theo cách hiểu này thì tâm lý con người là nhận thức, trí
tuệ, xúc cảm tình cảm, ý chí, xu hướng, tính cách, năng lực...Tất cả những hiện
tượng đó tạo thành các lĩnh vực tâm lý cơ bản của con người.
Trong lịch sử xa xưa của nhân loại, thuật ngữ tâm lý bắt nguồn từ tiếng
Latinh Psychologie - khoa học về tâm hồn. Nó được bắt nguồn từ hai từ ghép
“Psyche” là linh hồn, tinh thần và “logos” là học thuyết, khoa học. Trong từ điển
tiếng Việt (1988) định nghĩa một cách tổng quát: tâm lý là ý nghĩ, tình cảm... tạo
thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người. Vậy tâm lý là gì?
Tâm lý là tất cả các hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, nó

gắn liền và điều hành mọi hành vi, hoạt động của con người.
b. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của tâm lý học
* Vào thế kỷ V (TCN) những nhà tư tưởng triết học cổ đại đã gọi tâm lý là tâm

hồn. Trong các di chỉ của người nguyên thuỷ đã cho ta thấy những chứng cứ chứng
tỏ có quan niệm của “hồn” và “phách” sau cái chết về thể xác. Đây là những ý
tưởng tiền khoa học về tâm lý.
* Xôcrat (469 - 399 TCN) nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã tuyên bố câu châm

ngơn nổi tiếng: “Hãy tự biết mình” có nghĩa là: Con người có thể và cần phải tự
3


hiểu biết mình, tự nhận thức, tự ý thức về cái ta...Đây là một định hướng có giá trị
rất lớn cho TLH.
* Đêmôcrit (460 - 370 TCN) - Đại diện chủ nghĩa duy vật thời cổ đại. Các nhà

duy vật thời cổ đại xem tâm hồn chỉ là một dạng vật thể, nên họ đi tìm cơ sở ban
đầu của tâm hồn trong: lửa, nước, khí, nguyên tử… Họ cho rằng tâm hồn do nguyên
tử cấu thành, trong đó nguyên tử lửa là nhân lõi tạo nên tâm lý.
* Platông (428-348 TCN) Đại diện chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Tâm hồn là cái

có trước, thực tại là cái có sau. Tâm hồn do thượng đế sinh ra, tâm hồn tồn tại phụ
thuộc vào thượng đế chứ không phụ thuộc vào con người và thế giới xung quanh.
* Arixtôt (384 - 322 TCN) là học trị của Platơng, nhưng ơng đã phê phán quan

điểm duy tâm phản khoa học của Platông. Arixtôt là tác giả của cuốn “Bàn về tâm
hồn”. Đây là tác phẩm lớn đầu tiên bàn về tâm hồn một cách khoa học và có hệ
thống. Trong cuốn “Bàn về tâm hồn”, ông đã đưa ra luận điểm hết sức tiến bộ so
với thời bấy giờ là sự tồn tại mối quan hệ giữa tâm hồn và cái ngoài tâm hồn, giữa

tâm hồn với cơ thể và cũng thấy được sự khác biệt giữa tâm hồn và cơ thể.
* Thế kỷ XVII: R.Đêcac (1596-1650) đã đưa ra phát kiến “phản xạ” và ông đã

lấy phản xạ để giải thích hiện tượng tâm lý (ơng mới chỉ giải thích hiện tượng vô
thức). R.Đêcac lại là người đại diện cho phái nhị nguyên luận: cho rằng vật chất và
tâm hồn là hai thực thể song song tồn tại. Ông coi con người phản xạ như một cái
máy, còn bản thể tinh thần, tâm lý của con người thì khơng thể biết được.
* Thế kỷ XVIII: Lần đầu tiên tên gọi “Tâm lý học” đã ra đời trong cuốn “Tâm lý

học kinh nghiệm” và cuốn “Tâm lý học lý trí ” của Vôn Phơ nhà triết học Đức.
* Thế kỷ XIX: Vào những năm cuối của thế kỷ XIX tâm lý học trở thành một

khoa học độc lập. Năm 1879 V.Vuntơ (1832 - 1920) nhà tâm lý học người Đức đã
sáng lập ra phịng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế giới tại thành phố Laixich
(Đức). Một năm sau chuyển thành viện Tâm lý học. Tuy V.Vuntơ đã có cơng đóng
góp lớn vào việc đưa tâm lý học trở thành một ngành khoa học độc lập, nhưng ông
vẫn chỉ nghiên cứu tâm lý, ý thức bằng phương pháp nội quan, tự quan sát...
* Trong 10 năm đầu thế kỷ XX xuất hiện 3 trường phái TLH khách quan.

+ Tâm lý học hành vi của J.Watson (1878 - 1958) nhà TLH người Mỹ.
+ Tâm lý học cấu trúc (tâm lý học Gestalt) do ba nhà tâm lý học người Đức
là Vecthaimơ, Côlơ, Côpca sáng lập nên.
4


+ Tâm lý học phân tâm: Do bác sĩ tâm thần người Do thái tên là S.Phơ rớt
(1859 - 1939) sáng lập.
Cả ba trường phái trên muốn giải thích các hiện tượng tâm lý một cách khách
quan, nhưng đều bỏ qua các mối quan hệ bản chất của con người, phủ nhận tích cực
của chủ thể, sinh vật hố tâm lý con người. Vì thế cả ba trường phái đều đi vào chỗ

bế tắc.
Trong thế kỷ XX Tâm lý học Mac xit ra đời do một số nhà TLH Xô viết như
Vưgotsky(1896-1934); Leonchep (1903-1979); Rubinstein (1889-1960)...sáng lập
nên. TLH mac xit lấy triết học Mac xit làm cơ sở phương pháp luận và đã khẳng
định: Tâm lý là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào não thông qua chủ thể.
Tâm lý người mang tính chủ thể và mang bản chất xã hội lịch sử.
c. Các quan diểm cơ bản trong tâm lý học hiện đại
* Tâm lí học hành vi
Chủ nghĩa hành vi do nhà tâm lí học Mĩ J. Oatsơn (1878 - 1958) sáng lập. J.
Oatsơn cho rằng tâm lí học khơng mơ tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ
nghiên cứu hành vi của cơ thể ở con người cũng như ở động vật. Hành vi được hiểu
là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích nào
đó. Toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và động vật thể hiện bằng công thức
S-R
(Stimulus - Reaction)
Kích thích - Phản ứng
Với Cơng thức trên, J. Oatsơn đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lí
học: coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên
cứu được một cách khách quan, từ đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp
"thử - sai". Nhưng chủ nghĩa hành vi đã quan niệm một cách cơ học, máy móc về
hành vi, đánh đồng hành vi của con người với hành vi của con vật, hành vi chỉ còn
là những phản ứng máy móc nhằm đáp lại kích thích, giúp cho cơ thể thích nghi với
mơi trường xung quanh. Chủ nghĩa hành vi đồng nhất phản ứng với nội dung tâm lí
bên trong làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lí con người, đồng nhất tâm lí
con người với tâm lí động vật, con người chỉ phản ứng trong thế giới một cách cơ
học, máy móc. Đây chính là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, phi lịch sử và thực dụng
Về sau này các đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như: Tonmen, Hulo,
5



