Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

phan tich bai tho dat nuoc cua nguyen khoa diem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.09 KB, 58 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Ngữ
văn 12
Dàn ý Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm: ông thuộc thế hệ nhà thơ chống Mĩ
cứu nước, thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và chất triết lí, suy tư
của người trí thức về đất nước, con người.
- Giới thiệu về bài thơ Đất nước: được trích trong trường ca Mặt đường khát
vọng, là một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của
nhân dân”.
II. Thân bài
1. Đất nước được cảm nhận từ phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của
khơng gian, chiều dài của thời gian
a. Đất nước có từ bao giờ? (lí giải cội nguồn của đất nước) (9 câu đầu)
- Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều
này thơi thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước.
- Đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người
Việt Nam từ xa xưa: “ngày xửa ngày xưa” gợi nhớ đến câu mở đầu các câu
chuyện dân gian, “miếng trầu” gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ
tích trầu cau, “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: thói quen búi tóc của những người phụ
nữ Việt Nam, “Thương hau bằng gừng cay muối mặn” thói quen tâm lí, truyền
thống yêu thương của dân tộc.
- Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành
tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
- Nhận xét: Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt
nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.
b. Định nghĩa về đất nước (28 câu thơ tiếp theo)
- Về phương diện không gian địa lí:
+ Tác giả tách riêng hai yếu tố “đất” và “nước” để suy tư một cách sâu sắc.



Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

+ Đất nước là khơng gian riêng tư quen thuộc gắn với không gian sinh hoạt của
mỗi con người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”; gắn với kỉ niệm tình u
lứa đơi: “nơi em đánh rơi ... thương thầm”.
+ Đất nước là không gian bao la trù phú, không gian sinh tồn của cộng đồng
qua bao thế hệ: “Đất là nơi con chim phượng hoàng ... dân mình đồn tụ”.
- Nhìn đất nước được nhìn xun suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến
tương lai:
+ Trong quá khứ đất nước là nơi thiêng liêng, gắn với truyền thuyết, huyền
thoại: “Đất là nơi chim về ... trong bọc trứng”
+ Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lịng mỗi con người, mỗi người đều
thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất
nước sẽ nồng thắm, hài hịa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái
chung.
+ Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa” “đến những ngày mơ
mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.
- Suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước: “Phải biết gắn bó và san
sẻ”, đóng góp, hi sinh để góp phần dựng xây đất nước.
- Nhận xét: qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi,
thân thuộc lại vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.
2. Tư tưởng cốt lõi, cảm nhận về đất nước: đất nước của nhân dân
- Thiên nhiên địa lí của đất nước khơng chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được
hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm
hồn con người:
+ Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hịn Vọng Phu”, “hịn Trống

Mái”
+ Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà
có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.
+ Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”
- Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:
+ Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng ln thường trực tình yêu
nước.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

+ Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng
định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.
- Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn
hóa: “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên
làng”, ... từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.
- Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước
của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm
hồn con người: biết u thương, biết q trọng trọng tình nghĩa, cơng sức và
biết chiến đấu vì đất nước.
- Nhận xét:
+ Về nội dung: đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước
trên nhiều bình diện: văn hóa, lịch sử, địa lí dựa trên tư tưởng cốt lõi: “đất nước
của nhân dân”.
+ Về nghệ thuật: sử dụng đa dạng và sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, ngôn
ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc.
III. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của đoạn trích: đoạn trích đã nhấn mạnh tư tưởng “đất
nước của nhân dân”, thể hiện tinh thần yêu nước của tác giả, đánh thức tinh

thần yêu nước trong mỗi con người.
- Nêu cảm nhận riêng về đoạn trích đất nước và có liên hệ thực tiễn đến trách
nhiệm của thế hệ hôm nay với đất nước.
Audio Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Video Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 1
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu
trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào
êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết
tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước
đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình
Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn
Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn tồn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác
nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và
cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết
hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt
Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết
hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất
gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất
Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong
miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam bao
dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vơ cùng
quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi
về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng
của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình u thương gắn bó với
mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất
nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn. Tình u cha mẹ mãi mãi mặn nồng như
chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc
nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hơm nào:
Tay bưng đĩa muối chén gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Đất nước cịn là thành quả của cơng cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng
xây nhà cửa:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Ở đây Đất nước khơng cịn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen
thuộc và giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể
hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.
Vẫn bằng lời trị chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng,

Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi khơng gian địa lí mênh mơng từ rừng
đến bể mà cịn được cảm nhận bởi khơng gian sinh hoạt bình thường của mỗi
người, khơng gian của tình u đơi lứa, khơng gian của nỗi nhớ thương. Ý
niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và
nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô
nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm
mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy
thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong
sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hị
hẹn. Khơng những thế, đất nước cịn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ
mong của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là
hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn – biểu tượng
của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: "Khăn
thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất ...", một lần nữa lại khiến lịng người xúc
động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say
đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với q hương. Hình
ảnh con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc, con cá ngư ơng móng nước
biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lịng u q hương
cả tác giả. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đơi khi cũng lớn rộng,
tráng lệ và kì vĩ vơ cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái
chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như
thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng,

không gian mênh mơng để mãi mãi là nơi dân mình đồn tụ, là khơng gian sinh
tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền
thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm
muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào,
người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên
của mình.
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ
thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương
diện: trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm
thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm
hồn và tính cách dân tộc.
Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện
nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ
qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.
Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi
chúng ta:
Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần đất nước

Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con
người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người
mà là của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa
vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước
mn đời.
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập
trung làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã
sáng tạo ra Đất nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những
danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Trống Mái, những núi Bút non Nghiên ... khơng cịn là những cảnh thú thiên
nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân,
được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những
con người khơng tên tuổi: "Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất nước
những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hịn Trống Mái",
"Người học trị thắng cảnh". Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của
Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân.
Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời
mình lên mỗi ngọn núi, dịng sơng. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những
hiện tượng cụ thể, nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha
Ơi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về

lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ khơng ca ngợi các triều đại,
khơng nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến
những con người vơ danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân
dân, của những con người vơ danh bình dị đó.
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ
mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt
lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục
ngữ, ca dao. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi
bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại
nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

dân, của dân tộc: Thật đắm say trong tình u, biết q trọng tình nghĩa và cũng
thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với
một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tn chảy trong tâm trí người đọc
những tí tách reo vui ...
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành cơng cho mảng thơ viết
về Đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước
khơng cịn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng.

Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta khơng chỉ tìm về cội nguồn dân tộc
mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi
thời đại.
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 2
“… Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời…”
“Mặt đường khát vọng” là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời
trong chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị - Thiên - một điểm
nóng - trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

đọc bao xúc động, tự hào về đất nước và nhân dân. Trong bài “Có một thời đại
mới trong thi ca”, Trần Mạnh Hảo viết:
“Vào đêm giao thừa Tết âm lịch 1973 - 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tơi
xúc động nghe trích đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất

nước, về dân tộc đã được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và
cảm xúc mãnh liệt”.
“Đất Nước” - là chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dài 110 câu
thơ (trong “Văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà
thơ trẻ về Đất Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa - lịch sử, và trong sự gắn
bó thân thiết với đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ
hai, cảm hứng chủ đạo về Đất Nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất
Nước của Nhân Dân. Từ đó, nhà thơ nhận diện phát hiện Đất Nước trên bình
diện về địa lý, lịch sử, văn hố, ngơn ngữ, truyền thống tinh thần dân tộc - nền
văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc đáo của chương V “Đất Nước” là tác giả vận
dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ,
phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi
vừa mới mẻ cho người đọc.
Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất nước” thể hiện
cảm nhận: Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt nam:
Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần Đất Nước
(…)
Làm nên Đất Nước muôn đời…”.
Trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, hai từ Đất Nước và Nhân
Dân đều được viết hoa, trở thành “mĩ tự” gợi lên khơng khí cao cả, thiêng liêng
và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và Nhân Dân. Chủ thể
trữ tình là “anh và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt
ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13 câu thơ là cấu trúc tổng - phân - hợp mà ta cảm
nhận được tính chất chính luận của ngịi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.
1. Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống,
về lịch sử,… Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi
người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Chỉ “một phần” nhỏ bé thơi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự
hào. Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của
Đất Nước” được diễn đạt một cách “mềm hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa
đôi, của “anh và em”.
2. Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ
“hôm nay” đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”.
Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất Nước là nơi anh đến trường - Nước là
nơi em tắm - Đất Nước là nơi ta hò hẹn – Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia
đình đã được xây dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước. Chỉ có tình yêu
và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hịa, nồng thắm” với tình u q
hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý
tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về
nỗi “nhớ”:
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vơ ngần…”.
Từ tình u và hạnh phúc lứa đơi mà biết u gia đình, u q hương, u đất
nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hịa
nồng thắm”, mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của
anh, của em, của bao lứa đôi khác:
“Xưa yêu q hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị địn roi.
Nay u q hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tơi”.
(Giang Nam)
Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự
tích “Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc Long Quân
và Âu Cơ - Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng - Những ai đã khuất - Những ai
bây giờ…”. Từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đất Nước vẹn trịn, to lớn”
Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên,
là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu
thương đồng bào,… Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau
mới có hình ảnh “Đất Nước vẹn trịn, to lớn”, mới có đại đồn kết dân tộc và
sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một
bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Đất Nước được cảm
nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba cây chụm lại
nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong một nước
phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất Nước
vẹn tròn, to lớn”.
Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm
tay”… “Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hồ nồng thắm…”.
“Đất Nước vẹn trịn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý
nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được
diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hòa,
gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình u lứa đơi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu
quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm

nên truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người” và đó là sức mạnh Việt Nam.
Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất
nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam
Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm,
Thanh Hải,… cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai
tiếng “mai này” là cách nói của bà con xứ Huế.
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước
để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin
về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng.
“Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngồi trí tưởng tượng về một Việt Nam cường
thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta
mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần.
Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt
ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng
đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước:

“Đất Nước là máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt
thân u của mình, và mồ hơi xương máu của tổ tiên, ơng cha của dân tộc ngàn
đời. Vì “Đất Nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:
“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lịng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.
(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)
Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện
của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn
bó và san sẻ… phải biết hóa thân…” thì mới có thể “Làm nên Đất Nước muôn
đời”. Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho
giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra
đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới
cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là tiếng nói tâm
huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngồi giới hạn thơng tin của
ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.
Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô
đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú.
Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong
cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước
trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất
nước:
“Tơi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tơi
Như u em nụ hơn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Cứ trơng đất nước mình thống nhất”
(Trần Vàng Sao)
“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
(Chế Lan Viên)
Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước
thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước mn
đời”. Đoạn thơ đẹp cịn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước và tiền đồ
tươi sáng của dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính
cơng dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm
xúc, sáng tạo về ngơn từ, hình ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư,
khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tịi.
“Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ
thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hịa bình phải biết đem “trí lực” để xây
dựng Đất Nước, “làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất nước “to đẹp hơn đàng
hồng hơn”. Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo tồn Sơng núi.
“Gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy
là tình yêu Đất Nước của “anh và em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này
con ta lớn lên”…
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 3
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều
có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên
muôn màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về
Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hững về lịch sử qua các
triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị
để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta
như đứng trước mn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần.

Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa
Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà
khơng kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu
hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng
ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm
dấu ấn con người Việt.
Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã
có rồi”. Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có
từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước.
Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời
khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước.
Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”.
Nghĩa là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi
những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống
tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước
của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại,
truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta cịn nằm
nơi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết
yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con
người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”.
Gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ
tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn
trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu
dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu.
Miếng trầu là biểu tượng của tình u, vật chứng cho lứa đơi cũng là biểu
tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng
ra đời:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)

Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng
thành từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây
tre: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù
Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của
tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi
đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng
chiến đấu bảo vệ giống nịi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh
đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần
Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm
chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đơn hậu thuỷ
chung, u chuộng hồ bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu.
Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chơng
cũng tiến cơng giặc Mỹ ", bởi:
"Nịi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".

Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ
tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những
người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho
người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca
dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú,
lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tơn tạo mảnh đất thân u. Ở
đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc:
"Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những
câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu
thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy
chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người
sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất
Nước cịn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn
Trống Mái… đi vào năm tháng.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm
nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau
làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngơi
nhà tổ ấm cho mọi gia đình đồn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn
thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta cịn có truyền thống lao động cần cù,
chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.
Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta
những ngày long đong, lận đận trong đời sống nơng nghiệp lạc hậu. Đó là
truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay - giã dần - sàng” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày,
người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần
sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai
cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm
ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có
từ ngày đó”.
“Ngày đó” là ngày nào ta khơng rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có
truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất
nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình,
phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt
Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà.
Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng u đáng quý, đáng tự hào biết bao
lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn
hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền
thống nơng nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành
ngữ…Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần. Nhà thơ luôn viết hoa hai từ
Đất Nước tạo nên sự thành kính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ

đậm đà khơng gian văn hóa người Việt. Ngơn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ
nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
Đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước.
Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước
giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang
đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 4
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đề bài: Ý kiến của anh chị về tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm trong "Đất
nước".
Với đề này cần giải quyết 2 luận điểm:
1. Cảm nhận về đất nước.
2. Tư tưởng đất nước của nhân dân.
Sau đó rút ra những cảm nhận cho chính bản thân mình.
Dưới đây là phần chi tiết:
1/ Cảm nhận về Đất nước:
a) Đoạn thơ về Đất nước bắt đầu một cách rất bình dị, tạo một sự gần gũi, thân
thiết mà khơng bắt đầu một cách trang trọng. Đất nước ở ngay trong cuộc sống
của mỗi gia đình chúng ta, từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà,
các phong tục tập qn quen thuộc (tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa
thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng ngày, cái kèo cái cột trong nhà…
Tất cả những điều đó làm cho Đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị
trong cuộc sống hằng ngày của con người:
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
b) Tiếp đó là sự cảm nhận Đất nước từ các phương diện địa lý - lịch sử. Tác giả
khai thác các thành tố của Đất nước. Việc tìm về từ gốc của từ Đất nước là để
khai thác cách quan niệm có nét riêng biệt của dân tộc ta về khái niệm này. Ở
nhiều ngôn ngữ khác, Đất nước thường được cấu tạo từ những gốc là nơi sinh,
quê hương… Nhưng trong tiếng Việt, Đất nước gồm hai yếu tố hợp thành
“Đất” và “Nước”. Cách truy tìm từ gốc, cách “chiết tự” có thể dẫn đến nguy cơ
hiểu sai lạc ý nghĩa, hoặc máy móc giản đơn khi giải thích các khái niệm khoa
học. Nhưng ở đây, tư duy nghệ thuật cho phép cách phân tích và cảm nhận theo
các phương diện không gian và thời gian, địa lý và lịch sử (Thời gian đằng
đẳng - Không gian mênh mông). Từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ,
truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ đã nói lên chiều sâu lịch sử của Đất
nước Việt Nam. Về mặt không gian địa lí, Đất nước khơng chỉ là núi sơng,
rừng bể (con chim Phượng Hồng… con cá Ngư Ơng,…) mà cịn là cái không
gian rất gần gũi với cuộc sống mỗi người. “Đất là nơi anh đến trường, Nước là
nơi em tắm. Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” - Và
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

cũng là khơng gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (Những ai đã
khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi
trước để lại. Dặn dò con cháu chuyện mai sau…).
Tác giả sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao, truyền thuyết dân gian. Có lúc
lấy lại từng phần của câu ca dao, nhưng phần nhiều là sử dụng ý, hình ảnh tạo
nên hình tượng thơ mới, vừa gần gũi vừa mới mẻ (cha mẹ thương nhau bằng
rừng cay muối mặn… Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm…)
Ở trên chiều rộng của khơng gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử. Đất

