BÙI THỊ MINH THU
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
BÙI THỊ MINH THU
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 102, ĐIỀU
103 BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
KHĨA 29
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 102, ĐIỀU 103
BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Tuệ Phương
Học viên: Bùi Thị Minh Thu
Lớp: Cao học Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Khóa: 29
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn thạc sĩ luật học “Quyết định hình phạt theo quy định
tại Điều 102, Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015” là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi, dưới sự hướng dẫn của TS. Hồng Thị Tuệ Phương – giảng viên Khoa
Luật Hình sự, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Các ý kiến, khái niệm khoa học và mọi tham khảo từ các tài liệu, cơng trình
nghiên cứu khác được sử dụng trong luận văn đều được chú thích trích dẫn đầy đủ
theo quy định của Nhà trường.
Tác giả luận văn
Bùi Thị Minh Thu
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BLHS
BLHS 2015
BLHS 1999
BLTTHS 2015
CTTP
TNHS
Nội dung viết tắt
Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017)
Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009)
Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015
Cấu thành tội phạm
Trách nhiệm hình sự
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: ........................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.............................................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................................... 4
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................................................... 5
6. Kết cấu của đề tài: ..................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
NGƯỚI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI,
PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT VÀ TỔNG HỢP HÌNH PHẠT KHI PHẠM NHIỀU TỘI ................ 7
1.1
Khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội” ..................................................................... 7
1.2
Lý luận về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội ......... 8
1.2.1
Khái niệm quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội........................ 8
1.2.2
Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt và phạm nhiều tội .............................................................................................................. 10
1.2.2.1
Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt..................................................................... 10
1.2.2.2
Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội ............................................. 12
1.2.3
Căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .......................... 13
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................................................. 20
CHƯƠNG 2 - CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI PHẠM TỘI THEO ĐIỀU 102, ĐIỀU 103 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 ...................... 21
2.1
2015
Các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự năm
........................................................................................................................................ 21
2.2
Quy định pháp luật về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
theo Điều 102, Điều 103 của Bộ luật hình sự năm 2015 .......................................................... 28
2.2.1
Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự năm 2015 .............................................. 28
2.2.2
Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp phạm
nhiều tội theo Bộ luật hình sự năm 2015 ................................................................................. 45
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................................................. 51
CHƯƠNG 3 - THỰC TIỄN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI THEO ĐIỀU 102, ĐIỀU 103 BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ KIẾN
NGHỊ HỒN THIỆN PHÁP LUẬT ............................................................................................ 53
3.1
Thực trạng quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ..................... 53
3.1.1
Tình hình phạm tội của người dưới 18 tuổi ............................................................. 53
3.1.2
Tình hình áp dụng Điều 102, Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015 khi quyết định
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi. ...................................................................................... 55
3.2
Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. .................................................................................................... 61
3.2.1
Kiến nghị bổ sung điều luật về căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội. .......................................................................................................................... 61
3.2.2
Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về nguyên tắc xử lý người dưới
18 tuổi phạm tội. ..................................................................................................................... 62
3.2.3
Kiến nghị hoàn thiện quy định chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt của người
dưới 18 tuổi phạm tội. ............................................................................................................. 63
3.2.4
Kiến nghị hồn thiện quy định tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội của người
dưới 18 tuổi phạm tội. ............................................................................................................. 65
3.2.5
Kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. ............................. 68
KẾT LUẬN .................................................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong q trình giải
quyết vụ án hình sự, có vai trị quyết định sự đúng đắn, chính xác của một bản án
hình sự. Theo đó, quyết định hình phạt có căn cứ, đúng pháp luật, công bằng là tiền
đề và điều kiện để đạt được mục đích của hình phạt - giáo dục, cải tạo, răn đe giúp
người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Đồng thời, quyết định hình phạt
đúng cịn góp phần tích cực vào cơng cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ
và tăng cường pháp chế, trật tự xã hội.
Người dưới 18 tuổi là thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước nên nhiệm
vụ giáo dục thế hệ trẻ nói chung, giáo dục thanh thiếu niên nói riêng là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước ta hiện nay. Trong những năm vừa qua,
nền kinh tế thị trường phát triển tăng vọt kéo theo tình hình xã hội ngày càng phức
tạp, số lượng tội phạm ngày càng gia tăng, đặc biệt là tình trạng người dưới 18 tuổi
phạm tội. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương tăng
cường quan tâm chăm sóc, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, đề ra các biện pháp chú
trọng hiệu quả phòng ngừa ngăn chặn người dưới 18 tuổi có hành vi vi phạm pháp
luật, thể hiện tính nhân đạo trong chính sách xử lý của nhà nước đối với nhóm đối
tượng đặc biệt này.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển BLHS 1999 về vấn đề quyết định hình phạt
đối với người chưa thành niên, BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2018 đã quy định một chương riêng dành cho nhóm đối
tượng này tại Chương XII – “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”.