Skinơ... có đưa vào cơng thức S - R những "biến số trung gian" bao hàm một số yếu
tố như: nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống của con người, hoặc hành vi
tạo tác "operant” nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể, nhưng về cơ bản
chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, thực dụng của chủ nghĩa hành vi cổ
điển Oatsơn.
 Tâm lí học Gestall (cịn gọi là tâm lí học cấu trúc)
Dòng phái này ra đời ở Đức, gắn liền với tên tuổi các nhà tâm lí học:
Vécthaimơ (1880 - 1943), Côlơ (1887 - 1967), Côpca (1886 - 1947). Họ đi sâu
nghiên cứu các quy luật về tính ổn định và tính trọn vẹn của tri giác, quy luật "bừng
sáng" của tư duy. Trên cơ sở thực nghiệm, các nhà tâm lí học Gestalt khẳng định
các quy luật của tri giác, tư duy và tâm lí của con người do các cấu trúc tiền định
của não quyết định. Các nhà tâm lí học Gestalt ít chú ý đến vai trị của vốn kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử
 Phân tâm học
Thuyết phân tâm do S. Phrơt (1859 - 1939), bác sĩ người áo xây dựng nên.
Luận điểm cơ bản của Phrơt là tách con người thành ba khối: cái ấy (cái vô thức),
cái tôi và cái siêu tôi. Cái ấy bao gồm các bản năng vô thức: ăn uống, tình dục, tự
vệ, trong đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ đời sống
tâm lí và hành vi của con người, cái ấy tồn tại theo nguyên tắc thoả mãn và đòi hỏi:
Cái tơi - con người thường ngày con người có ý thức tồn tại theo ngun tắc hiện
thực. Cái tơi có ý thức theo Phrớt là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài của cái nhân
lõi bên trong là "cái ấy" Cái siêu tôi - là cái siêu phàm, "cái tơi lí tưởng" khơng bao
giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép. Như vậy phân
tâm học đã đề cao quá đáng cái bản năng vô thức dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ
nhận bản chất xã hội, lịch sử của tâm lí con người đồng nhất tâm lí của con người
với tâm lí loài vật Học thuyết Phrớt là cơ sở ban đầu của chủ nghĩa hiện sinh, thể
hiện quan điểm sinh vật hoá tâm lí con người.
Tóm lại, ba dịng phái tâm lí học nói trên ra đời ở cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX góp phần tấn cơng vào dịng phái chủ quan trong tâm lí học, đưa tâm lí học đi
theo hướng khách quan. Nhưng do những giới hạn lịch sử, ở họ có những hạn chế

nhất định như thể hiện xu thế cơ học hoá, sinh vật hoá tâm lí con người, bỏ qua bản
chất xã hội lịch sử và tính chủ thể của đời sống con người.
6


 Tâm lí học nhân văn
Dịng phái tâm lí học nhân văn do C. Rôgiơ (1902 - 1987) và A Maxlâu
(1908 - 1972) sáng lập. Các nhà tâm lí học nhân văn quan niệm rằng bản chất con
người vốn tốt đẹp, con người có lịng vị tha, có tiềm năng kì diệu.
Maxlâu đã nêu lên 5 mức độ nhu cầu cơ bản của con người xét thứ tự từ thấp
đến cao:
-

Nhu cầu sinh lí cơ bản,

-

Nhu cầu an toàn;

-

Nhu cầu về quan hệ xã hội;

-

Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ...

-

Nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt.


C. Rôgiơ cho rằng con người ta cần phải đối xử với nhau một cách tế nhị,
cởi mở, biết lắng nghe và chờ đợi, cảm thơng với nhau. Tâm lí học cần phải giúp
cho con người tìm được bản ngã đích thực của mình, để có thể sống một cách thoải
mái, cởi mở, hồn nhiên và sáng tạo. Tuy nhiên, tâm lí học nhân văn đề cao những
điều cảm nghiệm, thể nghiệm chủ quan của bản thân mỗi người, tách con người
khỏi các mối quan hệ xã hội, chú ý tới mặt nhân văn trừu tượng trong con người, vì
thế thiếu vắng con người trong hoạt động thực tiễn.
* Tâm lí học nhận thức
Hai đại biểu nổi tiếng của tâm lí học nhận thức là G. Piagiê (1896 - 1980)
(Thuỵ Sĩ) và G. Brunơ (trước ở Mĩ, sau đó ở Anh). Tâm lí học nhận thức coi hoạt
động nhận thức là đối tượng nghiên cứu của mình. Đặc điểm tiến bộ nổi bật của
dịng phái tâm lí học này là nghiên cứu tâm lí con người, nhận thức của con người
trong mối quan hệ với môi trường, với cơ thể và với não bộ. Vì thế, họ đã phát hiện
ra nhiều sự kiện khoa học có giá trị trong các vấn đề tri giác, trí nhớ, tư duy, ngơn
ngữ... làm cho các lĩnh vực nghiên cứu nói trên đạt tới một trình độ mới. Đồng thời
họ cũng đã xây dựng được nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể đóng góp cho
khoa học tâm lí ở những năm 50 - 60 của thế kỉ XX Tuy nhiên dịng phái này cũng
có những hạn chế, họ coi nhận thức của con người như là sự nỗ lực của ý chí để
đưa đến sự thay đổi vốn kinh nghiệm, vốn tri thức của chủ thể, nhằm thích nghi,
cân bằng với thế giới, chưa thấy hết ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn của hoạt
động nhận thức Tất cả những dịng phái tâm lí học nói trên đều có những đóng góp
7


nhất định cho sự hình thành và phát triển của khoa học tâm lí. Song do những hạn
chế lịch sử, họ thiếu một cơ sở phương pháp luận khoa học biện chứng, vì vậy họ
vẫn chưa có quan điểm đầy đủ và đúng đắn về con người, về hoạt động tâm lí của
con người... Sự ra đời của tâm lí học mácxit hay cịn gọi là tâm lí học hoạt động đã
góp phần đáng kể vào việc khắc phục hạn chế nói trên và tiếp tục đưa tâm lí học lên