nước được cảm nhận như sự thống nhất các phương diện văn hóa, truyền thống,
phong tục, cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống mỗi cá nhân và cả
cộng đồng…
c) Đến đây, ý thơ dẫn đến điểm tập trung những suy nghĩ, cảm xúc về Đất nước,
cũng là điểm mấu chốt của tư tưởng, phần một của bài:
“Trong anh và em hôm nay - Đều có một phần Đất nước”
Đất nước khơng ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con
người. Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của Đất
nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và
vật chất của dân tộc, của nhân dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ,
phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.
Đoạn thơ kết thúc bằng một lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ về trách nhiệm với đất
nước, tuy là đoạn thơ chính luận nhưng người đọc khơng cảm thấy là những lời
“giáo huấn” mà chỉ như một lời tự nhủ, tự dặn mình, chân thành, tha thiết…
“Em ơi em, Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước mn đời…”
2/ Tư tưởng Đất nước của nhân dân
Tư tưởng cơ bản của phần này là tư tưởng Đất nước của nhân dân. Đây là điểm
qui tụ mọi cách nhìn về Đất nước trong phần này, cũng là đóng góp của
Nguyễn Khoa Điềm làm sâu sắc thêm ý niệm về Đất nước của thơ chống Mĩ.
a) Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là một cách nhìn có
chiều sâu và là một phát hiện mới mẻ (đoạn đầu của phần hai, từ “những người
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

vợ nhớ chồng…” đến “Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta…”). “Những cảnh

quan thiên nhiên kì thú (đá Vọng Phu, núi Con Cóc, núi Con Gà hay hòn Trống
Mái v.v…) gắn liền với con người, được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn và
lịch sử dân tộc. Nếu khơng có người vợ chờ chồng qua các cuộc chiến tranh và
li tán thì cũng khơng có sự cảm nhận về núi Vọng Phu, cũng như thế nếu khơng
có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì cũng khơng thể có sự cảm nhận
như vậy về vẻ hùng vĩ của vùng núi đồi xung quanh đền vua Hùng…) Đoạn
thơ bằng cách quy nạp hàng loạt hiện tượng để đưa đến một khái niệm sâu sắc:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãi, chẳng mang một hình dáng, một ao
ước, một lối sống ơng cha. Ơi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
những cuộc đời đã hóa núi sơng ta…).
b) Khi nghĩ về bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều
đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vơ vàn những con người vơ
danh, bình dị:
Có biết bao nhiêu người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết,
Giản di và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Tiếp đó bài thơ khai triển thêm ý này: Những con người vơ danh và bình dị ấy
đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh
thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngơn
ngữ dân tộc, cả tên xã tên làng… Họ cũng là những người khi “có ngoại xâm
thì chống ngoại xâm, có nội thù thì vùng lên đánh bại”.
“Họ đã giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua rơm con củi
Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi cuộc di dân”
Nói đến Đất nước và dân tộc là nói đến lãnh thổ chủ quyền và văn hóa. Nhưng
tất cả các giá trị đó lại được tạo nên bởi người, bởi nhân dân. Trong từng tấc

đất, từng di tích lịch sử, từng câu hò xứ sở, quan họ quê hương… đâu đâu cũng
hiện lên bóng dáng nhân dân - giá trị cao nhất trong mỗi giá trị - “Nhân dân vô
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

danh nhưng thật là vĩ đại - Họ đã làm ra mọi của cải giá trị vật chất tinh thần,
làm ra đất nước”.
c) Mạch suy nghĩ của bài thơ dẫn đến tư tưởng cốt lõi. Điểm hội tụ và cũng là
cao điểm của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn trích này. “Đất nước này là Đất
nước của Nhân dân” Cũng từ điểm này chúng ta hiểu thêm những ý thơ trên.
Và khi nói đến Đất nước của Nhân dân, một cách tự nhiên, tác giả trở về với
nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca
dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca
dao, dân ca, truyện cổ tích. “Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần
thoại”. Câu thơ ở hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa về Đất
nước… thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Trong cả kho tàng ca dao, dân ca, ở
đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của
truyền thống nhân dân, dân tộc: thật say đắm trong tình u (u em từ thuở
trong nơi) q trọng tình nghĩa (q cơng cầm vàng những ngày lặn lội) nhưng
cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu (trồng tre đợi ngày thành gậy,
đi trả thù mà không sợ dài lâu…)
Chúng ta gặp lại cách vận dụng vốn ca dao dân ca một cách sáng tạo, không lặp
lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý và hình ảnh của câu ca dao, vẫn gợi nhớ đến
câu ca dao nhưng lại trở thành một câu, một ý thơ gắn bó trong mạch thơ của
bài.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân thật ra đã có manh nha từ trong lịch sử xa
xưa. Những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn dân tộc đã từng nói lên nhận
thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu,