Trong đó, Chương XII quy định cụ thể, chi tiết và hoàn thiện hơn về nguyên tắc xử
lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các quy định về trách nhiệm hình sự của
họ bao gồm cả vấn đề quyết định hình phạt khi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt và phạm nhiều tội tại Điều 102, Điều 103 BLHS 2015. Tuy nhiên, các quy định
của BLHS 2015 về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
các trường hợp trên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót, chưa đáp ứng được
u cầu vừa đảm bảo mục đích hình phạt vừa phải đảm bảo lợi ích tốt nhất cho các
em trên tinh thần nhân đạo, sự khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội là
2
người dưới 18 tuổi, cụ thể như chưa có quy định riêng về căn cứ quyết định hình
phạt cho người dưới 18 tuổi phạm tội; các quy định nguyên tắc xử lý người dưới 18
tuổi vẫn cịn mang tính tuỳ nghi, chưa được áp dụng triệt để trên thực tiễn theo đúng
tinh thần chính sách hình sự nhân đạo hơn của nhà nước ta dành riêng cho nhóm đối
tượng này; quy định về quyết định hình phạt khi phạm tội chưa đạt tại Khoản 2
Điều 102 BLHS 2015 gây ra nhiều cách hiểu, cách áp dụng khác nhau về quy trình
tính mức hình phạt. Thêm vào đó, các quy định tại Điều 103 BLHS 2015 chưa thể
hiện rõ sự phân hố trách nhiệm hình sự trong hình phạt cải tạo khơng giam giữ và
cịn một số vướng mắc khi áp dụng luật nhưng chưa có văn bản hướng dẫn.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định mới của pháp
luật hình sự về quyết định hình phạt đối với ngưới dưới 18 tuổi phạm tội trong các
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tổng hợp hình phạt khi phạm
nhiều tội, từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của
pháp luật hiện hành là một điều cần thiết, vừa có ý nghĩa về lý luận vừa có ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc trong cơng cuộc đấu tranh phòng, chống người dưới 18 tuổi phạm
tội.
Với nhận thức trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quyết định hình phạt theo
quy định tại Điều 102, Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015” làm đề tài luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài Quyết định hình phạt đã được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu ở
các góc độ khác nhau, có thể kể đến một số cơng trình về đề tài này như sau:
- Về giáo trình, sách chuyên khảo có các cơng trình sau: Dương Tuyết Miên:
“Định tội danh và quyết định hình phạt”; Đinh Văn Quế: “Tìm hiểu hình phạt và
quyết định hình phạt trong luật HSVN”…
- Về Luận án tiến sĩ Luật học tiêu biểu có các cơng trình nghiên cứu của các
tác giả: Dương Tuyết Miên với cơng trình “Quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam”…
- Về Luận văn thạc sĩ Luật học tiêu biểu có các cơng trình nghiên cứu của
các tác giả: Lê Duy Ninh: “Quyết định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt
và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh”; Nguyễn Đức Minh: “Quyết định
3
hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam”; Ngơ
Thị Hồng Điệp: “Căn cứ quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam lý luận
và thực tiễn”; Nguyễn Thanh Trúc: “Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội và phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam”; Lê Tường Vy: “Căn
cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và
thực tiễn”…
- Về Luận văn cử nhân có các đề tài của tác giả: Đặng Thị Thanh Thủy,
“Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội”; Trần Thị Bích
Thoa, “Quyết định hình phạt trong các trường hợp đặc biệt”; Hồ Thị Thuỳ Trang,
“Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự
2015”…
- Ngồi ra cịn các cơng trình nghiên cứu của các tác giả được đăng trên tạp
chí chun nghành: Hồng Thị Kim Anh, Phan Thị Phương Hiền, Trần Ngọc Lan
Trang, “Một số điểm mới về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội theo quy định của Bộ luật hình sự 2015”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 03/2016;
Trần Văn Dũng, “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội”,
Tạp chí Tịa Án Nhân Dân, số 10/2003; Hồng Minh Đức, “Quyết định hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tại TP.HCM”, Tạp chí Nghề
luật, số 4/ 2015; Mai Thị Thuỷ, “Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội theo BLHS 2015”, Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật,
2016…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau của các quy định của pháp luật về quyết định hình phạt nói chung và
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Tuy nhiên, nội
dung quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong các trường hợp
đặc biệt theo quy định tại Điều 102, Điều 103 lại chưa được đề cập chi tiết, cụ thể
và chuyên sâu. Vì vậy, tác giả muốn tập trung nghiên cứu, phân tích sâu hơn và toàn
diện hơn các quy định pháp luật về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong các trường hợp đặc biệt như: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
và phạm nhiều tội để từng bước hồn thiện quy định tư pháp hình sự Việt Nam để
bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho người phạm tội dưới 18 tuổi.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục tiêu: Phân tích, nghiên cứu có hệ thống và toàn diện những quy định
của pháp luật hiện hành về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm nhiều tội trên
cơ sở so sánh với BLHS 1999 và đánh giá việc áp dụng các quy định này trong thực
tiễn xét xử. Từ đó xác định những thiếu sót, đưa ra ý kiến đóng góp và phương
hướng nhằm hoàn thiện những quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.
- Nhiệm vụ: Luận văn đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý
của việc áp dụng quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm nhiều tội. Làm rõ
những vấn đề chung về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm nhiều tội đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội. Phân tích, đánh giá nội dung các quy định về
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, từ đó đưa ra kiến nghị và
đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ Luật hình
sự, chủ yếu dựa trên cơ sở của BLHS 2015 so sánh với BLHS 1999 để tìm ra
phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về các vấn đề nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, luận văn được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự, về
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng gồm: phân tích, so sánh,
tổng hợp, bình luận án, thống kê số liệu và khảo sát bằng bảng hỏi.
Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh được sử dụng chủ yếu ở
Chương 1 của luận văn. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích: được sử dụng để phân tích, lý giải nội dung các
quy phạm pháp luật thực định nhằm hệ thống các quy định pháp luật một cách khoa
học và dự báo sự phát triển của các quy định trong tương lai. Phương pháp này
5
không chỉ được sử dụng chủ yếu ở Chương 1 mà còn được sử dụng xuyên suốt luận
văn giúp cho người đọc có cái nhìn chi tiết, rõ ràng đối với từng vấn đề.
- Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để hỗ trợ phương pháp phân tích
nhằm tìm ra vấn đề chung, khái quát nhất những vấn đề mà đề tài đang nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng nhằm tìm ra những điểm tiến bộ, hạn
chế giữa các quy định pháp luật của BLHS 2015 so với BLHS 1999. Ưu điểm của
phương pháp này là giúp cho người đọc có cái nhìn tổng quan, khái qt và rõ ràng
về nội dung đang nghiên cứu, chỉ ra những điểm tiến bộ và những điểm chưa phù
hợp, chưa thống nhất của các quy định pháp luật, qua đó làm tiền đề để đưa ra
những giải pháp, kiến nghị hồn thiện quy định pháp luật về quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tổng hợp hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Phương pháp bình luận án, phương pháp thống kê số liệu và phương pháp
khảo sát bằng bảng hỏi được sử dụng chủ yếu ở Chương 2, Chương 3 của luận văn.
Cụ thể:
- Phương pháp bình luận án: phương pháp này được sử dụng để tìm ra những
điểm chưa phù hợp, thống nhất giữa quy định của pháp luật thực định và thực tiễn
xét xử (thông qua các bản án, quyết định của Tịa án), qua đó đưa ra những giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật.
- Phương pháp thống kê số liệu: dùng để tổng hợp các số liệu, báo cáo, vụ
việc từ thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội làm cơ sở
dữ liệu để phân tích, đánh giá một cách toàn diện các vấn đề pháp lý và thực tiễn.
- Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi: được sử dụng để thu thập dữ liệu về
quan điểm, cách thức áp dụng pháp luật trên thực tiễn từ các chủ thể tiến hành tố
tụng về vấn đề đang nghiên cứu, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp để
đưa ra những nhận xét, đánh giá, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Việc nghiên cứu đề tài góp phần làm rõ những khía cạnh pháp lý về quyết
định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong các trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm nhiều tội, đồng thời góp phần hồn thiện các
6
lý luận cơ bản về quyết định hình phạt trong khoa học pháp lý hình sự và tạo cơ sở
nhận thức đúng đắn trong cơng tác phịng, chống người dưới 18 tuổi phạm tội.
Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng trong các đề tài nghiên cứu khoa
học về các vấn đề liên quan tới quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Kết quả của quá trình nghiên cứu là tài liệu tham khảo giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng có góc nhìn đánh giá chính xác, tồn diện hơn trong việc giải quyết vụ
án hình sự và quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy
định tại Điều 102, Điều 103 BLHS 2015 được đúng đắn, công bằng, đúng tinh thần
của pháp luật.
6. Kết cấu của đề tài:
Luận văn được chia thành ba chương với nội dung như sau:
Chương 1 – Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với ngưới
dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và
tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội
Chương 2 – Các quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội theo Điều 102, Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015.
Chương 3 – Thực tiễn về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội theo Điều 102, Điều 103 Bộ luật hình sự năm 2015 và kiến nghị hoàn
thiện pháp luật.
7
CHƯƠNG 1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỚI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG TRƯỜNG HỢP
CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT VÀ TỔNG HỢP HÌNH
PHẠT KHI PHẠM NHIỀU TỘI
1.1 Khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội”
BLHS 2015 đã sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi phạm tội” thay cho
thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội” trong BLHS 1999 nhằm cụ thể hóa và
thống nhất cách hiểu về độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội. Bởi lẽ theo
Điều 1 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam phê chuẩn ngày 20/2/1990
quy định: “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi”, trong khi đó Luật trẻ
em năm 2014 của Việt Nam quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Như vậy, có một
khoảng trống độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được gọi tên như thế nào? Và
nhiều người gọi độ tuổi đủ 16 đến dưới 18 tuổi là người chưa thành niên. Tuy nhiên,
nếu quan niệm như vậy lại không phù hợp với quy định của Điều 68 BLHS 1999
quy định: “người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu TNHS
theo quy định của chương này...” và có thể thấy sự thiếu thống nhất trong cách gọi
tên đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội.
Vì vậy, BLHS 2015 đã thống nhất tên gọi là “người dưới 18 tuổi phạm tội”
và quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 BLHS 2015 như sau: “1.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287,
289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.
Tóm lại, khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội” theo BLHS 2015 khơng có
gì khác so với khái niệm người chưa thành niên phạm tội theo Điều 69 BLHS năm
1999, theo đó người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi vào
thời điểm thực hiện một tội phạm được quy định trong BLHS.