đỉnh cao của sự phát triển.
 Tâm lí học hoạt động
Dịng phái tâm lí học này do các nhà tâm lí học Xơ viết sáng lập như L.X
Vưgốtxki (1896 - 1934), XL. Rubinstêin (1902 - 1960), AN. Lêônchiép (1903 1979), AR. Luria (1902 - 1977)... Đây là dòng phái tâm lí học lấy triết học Mác Lênin làm cơ sở lí luận và phương pháp luận, xây dựng nền tâm lí học lịch sử
người: coi tâm lí học là sự phản ánh thế giới khách quan vào não, thông qua hoạt
động.
Tâm lí người mang tính chủ thể, có bản chất xã hội, tâm lí người được hình
thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ giao lưu của
con người trong xã hội. Chính vì thế tâm lí học mácxit được gọi là "tâm lí học hoạt
động”.
d. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học
- Đối tượng
TLH nghiên cứu bản chất của các hiện tượng tâm lý, các qui luật nảy sinh
hình thành và phát triển tâm lý. Nghiên cứu cơ chế sinh lý của các hiện tượng tâm
lý. Hay nói cách khác TLH nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của
các hiện tượng tâm lý.
-

Nhiệm vụ
TLH có nhiệm vụ vạch ra những yếu tố khách quan và chủ quan nào ảnh

hưởng tới sự hình thành các hiện tượng tâm lý. Vạch ra cơ sở sinh lý của hiện
tượng tâm lý. Mô tả để nhận diện các hiện tượng tâm lý khác nhau. Đồng thời chỉ
ra mối quan hệ tác động qua lại giữa các hiện tượng tâm lý trong đời sống con
người. Để thực hiện nhiệm vụ nói trên, tâm lý học phải liên kết phối hợp chặt chẽ
với nhiều khoa học khác.
1.1.2. Bản chất, chức năng, phân loại các hiện tượng tâm lý
8



1.1.2.1. Bản chất hiện tượng tâm lý người
a. Tâm lý người là chức năng của não
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: vật chất có trước, tinh thần có sau,
vật chất sinh ra tinh thần, sinh ra tâm lý, nhưng khơng phải bất cứ vật chất nào cũng
có tâm lý, mà chỉ vật chất có tổ chức cao nhất đó là não bộ. Do vậy, sự phát triển
tâm lý, ý thức gắn liền với sự nảy sinh và hình thành của hệ thần kinh. Lúc đầu chỉ
là những tế bào thần kinh đơn giản dần dần hệ thần kinh phát triển thành một tổ
chức ngày càng cao cuối cùng thành não và vỏ não.
Mầm mống tâm lý bắt đầu xuất hiện ở loại động vật có hệ thần kinh mấu
(hạch). Bởi vì, ở những động vật có hệ thần kinh hình hạch đã có khả năng tiếp
nhận kích thích, phân tích các kích thích tác động vào cơ thể và truyền đạt mệnh
lệnh tạo ra các phản ứng đáp lại một cách thích hợp các kích thích. Các cơng trình
nghiên cứu đã cho ta thấy mối quan hệ tương ứng giữa sự tiến hoá của hệ thần kinh
và khả năng tâm lý trong sự tiến hóa của giống loài. Tâm lý là chức năng của não.
Khơng có não (hay não người khơng bình thường) thì khơng có tâm lý. Nhưng não
không phải là tâm lý, mà não chỉ là cơ sở vật chất, là điều kiện cần thiết để cho sự
xuất hiện các hiện tượng tâm lý và tâm lý là chức năng của não, là thuộc tính đặc
biệt của bộ não người hoạt động bình thường biểu hiện ở năng lực phản ánh thế giới
bên ngoài.
Hệ thần kinh hoạt động theo những qui luật nhất định và những qui luật đó là
cơ sở hình thành những qui luật của hoạt động tâm lý. Nhưng hoạt động của não bộ
chỉ qui định hình thức diễn biến tâm lý (về cường độ, tốc độ...), còn nội dung tâm lý
là do kinh nghiệm xã hội lịch sử của mỗi người tiếp thu được trong cuộc sống qui
định. Thực tế cho thấy, có nhiều người có bộ não và năng lực làm việc như nhau
nhưng nội dung tâm lý của họ không giống nhau, thậm chí cịn đối lập nhau.
b. Tâm lý là sự phản ánh HTKQ vào não thông qua chủ thể
Tâm lý là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào não người bằng chính
hoạt động của chủ thể.
Tâm lý người khơng phải tự nhiên mà có, cũng khơng phải do thượng đế, do
trời sinh ra, cũng không phải là do não tiết ra giống như gan tiết ra mật. Mà tâm lý

là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào não người thơng qua “lăng kính chủ
quan” của cá nhân. V.I.Lênin đã nói: “Tâm lý là hình ảnh chủ quan của thế giới
9


khách quan”.
- Hiện thực khách quan: Là tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài ý thức

của con người với những thuộc tính khơng gian, thời gian và ln vận động. Có
những cái ta có thể cảm nhận được bằng mắt thường, có những cái thì khơng thể
cảm nhận được bằng mắt thường như sóng siêu âm, tia tử ngoại...
- Phản ánh là thuộc tính chung của tất cả các sự vật hiện tượng đang vận

động. Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hố lẫn nhau.
Phản ánh là q trình tác động qua lại giữa hệ thống vật chất này lên hệ thống vật
chất khác, kết quả là để lại dấu vết tác động cả ở hệ thống vật chất tác động và hệ
thống vật chất chịu sự tác động. Ví dụ: Khi dùng viên phấn viết lên bảng...
Phản ánh tâm lý là một phản ánh đặc biệt
- Phản ánh tâm lý là sự tác động của hiện thực khách quan vào não người (là

tổ chức cao nhất của vật chất). Chỉ có hệ thần kinh và bộ não người mới có khả
năng nhận tác động của hiện thực khách quan tạo ra trên não hiện tượng tâm lý với
tư cách như là hiện tượng tinh thần. C.Mác nói: Tinh thần, tư tưởng, tâm lý...chẳng
qua là vật chất được chuyển vào trong đầu óc, trong đó biến đổi mà thành.
- Phản ánh tâm lý tạo ra “hình ảnh tâm lý” về thế giới, nhưng hình ảnh tâm

lý khơng phải là sự phản chiếu thụ động của chiếc gương phẳng mà nó mang tính
sinh động, sáng tạo hơn so với hình ảnh của các phản ánh vật lý, sinh vật...
- Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể. Bởi vì, trong q trình tạo ra hình ảnh


tâm lý mỗi cá nhân phải đưa vào đó vốn sống, vốn kinh nghiệm của mình vào trong
hình ảnh tâm lý đó làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan.
Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý được thể hiện:
+ Cùng nhận sự tác động của hiện thực khách quan nhưng ở mỗi chủ thể
khác nhau sẽ cho ta những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái khác
nhau.Vì vậy, ta thấy tâm lý của người này khác với tâm lý của người kia.
+ Cùng sự tác động của hiện thực khách quan đến một chủ thể nhưng vào
thời gian địa điểm, điều kiện hoàn cảnh, trạng thái cơ thể, trạng thái tâm lý khác
nhau cũng có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và các sắc thái tâm lý khác nhau ở
chính chủ thể đó.
- Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận một cách rõ ràng,
đầy đủ và thể hiện rõ nhất và thơng qua đó mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác
10