Phan Bội Châu) hoặc cảm thơng sâu sắc với số phận của nhân dân, của mọi lớp
người trong nhân dân (Nguyễn Du với văn Chiêu hồn, Truyện Kiều). Đến nền
văn học hiện đại, được soi sáng bằng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bằng quan
điểm Mác-xít về nhân dân và nảy nở từ trong thực tiễn vĩ đại của cuộc cách
mạng mang tính nhân dân sâu sắc, văn học từ sau Cách mạng Tháng Tám đã
đạt đến một nhận thức sâu sắc về nhân dân và cảm hứng về đất nước mang tính
dân chủ cao. (Thơ ca kháng chiến chống Pháp là một ví dụ tiêu biểu. Có thể
nhớ đến các bài: Tình sơng núi của Trần Mai Ninh, Đất nước của Nguyễn Đình
Thi, Bên kia sơng Đuống của Hoàng Cầm…). Đến giai đoạn chống Mỹ, tư
tưởng Đất nước của Nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai
trị và những đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc
chiến tranh dài lâu và cực kỳ ác liệt này.
Tư tưởng ấy được các nhà thơ trẻ chống Mỹ phát biểu một cách thấm thía qua
sự trải nghiệm của chính mình như những thành viên của nhân dân, cùng chia
sẻ mọi gian lao, hi sinh và được che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân
(Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn Duy, các trường ca Những người đi tới biển của
Thanh Thảo và Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đều tập trung nói về

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

những gương mặt của các con người bình thường, vơ danh trong nhân dân và
khơng phải ngẫu nhiên mà đều bắt đầu bằng hình ảnh người mẹ).
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một thành cơng trong dòng thơ về
Đất nước thời chống Mỹ, làm sâu sắc thêm nhận thức về Nhân dân và Đất
nước.
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 5
Đất nước” là một trong những bài thơ hay nói về khát vọng yêu nước trong mỗi

một con người Việt Nam. Dưới đây là bài phân tích về các trích đoạn trong bài
thơ “Đất Nước” (trích trường ca
“Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
(…) Đất Nước có từ ngày đó”.
Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
Những năm 1970, 1971,… ông sống và hoạt động tại chiến trường Trị - Thiên;
trường ca “Mặt đường khát vọng” được ông sáng tác vào thời gian ấy. Chương
V “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”.
Phần đầu 42 câu tác giả nhận diện Đất Nước có nguồn gốc lâu đời. Tục ăn trầu,
cổ tích Trầu - Cau, truyền thuyết Thánh Gióng dùng gốc tre đánh đuổi giặc Ân
mà “mẹ thường hay kể”:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Nhà thơ cảm nhận Đất Nước trong dịng chảy thời gian “đằng đẵng”, trên
khơng gian địa lí “mênh mơng”, qua sự tích “Trăm trứng” và giỗ Tổ Hương
Vương. Nhà thơ bằng giọng tâm tình đã dẫn hồn ta ngược thời gian bốn nghìn
năm trở về cội nguồn Đất Nước:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
(…) Hằng năm ăn đâu làm đâu
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
Tục “bới tóc xăm mình” của người Lạc Việt, câu ca dao “gừng cay muối mặn”