8
Lý luận về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tổng hợp
hình phạt khi phạm nhiều tội
1.2.1 Khái niệm quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.2
Để có thể hiểu khái niệm quyết định hình phạt, chúng ta cần phải đi từ khái
niệm áp dụng pháp luật và khái niệm hình phạt.
“Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực
hiện bởi những cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc các tổ chức
xã hội được nhà nước ủy quyền, thông qua trình tự thủ tục chặt chẽ mà pháp luật
quy định nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể
đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể”1.
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được
quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp
nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,
pháp nhân thương mại đó”2.
Từ hai khái niệm trên, có thể suy ra rằng quyết định hình phạt là một giai
đoạn cơ bản của quá trình áp dụng pháp luật hình sự để pháp luật hình sự phát huy
hiệu lực trong đời sống xã hội và chỉ có Tịa án là cơ quan duy nhất được quyền
quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội.
Quyết định hình phạt cịn là một hoạt động quan trọng của tố tụng hình sự và
giữ vai trị tiền đề để đạt được các mục đích của hình phạt: Trừng trị, giáo dục, đấu
tranh phịng, chống tội phạm. Quyết định hình phạt đúng, chính xác, cơng bằng
khơng những đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đạt được mục đích hàng đầu
là giáo dục người phạm tội có ý thức tơn trọng pháp luật, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội mà cịn tác động
đến ý thức của mỗi cá nhân trong xã hội để họ nhận thức được tính nghiêm minh
của pháp luật, từ đó đóng vai trị tích cực trong cơng cuộc đấu tranh phịng, chống
tội phạm và góp phần bảo đảm tính pháp chế trong nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngồi những ý nghĩa trên thì quyết
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội, tr.188
2
Điều 30 BLHS 2015.
1
9
định hình phạt đúng cịn ảnh hưởng đến q trình hình thành nhân cách và tái hịa
nhập cộng đồng của họ sau này.
Hiện nay, trong BLHS 2015, BLTTHS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi
hành hai bộ luật trên vẫn chưa có quy định riêng về khái niệm quyết định hình phạt.
Khái niệm quyết định hình phạt chỉ tồn tại về mặt lý luận và được đưa ra bởi nhiều
tác giả trong một số cơng trình khoa học luật hình sự dưới đây:
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà
Nội: “Quyết định hình phạt là việc Tịa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm
hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi
luật định để áp dụng đối với người phạm tội”3.
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của trường Đại học Luật Hà
Nội thì: “Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình
phạt (đối với loại hình phạt có các mức khác nhau) trong phạm vi luật định để áp
dụng đối với chủ thể chịu TNHS”4.
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
thì: “Quyết định hình phạt là việc Tịa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt
cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội”5.
Theo tác giả Dương Tuyết Miên định nghĩa: “Quyết định hình phạt là hoạt
động thực tiễn của Tịa án (Hội đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác định
được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện”6.
Như vậy, về cơ bản khái niệm quyết định hình phạt của các tác giả đều thể
hiện thống nhất quyết định hình phạt là việc Tịa án lựa chọn những hình phạt cụ thể
áp dụng đối với người phạm tội và quyết định loại, mức hình phạt phù hợp với tính
chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Dựa trên các định nghĩa về quyết định hình phạt nêu trên, tác giả cho rằng
định nghĩa của quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi có thể được hiểu
Lê Cảm (2001), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, tr.317.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nguyễn Ngọc Hịa, Nxb Cơng an nhân
dân, tr. 315
5
Trường ĐH Luật TP.HCM (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Trần Thị Quang Vinh,
Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 310.
6
Dương Tuyết Miên, “Định tội danh và quyết định hình phạt”, Nxb. Lao động – Xã hội, tr.63
3
4
10
như sau: Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là một
khâu của quá trình áp dụng pháp luật thể hiện ở việc Tịa án tiến hành lựa chọn
loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định, theo một trình tự nhất định để
áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội.
1.2.2 Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và phạm nhiều tội
1.2.2.1 Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội
phạm mà chưa thực hiện tội phạm vì nguyên nhân ngồi ý muốn của người phạm
tội. Theo đó, người phạm tội mới chỉ có hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội
phạm nhưng chưa thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP.
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do
cố ý và có các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, về mặt khách quan, hành vi chuẩn bị phạm tội thể hiện ở việc
tìm kiếm, sửa soạn cơng cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần khác để
thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm.
- Thứ hai, chuẩn bị phạm tội tồn tại dưới dạng hành vi vào thời điểm sớm
nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do vậy, để xác định chính xác giai đoạn
chuẩn bị phạm tội, cần xác định thời điểm sớm nhất và thời điểm muộn nhất của
giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
•
Thời điểm sớm nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội là thời điểm mà người
•
phạm tội bắt đầu có những hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc
tinh thần nhằm làm cho việc thực hiện tội phạm ở những bước tiếp theo
được thuận lợi và dễ dàng hơn (như bắt đầu tìm kiếm công cụ, phương tiện
phạm tội, rủ rê, lôi kéo đồng bọn…);
Thời điểm muộn nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội là thời điểm trước
khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong
CTTP hoặc thời điểm trước khi người phạm tội thực hiện hành vi đi liền
trước hành vi khách quan của tội. Ví dụ, tội trộm cắp tài sản (Điều 173
BLHS 2015) có hành vi khách quan là lén lút chiếm đoạt tài sản của người
khác một cách trái pháp luật. Thời điểm muộn nhất của giai đoạn chuẩn bị
11
phạm tội trộm cắp tài sản là trước khi người đó thực hiện hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản của người khác.