nhau đối với hiện thực.
Tâm lý là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào não người thông qua
hoạt động của chủ thể. Khơng có hoạt động của chủ thể thì khơng có hình ảnh tâm
lý và khơng thể hình thành tâm lý người.
c.Tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử
Sự xuất hiện loài người là kết quả của một q trình phát triển tiến hóa lâu
dài của giới động vật, tâm lý con người được nảy sinh và phát triển trong quá trình
hoạt động thực tiễn của họ. Điều này nói lên tâm lý người khác về chất so với tâm
lý của con vật, bởi vì, tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử.
Bản chất xã hội - lịch sử của tâm lý người thể hiện:
+ Tâm lý người có nguồn gốc từ hiện thực khách quan (thế giới tự nhiên và
xã hội). Trong đó, nguồn gốc xã hội là cái quyết định bản chất tâm lý người thể
hiện thông qua các mối quan hệ xã hội (quan hệ kinh tế, đạo đức, pháp quyền, giáo
dục...). Nếu con người thoát li khỏi các mối quan hệ người - người, thì tâm lý của
con người mất bản tính người có nghĩa là khơng khác gì tâm lý loài vật.

+ Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp. Loài người có lao
động và sống thành xã hội. Nhờ có lao động mà con người có thể chuyển các hiện
tượng tâm lý sống động của cá nhân vào những sản phẩm vật chất và tinh thần. Nhờ
có sự giao tiếp giữa người với người mà mỗi hiện tượng tâm lý nảy sinh trong đầu
mỗi cá nhân sẽ ảnh hưởng tới người khác và được chuyển thành hiện tượng tâm lý
chung của xã hội, nó được truyền từ đời này qua đời khác.
+ Sự phát triển tâm lý con người là quá trình lĩnh hội nền văn hóa xã hội
thơng qua các dạng hoạt động khác nhau. Chính hoạt động và các mối quan hệ của
con người trong xã hội có tính quyết định sự phát triển tâm lý người.
+ Tâm lý người được hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển
của lịch sử xã hội. Nó chịu sự chế ước của các điều kiện xã hội lịch sử.
Tóm lại: Tâm lý người về hoạt động mà nói thì là hoạt động của não, là phản
xạ có điều kiện; về mặt nội dung là sự phản ánh của hiện thực khác quan vào não
con người, nên tâm lý người mang sắc thái riêng của cá nhân, của dân tộc, giai
cấp...Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp.
1.1.2.2. Chức năng của tâm lý
11


-

Chức năng định hướng hoạt động: Đây là chức năng chung của tâm lý, nó có

thể quyết định phần lớn sự thành bại trong cơng việc. Nó sẽ tạo nên động lực thúc
đẩy hoạt động, giúp con người khắc phục khó khăn để đạt được mục đích đã đề ra.
-

Chức năng điều khiển hoạt động: Chức năng này có nhiệm vụ tổ chức,

kiểm tra đôn đốc hành động theo mục đích đã định, làm cho hoạt động của con

người trở nên có ý thức và đem lại hiệu quả nhất định.
-

Chức năng điều chỉnh hoạt động: có nhiệm vụ uốn nắn các hành động cho

phù hợp với kế hoạch, với điều kiện hoàn cảnh thực tế nhằm đạt kết quả cao.
Nhờ các chức năng của hiện tượng tâm lí giúp con người có khả năng thích
ứng với sự thay đổi của môi trường và điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người
nhằm đạt kết quả cao trong hoạt động.
1.1.2.3. Phân loại các hiện tượng tâm lý
Căn cứ vào diễn biến và thời gian tồn tại của các hiện tượng tâm lý người ta
thường chia các hiện tượng tâm lý thành ba loại chính: Các q trình tâm lý; Các
trạng thái tâm lý; Các thuộc tính tâm lý.
-

Q trình tâm lý: Là những hiện tượng tâm lý có khởi đầu, diễn biến và kết

thúc tương đối rõ ràng. Quá trình tâm lý thường diễn ra trong thời gian ngắn.
+ Quá trình nhận thức: gồm có cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng
tượng.
+ Quá trình xúc cảm - tình cảm biểu thị sự vui mừng hay tức giận...
+ Quá trình ý chí - hành động - ý chí.
- Trạng thái tâm lý: Là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương
đối dài, việc mở đầu và kết thúc khơng rõ ràng, nó ln gắn liền với quá trình tâm
lý và ảnh hưởng tới các quá trình tâm lý. Trạng thái tâm lý gồm có: chú ý và do dự.
- Thuộc tính tâm lý: Là những hiện tượng tâm lý đã trở thành bền vững, ổn định
ở con người, tạo những nét đặc trưng, nét riêng của nhân cách.
Thuộc tính tâm lý gồm có: Xu hướng; năng lực; tính cách; khí chất.
Các hiện tượng tâm lý trên có mối quan hệ mật thiết gắn bó với nhau, chúng
chi phối bổ sung hỗ trợ cho nhau. Hiện tượng này tạo ra hiện tượng kia. Ngoài ba

hiện tượng tâm lý nói trên cịn một hiện tượng tâm lý cao cấp đặc biệt có ảnh hưởng
nhiều đến các hiện tượng tâm lý khác đó là ý thức.
12


1.2. Khái quát về tâm lý học sư phạm
1.2.1. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học sư phạm
Tâm lý học sư phạm nghiên cứu tâm lý con người ở các giai đoạn phát triển
1.2.1.1. Đối tượng của tâm lý học sư phạm
Đối tượng của tâm lý học sư phạm là những quy luật tâm lý của việc dạy học
và giáo dục. Tâm lý học sư phạm nghiên cứu những vấn đề tâm lý học của việc điều
khiển quá trình nhận thức, tìm tịi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí
tuệ và xác định những điều kiện để đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu quả trong quá
trình dạy học, xem xét những vấn đề về mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học
sinh, cũng như mối quan hệ qua lại giữa học sinh với nhau.
Những quan sát hàng ngày cho ta thấy trẻ có những rung cảm và suy nghĩ
khơng giống người lớn, có rất nhiều điều trẻ chưa làm được. Nhưng vấn đề ở đây
không phải là ở chỗ trẻ chưa làm được những gì, chưa nắm được gì...mà ta cần phải
hiểu được ở đứa trẻ hiện có những gì, có thể làm được gì, nó sẽ thay đổi như thế nào
và sẽ có được những gì trong q trình sống và hoạt động theo lứa tuổi. Có hiểu
được những điều đó ta mới hiểu được nguyên nhân của những phẩm chất tâm lý
mới đặc trưng cho nhân cách. Mặt khác, ở mỗi lứa tuổi có những thuận lợi và khó
khăn riêng địi hỏi ta phải có phương pháp giáo dục thích hợp với từng lứa tuổi và
từng cá nhân. Trong q trình dạy học và giáo dục nếu ta khơng chú ý tới điều đó
thì dù người giáo viên có am hiểu khoa học đến đâu cũng khó có thể đạt được kết
quả tốt trong công tác sư phạm của mình
1.2.1.2. Nhiệm vụ của tâm lý học sư phạm
Nhiệm vụ chung của tâm lý học sư phạm là dựa trên những thành tựu của
Tâm lý học đại cương, Tâm lý học lứa tuổi để vạch ra cơ sở của tâm lý học sư phạm
cho hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục và việc rèn luyện các phẩm chất, năng

lực cần thiết của người giáo viên. Cụ thể là:
- Chỉ ra các quy luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục
- Nghiên cứu những vấn đề tâm lý học của việc hình thành tri thức khoa học,
hình thành và phát triển kĩ năng, kĩ xảo và các phẩm chất đạo đức, nhân cách của
học sinh.