nói về đạo vợ chồng, ngơn ngữ dân tộc hình thành, phát triển, nên “cái kèo, cái
cột thành tên”, công việc cấy cày làm ăn “xay, giã, giần, sàng” được chỉ rõ. Cội
nguồn “Đất Nước có từ ngày đó”.
Đất Nước trong quá khứ mang vẻ đẹp kì diệu, huyền thoại:
“Đất là nơi “con chim Phượng Hồng bay về hịn núi bạc”
Nước là nơi “con cá Ngư Ơng móng nước biển khơi”.
Đất Nước hiện tại gắn bó yêu thương với mọi người, “trong anh và em hơm
nay - Đều có một phần Đất Nước”. Mai này Đất Nước nhiều “mơ mộng”. Yêu
nước là nghĩa vụ thiêng liêng:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa than cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời”.
Phần thứ hai có 68 câu (Văn 12 chỉ trích học 47 câu) nói về tư tưởng “Đất
Nước của Nhân Dân”. Nhân Dân sáng tạo ra Đất Nước. Các danh lam thắng
cảnh đều biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp, “lối sống” của ơng cha như tình
nghĩa vợ chồng thủy chung, tình yêu lứa đôi thắm thiết, sức mạnh quật khởi,
tinh thần đại đoàn kết của dân tộc, truyền thống hiếu học của Nhân Dân ta:
“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hịn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
99 con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.
Núi Bút non Nghiên, vịnh Hạ Long, ơng Đốc Ơng Trang… đều do Nhân Dân
ta “góp cho”, “cùng góp cho”, “góp tên” - mà Đất Nước đẹp tươi, hùng vĩ.
“Bốn nghìn lớp người” đã đem mồ hôi, xương máu ra xây dựng và bảo vệ Đất
Nước: “Khi có giặc người con trai ra trận - Người con gái trở về nuôi cái cùng
con - Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”. Nhân Dân đã sáng tạo ra Đất
Nước và làm chủ Đất Nước. Họ là những con người vô danh mà vĩ đại:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Nhân Dân là người sản xuất “giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”. Nhân Dân
đã sáng tạo ra ngơn ngữ “truyền giọng điệu của mình cho con tập nói”. Nhân
Dân đã diệt thù trong giặc ngồi để giữ gìn Đất Nước, làm cho Đất Nước ngày
thêm giàu đẹp:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Tóm lại, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo tục ngữ, ca dao, dân ca,
truyện cổ, phong tục, ngôn ngữ để cảm nhận về nguồn gốc lâu đời của Đất
Nước, khẳng định Nhân Dân vĩ đại đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất
Nước. Chương “Đất Nước” chứa chan tình yêu và niềm tự hào dân tộc.
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 6
Đoạn thơ 9 câu dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất Nước” thuộc
trường ca “Mặt đường khát vọng” (1971) của Nguyễn Khoa Điềm:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
………………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó”.
Đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của
Đất Nước.
Giọng điệu thủ thỉ tâm tình, nhà thơ gợi lên một khơng khí trầm lắng như kể
chuyện cổ tích, như dẫn hồn ta ngược thời gian trở về cội nguồn Đất Nước và
dân tộc. Bốn chữ “ngày xửa ngày xưa” dùng rất khéo:

“Khi ta lớn lớn Đất Nước đã có rồi
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”.
Chữ “có” trong “đã có rồi”, “Đất Nước có trong những cái…” đã làm cho ý thơ
khẳng định, tỏa sáng niềm tin. Tục ăn trầu, truyện cổ tích Trầu - Cau gợi lên
hình ảnh Đất Nước.
Nước xa xưa, “Đất Nước bắt đầu”… Truyền thuyết Thánh Gióng cho biết sự
vươn mình của dân tộc, đánh dấu sức mạnh quật khởi “Đất Nước lớn lên”. Câu
thơ mở rộng đến 12, 13 chữ, với cách gieo vần lưng (đầu - trầu, ăn - dân) nên
vẫn thanh thoát, giàu âm điệu:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Hai chữ “lớn lên” liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Gióng lên ba vươn vai
thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược.
Rồi nhà thơ nói đến phong tục và đạo lí tốt đẹp lâu đời của nhân dân ta. Phong
tục “búi tóc” của người Lạc Việt. Câu ca dao nói về đạo vợ chồng: “Tay bưng
chén muối đĩa gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” đã nhập hồn
vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Chuyện “ngày xửa ngày xưa” nhưng vẫn hiện diện trên “tóc mẹ”, trong tình
thương của “cha mẹ” bây giờ. “Đất Nước đã có rồi”, “Đất Nước có…”, “Đất
Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên” và Đất Nước đang hiện diện quanh ta, gần
gũi ta.
Tiếp theo, nhà thơ lấy sự hình thành và phát triển ngơn ngữ dân tộc để nói về
nguồn gốc lâu đời của Đất Nước. Mỗi vật dụng đều có một cái tên riêng: “Cái

cột, cái kèo thành tên”. Nhân Dân ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. Nghề
trồng lúa nước tạo nên nền văn minh sông Hồng. Khi hạt gạo được sáng tạo
nên bằng cơng sức “một nắng hai sương”, thì ngơn từ “xay, giã, giần, sàng”
cũng xuất hiện. Tiếng Việt là của quý lâu đời của Đất Nước ta, Nhân Dân ta.
Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm thật ý vị:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


×