- Thứ ba, về mặt chủ quan, người chuẩn bị phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp, họ
mong muốn thực hiện được hành vi phạm tội của mình và mong muốn hậu quả xảy
ra. Tuy nhiên, họ không thực hiện tội phạm được đến cùng là do nguyên nhân khách
quan ngoài ý muốn của họ.
- Thứ tư, về mức độ chịu TNHS, do tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
chuẩn bị phạm tội hạn chế hơn so với phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành nên
trách nhiệm của người chuẩn bị phạm tội nhẹ hơn so với hai giai đoạn phạm tội
trên.
Phạm tội chưa đạt là trường hợp hành vi phạm tội đã thực hiện chưa thỏa
mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong CTTP vì ngun nhân ngồi ý muốn của
người phạm tội. Theo đó, hành vi của người phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu
hiệu thuộc mặt khách quan của CTTP và có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm
tội chưa đạt:
- Thứ nhất, người phạm tội đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, tức là họ
đã thực hiện hành vi được mô tả trong mặt khách quan của CTTP hoặc thực hiện
hành vi đi liền trước hành vi khách quan của tội phạm;
- Thứ hai, người phạm tội chưa thực hiện tội phạm đến cùng (về mặt pháp
lý), tức là trong hành vi phạm tội của họ chưa thoả mãn hết các dấu hiệu của CTTP
mà họ có ý định thực hiện:
•
•
Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, được coi là phạm tội chưa
đạt khi chủ thể đã thực hiện tội phạm nhưng hậu quả luật định chưa xảy ra
hoặc hậu quả đã xảy ra khơng có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm
tội;
Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, được coi là phạm tội
chưa đạt khi mặt khách quan của CTTP bao gồm hai hành vi nhưng người
phạm tội mới thực hiện được hành vi thứ nhất, chưa kịp thực hiện hành vi
thứ hai thì tội phạm đã bị dừng lại; hoặc người phạm tội mới thực hiện
được hành vi đi liền trước hành vi khách quan thì bị dừng lại.
12
- Thứ ba, người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng
nhưng trên thực tế, họ không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những nguyên
nhân khách quan ngoài ý muốn của họ.
- Thứ tư, về mức độ chịu TNHS, do tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội chưa đạt hạn chế hơn so với tội phạm hoàn thành nên mức độ TNHS nhẹ
hơn so với tội phạm hồn thành.
Nhìn chung, giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều là những
trường hợp hành vi phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu khách quan của CTTP
và mức độ thực hiện tội phạm còn hạn chế.
Theo quy định của BLHS, hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội
chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của BLHS về các tội phạm tương
ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện
ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm khơng thực hiện được
đến cùng. Khi quyết định hình phạt trong hai trường hợp này, ngoài việc tuân thủ
các quy định chung về căn cứ quyết định hình phạt, Tịa án còn cần tuân thủ các quy
định áp dụng riêng trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, bởi vì
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt hạn chế hơn so với phạm tội hoàn thành nên mức độ TNHS cũng thấp hơn.
Do vậy, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt là quyết định hình phạt trong trường hợp giảm nhẹ đặc biệt so với quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội hồn thành.
1.2.2.2 Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Phạm nhiều tội là trường hợp người đã phạm nhiều tội khác nhau được quy
định trong luật hình sự mà những tội này chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS, chưa bị
kết án lần nào, nay bị tòa án đưa ra xét xử cùng một lần với các tội phạm đó7. Trong
khoa học pháp lý hình sự, có ba trường hợp phạm nhiều tội như sau:
- Trường hợp thứ nhất: Người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác
nhau và mỗi hành vi cấu thành một tội phạm. Các hành vi phạm tội này không liên
quan đến nhau (được thực hiện nhằm các mục đích khác nhau) hoặc có thể có liên
quan với nhau (được thực hiện để đạt cùng mục đích).
Trường ĐH Luật TP.HCM (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Trần Thị Quang Vinh,
Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 355
7
13
Ví dụ: Một người có hành vi cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 BLHS 2015,
sau đó lại có hành vi giết người theo Điều 123 BLHS 2015.
- Trường hợp thứ hai: Người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác nhau,
mỗi hành vi cấu thành một tội khác nhau nhưng chúng có liên quan với nhau và
cùng nhằm một mục đích phạm tội.
Ví dụ: Giết người để thực hiện hành vi cướp tài sản thì phạm hai tội là tội
giết người theo Điều 123 BLHS 2015 và tội cướp tài sản theo Điều 168 BLHS
2015.
- Trường hợp thứ ba: Người phạm tội có một hành vi phạm tội nhưng hành
vi này lại cấu thành nhiều tội phạm khác nhau.
Ví dụ: Dùng súng để giết người thì phạm hai tội là tội giết người theo Điều
123 BLHS 2015 và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo Điều 304 BLHS
2015.