13


- Chỉ ra cơ sở tâm lý của việc điều khiển quá trình dạy học và giáo dục. Tổ
chức các hoạt động cho học sinh trên lớp và ngoài giờ học cũng như xây dựng mối
quan hệ giữa giáo viên với học sinh, giữa các học sinh với nhau, giữa nhà trường
với gia đình và với các lực lượng giáo dục khác.
- Tâm lý học sư phạm nghiên cứu đặc trưng lao động sư phạm của giáo viên,
hệ thống phẩm chất, năng lực của người giáo viên, việc tự rèn luyện và hoàn thiện
nhân cách, năng lực nghề nghiệp của người giáo viên.
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển tâm lý học sư phạm
Trong lịch sử các khoa học về con người, Tâm lý học trở thành một khoa
họcđộc lập, tách ra khỏi Triết học từ năm 1879. Cũng từ đó, Tâm lý học sư phạm ra
đời gắn liền với sự thâm nhập của các tư tưởng di truyền học. Cùng với học thuyết
tiến hóa, những thành tựu trong việc nghiên cứu hoạt động phản xạ của con ngƣời
do I.M.Xêtrênôp tiến hành đã khẳng định mối liên hệ qua lại giữa các hiện tượng
tâm lý và sinh lý, chỉ ra sự phát triển tâm lý gắn liền với cơ sở sinh lý thần kinh và
não bộ con người. Có thể nói, tư tưởng của S.Darwin, I.M.Xêtrênơp đã góp phần
làm rõ vấn đề về nguồn gốc phát triển tâm lý con người; các con đường, quy luật,
điều kiện và động lực của sự phát triển tâm lý; vai trò của dạy học, giáo dục đối với
sự hình thành và phát triển tâm lý con người, qua đó góp phần thúc đẩy chuyên
ngành Tâm lý học sư phạm tại thời điểm lúc đó phát triển mạnh mẽ hơn. Cùng với
những thành tựu trên, các cơng trình nghiên cứu dựa trên sự tích lũyvà tổng kết kinh
nghiệm của những quan sát về sự phát triển tâm lý trẻ em và tâm lý học giáo dục trẻ

đã đặt nền móng cơ sở thực tiễn cho Tâm lý học sư phạm lúc bấy giờ. Cômenxki
(1592-1670) người đầu tiên đã nêu lên tư tưởng tất yếu phải xây dựng một hệ thống
dạy học phù hợp với những đặc điểm tâm lý của trẻ.
Những kết quả nghiên cứu trong Tâm lý học đại cương như: quy luật tâm lý
của Weber và Feisner, nghiên cứu trí nhớ của Ebbinhauz, nghiên cứu cảm giác và
vận động trong tâm lý học của W.Wundt.... bắt đầu thâm nhập vào Tâm lý học sư
phạm. Ngoài ra, những tác phẩm đầu tiên về Tâm lý học sư phạm như: Tâm lý học
sư phạm của nhà giáo dục, nhà tâm lý học Nga P.P.Karterev, Nói chuyện với các
giáo viên về Tâm lý học của nhà tâm lý học Mỹ W.James.... đã mở ra triển vọng
cho sự phát triển của chuyên ngành này. Năm 1906, ở Nga đã tổ chức Hội nghị Tâm
lý học sư phạm lần thứ nhất tại Peterburg. Tại hội nghị này, người ta kịch liệt phê
14


phán tính lý luận sáo rỗng trong Tâm lý học sư phạm và khẳng định phải có nghiên
cứu thực nghiệm về Tâm lý học sư phạm. Các nhà tâm lý học và giáo dục học cũng
cho rắng, cần phải chỉ ra nguồn gốc phát triển tâm lý trong quan hệ của nó với q
trình dạy học.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của Tâm lý học sư phạm phải kể đến sự
ra đời của trường phái Nhi đồng học vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trường
phái này là sự kết hợp máy móc những quan điểm Tâm lý học, Sinh lý học, Sinh vật
học về sự phát triển tâm lý của trẻ em. Ở Liên Xô vào những năm 20-30 của thế kỷ
XX, trường phái Nhi đồng học có tham vọng giữ vai trị của khoa học duy nhất
macxit về trẻ em, coi sự tác động của hai nhân tố là môi trườngvà di truyền quyết
định trực tiếp sự phát triển tâm lý trẻ em. Họ coi Tâm lý học là khoa học về các yếu
tố chủ quan, còn Giáo dục học là kinh nghiệm chủ nghĩa. Những quan điểm trên của
trường phái Nhi đồng học đã có ảnh hưởng khơng tốt tới Tâm lý học, Giáo dục học
và hoạt động giảng dạy trong nhà trường nói chung. Điều này đã được nêu lên trong
các phê phán có tính ngun tắc nhiều luận điểm của trường phái Nhi đồng học.
Quan điểm đúng đắn của N.K.Crupxcaia, A.X.Macarencô đã đặt cơ sở choviệc

nghiên cứu các vấn đề hình thành, phát triển nhân cách trẻ em trong giáo dục và
hoạt động tập thể. A.X.Macarencô đã khẳng định: “Nhà giáo dục hiểu biết học sinh
khơng phải trong q trình nghiên cứu học sinh một cách thờ ơ mà trong chính q
trình cùng làm việc với học sinh và trong chính sự giúp đỡ học sinh một cách tích
cực. Nhà giáo dục phải xem xét học sinh không phải như là đối tượng nghiên cứu,
mà là đối tượng giáo dục”. Lý luận về sự phát triển các chức năng tâm lý bậc cao
của L.X.Vưgơtxki có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của Tâm lý
học sư phạm. Ông cho rằng: “Mọi chức năng trong sự phát triển văn hóa của trẻ
được bộc lộ hai lần, trong hai phương diện: lần đầu tiên trong phương diện xã hội,
sau đó là phương diện tâm lý, đầu tiên giữa người này với người kia như là một
phạm trù tâm giao, rồi đến bên trong trẻ như một phạm trù tâm lý”. Luận điểm này
của L.X.Vưgôtxki đã được các nhà tâm lý học thừa nhận và cụ thể hóa trong các
cơng trình nghiên cứu lý luận và thực nghiệm, góp phần xây dựng và phát triển Tâm
lý học sư phạm có kết quả.

15


Sự trưởng thành của Tâm lý học sư phạm gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà
tâm lý học ở nhiều nước, đặc biệt là các nhà tâm lý học như: A.N.Lêônchiev,
Đ.B.Encônhin, A.A.Liublinxcaia, J.Bruner, J.Piaget, H.Wallon, P.Janet...
2. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học sư phạm
2.1. Những nguyên tắc nghiên cứu tâm lý học sư phạm
 Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan
Đảm bảo tính khách quan trong nghiên cứu tâm lí là phải lấy chính các hiện
tượng tâm lí làm đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu các hiện tượng tâm lí trong
trạng thái tồn tại tự nhiên của nó, đảm bảo tính trung thực, khơng thêm bớt trong
quá trình nghiên cứu.
 Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng
Nguyên tắc này chỉ rõ khi nghiên cứu tâm lí thừa nhận tâm lí người mang

bản chất xã hội lịch sử do yếu tố xã hội quyết định nhưng khơng phủ nhận vai trị
điều kiện của các yếu tố sinh học (tư chất, hoạt động thần kinh cấp cao...) đặc biệt
khẳng định vai trò quyết định trực tiếp của hoạt động chủ thể.
 Nguyên tắc thống nhất tâm lí, ý thức với hoạt động
Nguyên tắc này khẳng định tâm lí, ý thức khơng tách rời khỏi hoạt động, nó
được hình thành, bộc lộ và phát triển trong hoạt động, đồng thời điều khiển, điều
chỉnh hoạt động. Vì vậy khi nghiên cứu tâm lí phải thơng qua hoạt động, diễn biến
và các sản phẩm của hoạt động.
 Nghiên cứu các hiện tượng tâm tí trong các mơi liên hệ giữa chúng với nhau
và trong môi liên hệ giữa chúng với các hiện tượng khác.
Các hiện tượng tâm lí khơng tồn tại biệt lập mà chúng có quan hệ chặt chẽ
với nhau và với các hiện tượng tự nhiên, xã hội khác.Vì vậy khi nghiên cứu tâm lí
khơng được xem xét một cách riêng rẽ, mà phải đặt chúng trong mối liên hệ và
quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí trong nhân cách và giữa hiện tượng tâm lí với
các hiện tượng khác nhằm chỉ ra được những ảnh hưởng lẫn nhau, các quan hệ phụ
thuộc nhân quả, những quy luật tác động qua lại giữa chúng.
 Nghiên cứu tâm lí trong sự vận động và phát triển
Tâm lí con người có sự nảy sinh, vận động và phát triển. Sự phát triển tâm lí
là q trình liên tục tạo ra những nét tâm lí mới đặc trưng cho các giai đoạn phát
16


triển tâm lí nhất định cho nên khi nghiên cứu tâm lí phải thấy được sự biến đổi của
tâm lí chứ không cố định, bất biến và chỉ ra những nét tâm lí mới đặc trưng cho mỗi
một giai đoạn phát triển tâm lí.
2.2. Những phương pháp nghiên cứu tâm lý học sư phạm
Để nghiên cứu các đặc điểm tâm lý và sự phát triển tâm lý của con người
trong cuộc sống, trong dạy học và giáo dục cần phải sử dụng đồng bộ nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau của khoa học tâm lý. Các phương pháp nghiên cứu của
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm khơng nằm ngoài các phương pháp

nghiên cứu nói chung của Tâm lý học, trong đó có các phương pháp nghiên cứu cơ
bản sau:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
- Phương pháp trắc nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp điều tra viết
- Phương pháp trò chuyện.
Trong các phương pháp trên, phương pháp nghiên cứu cơ bản của Tâm lý
học sư phạm là phương pháp quan sát và phương pháp thực nghiệm.
2.2.1. Phương pháp quan sát
Xuất phát từ việc những biểu hiện tâm lý của con người thường được thể hiện
qua lời nói, cử chỉ, hành vi và hoạt động nên trong Tâm lýhọc sƣ phạm quan sát
đƣợc coi là phương pháp nghiên cứu cơ bản, đầu tiên.
Quan sát là quá trình tri giác, theo dõi có mục đích, có kế hoạch sự nảy sinh,
diễn biến và thể hiện tâm lý của trẻ qua hành vi bên ngoài trong điều kiên tự nhiên.
Nhà nghiên cứu cần ghi lại một cách nghiêm túc, khách quan những sự kiện
thuđƣợc. Kết quả quan sát tùy thuộc vào việc xác định rõ ràng mục đích, nội dung
quan sát và chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho sự quan sát.
Cần tổ chức việc quan sát đáp ứng được các yêu cầu và các nguyên tắc cơ bản
sau đây:
- Quan sát những biểu hiện tâm lý của học sinh trong điều kiện tự nhiên của
cuộc sống, nhất là trong hoạt động vui chơi, học tập, lao động và quan hệ giao tiếp.
Việc sử dụng kết quả của phương pháp quan sát không chỉ để giáo dục học sinh mà
17


quan trọng hơn là chính trong q trình dạy học và giáo dục học sinh, giáo viên vừa
giáo dục, vừa nghiên cứu, vừa nghiên cứu vừa giáo dục, hướng học sinh vào vùng
phát triển gần nhất.

- Cần quan sát một cách có hệ thống xuất phát từ nguyên tắc về tính toàn vẹn
của nhân cách. Xem xét những biểu hiện tâm lý cụ thể của học sinh trong những
hoàn cảnh cụ thể, riêng biệt của nhân cách đang phát triển cũng như những biểu
hiện tâm lý cụ thể trong mối quan hệ với các mặt khác của nhân cách.
- Quan sát phải đảm bảo tính khách quan. Việc ghi chép và rút ra những nhận
xét thu được từ những sự kiện quan sát đƣợc cần đảm bảo tính khách quan và thận
trọng, cần xác định những nguyên nhân gây ra những sự kiện quan sát được, dự
đoán xu thế biến đổi của chúng.
Chẳng hạn, nhà tâm lý học người Đức V.Stern đã dùng nhật ký quan sát về trẻ
em để xây dựng giả thuyết của mình về những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát
triển tâm lý của trẻ. Hay nhà tâm lý học Thụy Sỹ J.Piaget dựa trên những tài liệu
quan sát trẻ em, trong đó có ba người con của ông để nêu lên sự phân chia các giai
đoạn phát triển trí tuệ của trẻ.
Phương pháp quan sát có các ưu điểm sau: Tiến hành nhanh; Khâu chuẩn
bịkhơng mất nhiều thời gian; Tài liệu thu đƣợc trực quan, đa dạng về tâm lý
conngƣời... song phương pháp này chỉ cho biết nhữn biểu hiện tâm lý ra hành vi
bên ngoài, nhà nghiên cứu khó hiểu chúng một cách chính xác, các tài liệu quan sát
chỉ được ghi lại dưới hình thức miêu tả. Vì vậy, khi sử dụng phƣơng pháp quan sát,
nhà nghiên cứu phải phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác để nghiên cứu
tâm lý con người. Có như vậy, phương pháp quan sát mới có hiệu quả cao.
2.2.2. Phương pháp thực nghiệm
Trong Tâm lý học sư phạm, phương pháp thực nghiệm có vai trị đặc biệt quan
trọng.
Thực nghiệm là quá trình tác động vào con người một cách chủ động
trongnhững điều kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện cần
nghiên cứu một cách khách quan.
Trong Tâm lý học sư phạm, người ta thường sử dụng các hình thức thực
nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phịng thí nghiệm.