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là việc Tịa án quyết
định hình phạt đối với bị cáo phạm từ hai tội trở lên, những tội đó chưa bị đưa ra xét
xử, chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS và bị đưa ra xét xử cùng một lần. Đây là một
trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt, bởi vì Tịa án khơng chỉ quyết định hình
phạt đối với một tội mà Tịa án sẽ quyết định hình phạt đối với nhiều tội. Khi đó,
Tịa án phải quyết định cho mỗi tội phạm một hình phạt chính cũng như hình phạt
bổ sung nếu có, sau đó phải quyết định hình phạt chung đối với các tội đó bằng cách
tổng hợp các hình phạt theo phương pháp thu hút hình phạt hoặc phương pháp cộng
hình phạt. Như vậy, khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, Tịa
án ngồi việc phải tn theo các quy định chung về quyết định hình phạt khi quyết
định hình phạt đối với từng tội, mà cịn phải tn thủ các quy định đặc thù áp dụng
riêng cho trường hợp phạm nhiều tội theo quy định BLHS.
1.2.3 Căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Khi quyết định hình phạt, Tịa án có quyền lựa chọn loại và mức hình phạt áp
dụng với người phạm tội. Tuy nhiên, việc lựa chọn này không thể thực hiện một
cách tùy tiện mà phải trên những cơ sở, căn cứ để lựa chọn nhằm bảo đảm tính công
bằng, minh bạch của pháp luật, bảo đảm áp dụng hình phạt tương xứng với tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Khơng thể quyết định hình phạt quá
14
nặng hoặc quá nhẹ, nếu quyết định hình phạt quá nhẹ thì sẽ khơng đạt được mục
đích phịng ngừa của hình phạt, trong đó có mục đích cải tạo, giáo dục người phạm
tội, cịn nếu quyết định hình phạt q nặng thì sẽ khơng cơng bằng, tạo tâm lý
khơng tin tưởng vào pháp luật. Do đó, Điều 50 BLHS 2015 đã quy định các căn cứ
quyết định hình phạt mà Tồ án buộc phải tn thủ khi quyết định hình phạt cho
người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng nhằm đảm bảo
hình phạt đã tun đạt được mục đích hình phạt. Cụ thể như sau:
Căn cứ “các quy định của BLHS”
Các quy định của BLHS là căn cứ đầu tiên, tiền đề của quyết định hình phạt,
là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Tòa án định tội danh đúng người, đúng tội và
xác định khung hình phạt phù hợp, đúng pháp luật.
Những quy định của BLHS ở đây được hiểu là tất cả các quy định về hình
phạt trong phần chung và phần tội phạm cụ thể của BLHS.
- Căn cứ vào các quy định ở Phần chung của BLHS khi quyết định hình phạt
nhằm xác định các vấn đề mang tính nguyên tắc về tội phạm và hình phạt. Chẳng
hạn như những quy định về cơ sở của TNHS (Khoản 1 Điều 2 BLHS 2015); về
nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội (Khoản 1 Điều 3 BLHS 2015); những quy
định về hình phạt đối với người phạm tội (Điều 30 đến Điều 45 BLHS 2015); về
biện pháp tư pháp đối với người phạm tội (Điều 46 đến Điều 49 BLHS 2015); về
căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội (Điều 50 BLHS 2015), về các
tình tiết giảm nhẹ TNHS (Điều 51 BLHS 2015), về các tình tiết tăng nặng TNHS
(Điều 52 BLHS 2015), về tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 53 BLHS 2015);
những quy định về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể (Điều 54 đến
Điều 59 BLHS 2015); về án treo (Điều 65 BLHS 2015)…
- Căn cứ vào các quy định ở phần các tội phạm của BLHS khi quyết định
hình phạt là quy định về khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung cho từng loại
tội, hay nói cách khác, đó chính là chế tài đối với một tội phạm cụ thể được quy
định trong điều luật ở phần các tội phạm.
Ngoài các quy định của BLHS nêu trên, trường hợp quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội Toà án cần căn cứ vào các quy định riêng sau đây
áp dụng cho người dưới 18 tuổi phạm tội tại Chương XII BLHS 2015:
15
- Căn cứ vào các quy định về từng loại hình phạt: hệ thống hình phạt (Điều
98 BLHS 2015); những quy định về nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt
(từ Điều 99 đến Điều 101 BLHS 2015).
- Căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt: các quy định về nguyên
tắc xử lý (Điều 91 BLHS 2015); mục đích hình phạt (Điều 31 BLHS 2015); quyết
định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt (từ Điều 102 đến Điều 104 BLHS
2015)…
Như vậy, khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
ngồi việc tòa án phải căn cứ vào “các quy định của BLHS” áp dụng chung cho mọi
tội phạm thì Tồ án còn phải áp dụng các quy định riêng tại Chương XII BLHS
2015 để xác định được khung hình phạt cần áp dụng cho người dưới 18 tuổi phạm
tội. Tuy nhiên để lựa chọn và xác định được chính xác mức hình phạt cụ thể cần áp
dụng thì Tịa án phải tiếp tục dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt cịn lại.