18



Thực nghiệm tự nhiên là loại thực nghiệm được diễn ra trong điều kiện bình
thường của cuộc sống, trong đó nhà nghiên cứu có thể chủ động gây ra các nhân tố
tác động thực nghiệm giúp cho việc khai thác, tìm hiểu các nội dung cần thực
nghiệm. Tùy theo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, người ta chia thực nghiệm tự
nhiên thành thực nghiệm tự nhiên nhận định (nêu lên thực trạng của vấn đề nghiên
cứu ở một thời điểm cụ thể) và thực nghiệm tự nhiên hình thành còn gọi là thực
nghiệm giáo dục (nhà nghiên cứu chủ động tiến hành các tác động giáo dục nhằm
hình thành một số phẩm chất tâm lý nào đó ở người được thực nghiệm).
Thực nghiệm trong phịng thí nghiệm là loại thực nghiệm được tiến hành dưới
điều kiện khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài. Người làm thí
nghiệm tự tạo ra các điều kiện làm nảy sinh hay phát triển một nội dung tâm lý cần
nghiên cứu. Vì thế có thể tiến hành nghiên cứu tương đối chủ động hơn so với quan
sát và thực nghiệm tự nhiên. Tuy nhiên, dù thực nghiệm được tiến hành trong phịng
thí nghiệm hay trong điều kiện tự nhiên cũng khó có thể khống chế hoàn toàn ảnh
hưởng của các yếu tố chủ quan của người bị thực nghiệm, vì thế phải tiến hành thực
nghiệm một số lần và phối kết hợp đồng bộ với nhiều phương pháp nghiên cứu
khác.
2.2.3. Phương pháp trắc nghiệm tâm lý (test)
Trong Tâm lý học sư phạm, người ta thường dùng test để đo nghiệm các mức
độ, trình độ phát triển tâm lý của con người.
Test là một phép đo luờng tâm lý đã được chuẩn hóa trên một số lượng
người đủ là đại diện tiêu biểu. Khoa học tâm lý đã sử dụng một số test về trí tuệ,
năng lực, nhân cách ... như: - Test đo khả năng tâm vận động (Test Denver). - Các
test về trí tuệ: Gille, Binet-Simon, Wechsler, Raven ... - Test về nhân cách:
Eysenck, Murray, Rorschach ....
Test tâm lý có ƣu điểm là đo trực tiếp các biểu hiện tâm lý qua việc giải các
bài test, tiến hành nhanh, đảm bảo lượng hóa, chuẩn hóa việc đo đạc. Song test tâm
lý chỉ cho biết kết quả, ít bộc lộ quá trình suy nghĩ của nghiệm thể để đi đến kết

quả. Test địi hỏi phải chuẩn bị cơng phu, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật của một bộ
test. Vì vậy, cần sử dụng test như là một trong những phương pháp chẩn đoán tâm
lý con người ở một thời điểm nhất định.
2.2.4. Phương pháp điều tra
19


Là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối
tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó, có
thể trả lời viết, nhưng cũng có thể trả lời miệng và có người ghi lại.
Câu hỏi dùng dể điều tra có thể là câu hỏi đóng (có nhiều đáp án sẵn để đối
tượng lựa chọn) hay câu hỏi mở để họ tự trả lời để điều tra thăm dò chung hay điều
tra chuyên đề đi sâu vào một khía cạnh. Dùng phương pháp điều tra có thể trong
một thời gian ngắn thu thập được một số ý kiến lớn nhưng là ý kiến chủ quan. Để có
tài liệu tương đối chính xác, cần soạn kỹ bản hướng dẫn điều tra viên (người sẽ phổ
biến bản câu hỏi cho các đối tượng). Có như vậy, kết quả thu được sẽ có giá trị khoa
học cao.
2.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Đây là phương pháp dựa vào các kết quả, sản phẩm (vật chất hay tinh thần)
của hoạt động do con người làm ra để nghiên cứu các chức năng tâm lý của
con người, bởi vì trong sản phẩm do con người làm ra có chứa đựng dấu vết tâm lý,
ýthức, nhân cách của con người.
Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp này cần chú ý tới các kết quả hoạt
độngvà các kết quả hoạt động này phải đƣợc xem xét trong mối liên hệ với những
điều kiện tiến hành hoạt động.
2.2.6. Phương pháp đàm thoại (trò chuyện)
Đây là phƣơng pháp đặt ra các câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của họ
để trao đổi, hỏi thêm nhằm thu thập thông tin về vấn đề cần nghiên cứu. Phương
pháp đàm thoại có thể tiến hành trực tiếp hay gián tiếp tùy sự liên quan của đối
tƣợng với điều ta cần biết. Có thể đặt câu hỏi thẳng hay hỏi đường vòng.

Muốn phương pháp đàm thoại có kết quả tốt, nhà nghiên cứu nên:
-

Xác định rõ mục đích, yêu cầu (vấn đề cần tìm hiểu).

-

Tìm hiểu trƣớc một số đặc điểm về đối tƣợng đàm thoại.

-

Có kế hoạch trước để điều chỉnh câu chuyện theo mục đích đã dự định.

-

Linh hoạt trong việc điều chỉnh để câu chuyện vẫn giữ được lôgic, vừa đáp

ứng được yêu cầu của người nghiên cứu.
Trên đây là một số phương pháp cơ bản thường được dùng trong nghiên cứu
của Tâm lý học sư phạm. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất
định. Muốn nghiên cứu các chức năng tâm lý một cách khoa học, khách quan, chính
20


xác, cần phải sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với vấn đề nghiên cứu
và có sự phối hợp đồng bộ các phương pháp nghiên cứu với nhau để đem lại kết quả
khách quan, toàn diện.