Căn cứ “tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội”
Chế tài là hậu quả pháp lý bất lợi do thực hiện hành vi trái pháp luật gây ra,
và việc áp dụng chế tài là nhằm răn đe, giáo dục người có hành vi vi phạm pháp
luật. Do đó, việc áp dụng chế tài có hiệu quả hay khơng phải được tính tốn trên cơ
sở tính chất và mức độ của từng hành vi vi phạm. Mức độ nghiêm khắc của chế tài
phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm do hành vi vi phạm gây ra,
không quá nghiêm khắc, cũng không quá nhẹ so với hành vi vi phạm8. Vì vậy, tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã được nhà làm luật
xác định làm căn cứ phân loại tội phạm, quy định loại hình phạt và xác định khung
hình phạt cho từng tội phạm.
Theo đó, tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là đặc tính về chất của
tội phạm cho phép phân biệt tội phạm ở nhóm này với tội phạm ở nhóm khác trong
Bộ luật hình sự. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thể hiện thơng
qua các dấu hiệu có tính ổn định cao phản ánh bản chất của tội phạm như khách thể,
hình thức lỗi, hành vi khách quan...Cịn mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
là đặc tính về lượng của tội phạm cho phép ta phân biệt mức độ nguy hiểm cho xã
hội giữa tội này với tội phạm khác trong một nhóm hoặc đối với một tội nhưng
Lê Vũ Huy (2011), Các quy định về quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam và việc đảm bảo
quyền con người đối với người đối với người chưa thành niên phạm tội, Cấp Trường, Trường Đại Học Luật
Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.6
8
16
trong những trường hợp phạm tội khác nhau. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm được biểu hiện thơng qua các dấu hiệu mang tính định lượng như mức độ
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, mức độ
lỗi...
Thực tiễn cho thấy, trong từng trường hợp cụ thể, hành vi phạm tội diễn ra
rất đa dạng, phức tạp và không bao giờ giống nhau một cách tuyệt đối, kể cả khi
cùng phạm một tội nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau.
Ngay trong một loại tội phạm, do tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội khác nhau nên mức hình phạt trong một khung hình phạt cũng
khác nhau. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội khi quyết định hình phạt, chính là căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội trong cùng một khung hình phạt.
Do vậy, khi quyết định hình phạt, Tồ án bắt buộc phải căn cứ vào tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội để xem xét toàn diện các yếu
tố ảnh hưởng đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, từ đó lựa chọn loại và
mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt cho phép một cách công bằng,
hợp lý với người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng.
Căn cứ “nhân thân người phạm tội”
Nhân thân người phạm tội là toàn bộ các đặc điểm riêng biệt về tự nhiên và
xã hội có liên quan đến người phạm tội và có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng
đắn vấn đề TNHS của họ. Theo đó, khơng phải mọi yếu tố thuộc về nhân thân
người phạm tội đều được xem là căn cứ mà chỉ những yếu tố liên quan đến hành vi
phạm tội và mục đích phạm tội mới được xem là căn cứ khi quyết định hình phạt.
Đây cũng là căn cứ thể hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong luật hình
sự Việt Nam và đóng vai trị quan trọng khơng thể thiếu khi quyết định hình phạt.
Bởi vì nhân thân người phạm tội ngoài việc phản ánh mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội, còn phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội, do đó nếu
Tịa án chỉ dựa vào căn cứ “các quy định của BLHS” và căn cứ “tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” để quyết định hình phạt thì hình phạt
đó vẫn chưa thực sự phù hợp với khả năng giáo dục, cải tạo cũng như hoàn cảnh đặc
biệt của người phạm tội. Để đảm bảo hình phạt chính xác, nghiêm minh, đạt được
mục đích trừng trị và giáo dục cải tạo người phạm tội, đòi hỏi Tòa án khi quyết định
17
hình phạt phải xác định loại và mức hình phạt cụ thể khơng chỉ tương xứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà còn phải phù hợp với những đặc
điểm nhân thân người phạm tội, phải đánh giá khả năng phát triển nhân cách, khả
năng cải tạo cũng như những vấn đề ảnh hưởng đến quá trình cải tạo của họ.
Những đặc điểm nhân thân người phạm tội cần được cân nhắc trong tổng thể
bao gồm:
-
Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh khả năng giáo dục
của họ;
Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt
của họ.
Trong một số trường hợp, nếu các yếu tố về nhân thân người phạm tội đã
được nhà làm luật quy định là yếu tố loại trừ trách nhiệm hình sự, yếu tố miễn hình
phạt, yếu tố định tội, định khung hình phạt hoặc quy định là tình tiết tăng nặng hoặc
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì khơng được cân nhắc các yếu tố đó với
tính chất là đặc điểm nhân thân của người phạm tội để quyết định hình phạt, bởi lẽ
nếu được sử dụng lại để cân nhắc nhân thân người phạm tội sẽ làm cho việc đánh
giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khơng chính
xác và thể hiện rõ sự thiếu cân bằng. Bên cạnh đó, nếu trường hợp nhân thân người
phạm tội đã được xác định thuộc về dấu hiệu bắt buộc của chủ thể tội phạm trong
cấu thành định tội thì cũng khơng được căn nhắc khi quyết định hình phạt.
Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội các yếu tố thuộc về nhân thân là căn cứ
vô cùng quan trọng để Tồ án cân nhắc khi quyết định hình phạt, do các yếu tố như
độ tuổi, trình độ văn hố, lịch sử bản thân và hồn cảnh gia đình của người dưới 18
tuổi là những yếu tố có ý nghĩa trực tiếp đến hành vi phạm tội của họ. Vì lẽ đó, khi
căn cứ vào nhân thân để quyết định hình phạt cho người dưới 18 tuổi phạm tội cần
chú ý một số vấn đề sau:
- Thứ nhất, người tiến hành tố tụng cần có các hiểu biết cần thiết về tâm lý
học, khoa học giáo dục cũng như các hoạt động đấu tranh, phòng ngừa người dưới
18 tuổi phạm tội.
18
- Thứ hai, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần cân nhắc các yếu tố
có liên quan đến hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi như9:
Về độ tuổi, ngoài các quy định tại Điều 12 BLHS 2015 về độ tuổi chịu
TNHS thì cần phải cân nhắc độ tuổi của các đối tượng này trong từng
trường hợp cụ thể, nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì tuổi càng
nhỏ, hình phạt càng nhẹ.
Về trình độ văn hóa, đây là yếu tố ảnh hưởng đến người dưới 18 tuổi. Phải
xem xét các vấn đề như họ có đi học hay khơng, việc đi học có diễn ra liên
tục khơng, bởi sự nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội ở các đối
tượng này là khác nhau.
Lịch sử bản thân người dưới 18 tuổi cũng có vai trị đáng kể đến hành vi
phạm tội của họ. Một đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, sống lang thang, bụi đời, đã
vi phạm pháp luật nhiều lần sẽ dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội hơn
một đứa trẻ có bố mẹ, được ni dạy tử tế.
Hồn cảnh gia đình là một yếu tố tác động trực tiếp đến hành vi phạm tội
của họ. Một đứa trẻ trong một truyền thống, có giáo dục, bố mẹ, ơng bà là
cơng dân tốt khác với một đứa trẻ sống thiếu tình thương như: cha mẹ li
hôn, bố mẹ phạm tội, bầu không khí lục đục, mâu thuẫn, khơng quan tâm
đến con cái.
Nếu vụ án có đồng phạm thì xem xét họ có bị xúi dục hay khơng để cân
nhắc khi quyết định hình phạt đối với họ.
Căn cứ “tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”
Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS là những tình tiết khơng có ý
nghĩa về mặc định tội, định khung hình phạt mà chỉ có tác dụng làm tăng hoặc giảm
mức độ TNHS trong phạm vi một khung hình phạt nhất định. Hai nhóm tình tiết về
TNHS này có giá trị pháp lý hồn tồn trái ngược nhau: nếu như tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự là các yếu tố làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo
hướng ít nghiêm trọng hơn thì tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những yếu
tố làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng nghiêm trọng hơn.
Đinh Văn Quế (2010), Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Phương
Đông, tr. 123.
9
19
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điều 51 BLHS 2015 và các
tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 BLHS 2015. Trên thực tế, nhà làm
luật khơng thể quy định được các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS có ảnh hưởng
đến mức độ nào đối với việc quyết định hình phạt bởi vì ý nghĩa của từng tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng TNHS tuỳ thuộc vào từng loại tội cụ thể, vào từng vụ án cụ
thể. Do vậy, khi quyết định hình phạt Tồ án phải đánh giá các tình tiết này trong
mối liên hệ đến toàn bộ vụ án và với sự hiện diện của những tình tiết này, mức hình
phạt bị ảnh hưởng như thế nào so với trong trường hợp khơng có sự hiện diện
những tình tiết này.
Riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, khi căn cứ vào tình tiết tăng nặng
và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt thì Tồ án cần lưu
ý có một số tình tiết nếu là người đủ 18 tuổi phạm tội thì khơng được áp dụng
nhưng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì lại được áp dụng. Ví dụ: Theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 thì khi người phạm tội tự nguyện sửa
chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả thì mới được coi là tình tiết giảm
nhẹ, nhưng đối với người chưa 18 tuổi phạm tội thì bố, mẹ, người thân của người
phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cũng được
coi là tình tiết giảm nhẹ. Ngược lại, có những tình tiết đối với người đủ 18 tuổi trở
lên phạm tội thì được áp dụng cịn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì khơng
được áp dụng, nhất là đối với các tình tiết tăng nặng. Ví dụ: tình tiết tái phạm, tái
phạm nguy hiểm thì khơng được áp dụng đối với người chưa đủ 16 tuổi, vì theo quy
định tại khoản 7 Điều 91 BLHS 2015 thì “án đã tuyên đối với người chưa đủ 16
tuổi phạm tội, thì khơng tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”.
Tóm lại, trên cơ sở phân tích các căn cứ quyết định hình phạt quy định tại
Khoản 1 Điều 50 BLHS 2015, nhìn chung việc tiến hành quyết định hình phạt của
Tịa án đối với người dưới 18 tuổi phạm tội sẽ theo các bước như sau10:
(1) Căn cứ vào “các quy định của BLHS” bao gồm các quy định tại Chương XII
BLHS 2015 áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để xác định
khung hình phạt được phép áp dụng.
Trường ĐH Luật TP.HCM (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Trần Thị Quang Vinh,
Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 341
10