21



CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI
HỌC SINH TIỂU HỌC (25 tiết)
I. MỤC TIÊU
Sau khi học xong chương này, sinh viên đạt được các yêu cầu sau:
1. Về kiến thức
- Phân tích được quan niệm của tâm lý học duy vật biện chứng về trẻ em, chỉ ra
được những hạn chế của một số lí thuyết sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em.
- Phân tích được các yếu tố làm nên tiền đề cho sự phát triển tâm lý học sinh
tiểu học.
- Hiểu và phân biệt được các quá trình và trạng thái tâm lí gắn với hoạt động
nhận thức của học sinh tiểu học.
- Liệt kê, giải thích và chứng minh được đặc điểm phát triển của các quá trình
và trạng thái nhận thức ở học sinh tiểu học.
- Hiểu và phân biệt được các phẩm chất và thuộc tính tâm lí của nhân cách học
sinh tiểu học.
- Liệt kê và giải thích được đặc điểm phát triển tình cảm, ý chí, ý thức ở học
sinh tiểu học.
2. Về kĩ năng
-

Lấy được các ví dụ minh họa cho bản chất, các quy luật và đặc điểm của sự

phát triển tâm lí trẻ em; Đặc điểm của các phẩm chất và thuộc tính tâm lí của nhân
cách học sinh tiểu học.
-

Rút ra được những kết luận sư phạm cần thiết trong việc tổ chức và đánh giá

các hoạt động cho học sinh tiểu học cũng như về nội dung và phương pháp giáo dục

trẻ từ những hiểu biết về trẻ em.
-

Nhận biết và phân biệt được những khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1, rút ra

được các kết luận sư phạm cần thiết trong việc chuẩn bị cho trẻ đến trường và tổ
chức cuộc sống cho học sinh lớp 1.
-

Đưa ra các kết luận sư phạm cần thiết trong việc dạy học và giáo dục học sinh

tiểu học.
-

Sử dụng, xây dựng được các phương pháp tìm hiểu tâm lí học sinh tiểu học.

3. Về thái độ

22


-

Có cái nhìn khách quan, khoa học về bản chất tâm lý người, qua đó vận

dụng vào việc hình thành, rèn luyện, phát triển tâm lý của bản thân và học sinh.
-

Thể hiện sự yêu thích, coi trọng và hứng thú học tâm lí học, tăng thêm lịng


u con người, yêu nghề, tự hào về nghề dạy học. Hình thành thái độ đúng đắn
trong đối xử với học sinh tiểu học.
-

Hứng thú với việc tìm kiếm, quan sát và phân tích các biểu hiện tâm lí ở học

sinh tiểu học.
II. NỘI DUNG KHÁI QUÁT
1. Quan điểm và quy luật về sự phát triển tâm lý trẻ em
2. Đặc điểm phát triển tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học
III. CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Trình bày quan điểm tâm lý học duy vật biện chứng về sự phát triển
tâm lí trẻ em?
2. Tại sao có thể nói rằng, giáo dục giữ vai trị chủ đạo trong sự phát
triển tâm lí của trẻ em? Cho ví dụ minh họa?
3. Trình bày vắn tắt tiền đề của sự phát triển tâm lí học sinh tiểu học?
4. Tri giác là gì? Phân tích đặc điểm tri giác của học sinh tiểu học?
5. Tư duy là gì? Phân tích đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học?
6. Trí nhớ là gì? Phân tích đặc điểm trí nhớ của học sinh tiểu học? Tại
sao giáo viên tiểu học cần phải quan tâm đến việc hình thành và phát
triển ghi nhớ ý nghĩa cho học sinh tiểu học? Tại sao học sinh tiểu học
thường ghi nhớ từng câu, từng chữ?
7. Chú ý là gì? Nêu các đặc điểm chú ý của học sinh tiểu học?
8. Tình cảm là gì? Phân tích đặc điểm tình cảm của học sinh tiểu học.
9. Vì sao giáo viên tiểu học cần phải quan tâm đến việc giáo dục tình
cảm cho học sinh? Để làm được điều đó, giáo viên cần lưu ý những
điều gì?
10. Ý chí là gì? Phân tích đặc điểm ý chí của học sinh tiểu học?
11. Phân tích đặc điểm tự đánh giá của học sinh tiểu học? Tại sao người
giáo viên tiểu học cần phải quan tâm đến việc hình thành sự đánh giá

phù hợp, đúng đắn cho học sinh tiểu học?
IV. NỘI DUNG CHI TIẾT
23


2.1. Quan điểm và quy luật về sự phát triển tâm lý trẻ em
2.1.1 Quan điểm về sự phát triển tâm lý trẻ em
2.1.1.1. Khái niệm trẻ em
Trẻ em là một giai đoạn trong cả đời người. Đây là giai đoạn quan trọng
nhất trong cả quá trình phát triển của cá nhân. Tuy vậy, từ trước tới nay, trong
khoa học cũng như trong đời sống sinh hoạt của xã hội, tồn tại nhiều quan niệm về
trẻ em.
Từ xa xưa cả ở phương Đông và phương Tây, tồn tại quan niệm " trẻ em là
người lớn thu nhỏ."Đây là quan niệm sai lầm. Dẫn đến người lớn đối xử với trẻ em
như một "người lớn thu nhỏ." Các hành vi ứng xử, trang phục và các phương tiện
lao động, sinh hoạt khác được rập theo mẫu của người lớn (nhưng có kích cỡ nhỏ
hơn). Trẻ cùng được lao động sản xuất, ăn uống, vui chơi, hội hè cạnh người lớn và
được đối xử như người lớn, mà không được quan tâm chăm sóc và giáo dục riêng.
Bản thân chúng cũng học cách đối xử với người khác như một người lớn thực thụ.
Từ thế kỉ XVII, ở phương Tây xuất hiện hai khuynh hướng giải quyết vấn đề
bản tính của trẻ em:
* Khuynh hướng thứ nhất cho rằng, trẻ em thụ động trước tác động của môi
trường.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là quan điểm của các nhà triết học Anh như
Thomas Hobbes và John Locke.1Chẳng hạn, John Locke đưa ra ngun lí "Tabula
rasa - tấm bảng sạch". Trong đó John Locke cho rằng tâm hồn trẻ em khi mới sinh
ra, giống như một tờ giấy trắng. Mọi tri thức của con người không phải là bẩm sinh,
mà là kết quả của nhận thức. Mọi quá trình nhận thức đều phải xuất phát từ các cơ
quan cảm tính. Khơng có cái gì trong lí tính, mà trước đó lại khơng có trong cảm
tính.

Quan điểm về trẻ em và nguyên lí "tấm bảng sạch" của J.Locke là cơ sở triết
học của các xu hướng Tâm lí học nhấn mạnh quá mức vai trị của mơi trường xã hội
đối với sự phát triển tâm lí trẻ em nói riêng, cá nhân nói chung.
* Khuynh hướng thứ hai quan niệm, trẻ em tích cực trước tác động của môi
trường
Thomas Hobbes (1588-1679) và John Locke (1632 - 1704) là các đại biểu điển hình của triết học duy vật duy
cảm Anh thế kỉ XVII-XVIII, chủ trương mọi hiểu biết của con người đều bắt nguồn từ nhận thức cảm tính, kinh
nghiệm.
1

24


×