Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

1.Bốn con đường giao lưu Việt Nam Phương Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.31 KB, 7 trang )

1.Bốn con đường giao lưu Việt Nam – Phương Tây
a) Con đường truyền giáo
*Đây là một quá trinh và là thành tựu của giao lưu văn hóa
( Cơng giáo)
Q trình truyền giao gắn liền với các thương nhân phương tây
Đầu TK 20, đã xuất hiện truyền giao nhưng không hiệu quả. Vì thời
gian truyền đạo ngắn, cản trở về ngơn ngữ, thiếu tính thích nghi với
văn hóa Việt Nam.
Năm 1615, đồn truyền giao dịng Tên tại Macao đến Việt Nam
truyền giao (nhưng chủ yếu là chăm sóc tinh thần cho người Nhật).
Sau đó họ phát hiện người dân bản địa ở đây thuần hậu rất thích hợp
để truyền giáo. Các giáo sĩ dịng Tên về nhiều mặt như (tốn học,
thiên văn học, y học,…). Nên họ nghĩ ra được cách tuyên truyền các
thành tựu khoa học vào việc truyền giáo.
Sự du nhập thiên chúa giáo vào Việt Nam ngay từ thế kỉ XVI được
chia làm 2 giai đoạn với nhiều thăng trầm.
Giai đoạn 1: Thế kỉ XVII – XVIII
Giai đoạn thứ nhất là hoạt động của các giáo sĩ dòng Tên nửa đầu
thế kỉ XVII.
Giai đoạn thứ 2 là hoạt động của Hội truyền giáo Hải ngoại, từ nửa
sau thế kỉ XVII – XVIII.
Giai đoạn 2: Thế kỉ XIX.
Nhìn chung, trong 2 giai đoạn, hoạt động truyền bá đạo thiên chúa
không diễn ra suôn sẻ, liên tục bị đứt quãng bởi các chính sách hạn
giáo, cống giáo của chúa Trịnh, chúa Nguyễn và sau này là phương
triều Nguyễn.
*Tiếp thu các thành tựu của văn hóa phương tây và chữ
quốc ngữ
Các giáo sĩ truyền đạo thiên chúa tới Việt Nam, đã mang theo cả 1
thế giới văn minh phương Tây khác biệt và hiện đại, giới thiệu cho
người dân Việt.


Đồng thời, Thiên Chúa giáo khi du nhập vào nước ta đã làm phong
phú thêm nền văn hóa Việt Nam, cho dù có lúc nó đã đối mặt một
cách gay gắt và quyết liệt với 1 số tơn giáo, tín ngưỡng và phong tục
của dân tộc. Trong đó, có những giá trị văn hóa cụ thể, như: chữ


quốc ngữ, y học phương Tây, nhà in, nghệ thuật (kinh thánh, thánh
ca…), kiến trúc.
Hình thành các thành tựu trong tốn học, thiên văn học, y học,…
Hình thành 1 số nghề mới như sửa đồng hồ, đúc binh khí. Và 1 số
thành tựu như cơng trình dẫn nước, chữ quốc ngữ.
*Văn hóa Việt Nam được truyền vào phương tây
Trong giai đoạn này giao lưu văn hóa Đơng Tây tự nguyện chấp
nhận. Mang tính 2 chiều. Bên cạnh việc tiếp thu các thành tựu văn
hóa văn học phương Tây thì các giáo sĩ truyền giáo đã mang kiến
thức về văn hóa, con người Việt Nam về phương Tây rồi ra các tập
sách.
b) Con đường thương mại
Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh
(Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran,
Iraq, Thổ Nhĩ Kì, Hy Lạp, xung quanh vung Địa Trung Hải đến tận
Châu Âu. Về phía đơng, con đường này cũng khởi đầu nối dài trên
biển, đến Hàn Quốc, Nhật Bản. Nó có chiều dài khoảng 6437km.
Kênh tiếp xúc Đông Tây thứ 2 cũng ko kém phần quan trọng là
kênh thương mại. Đó là hoạt động giao thương của các thương nhân
Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Theo các tài liệu, các thương nhân mới là những người đến Việt Nam
trước nhất.
Họ có mặt ở Việt Nam ngay từ cuối thế kỉ XVI – đầu thế kỉ XVII,
trong đó, đầu tiên là các thương nhân Bồ Đào Nha.

Do mục đích giao thương, họ chủ yếu tập trung ở các đô thị như
Phố Hiến, Kẻ Chợ, Hội An,… Ở những nơi này, họ thiết lập các
thương điếm của người châu Âu và tiến hành trao đổi hàng hóa với
các thương nhân người Hoa, người Nhật,… Đồng thời, thiết lập quan
hệ giao thương với cả Đàng Trong và Đàng Ngồi, trong đó chủ yếu
là việc mua bán vũ khí.
Trong số các nước phương Tây, Bồ Đào Nha là nước đầu tiên có
mặt ở Đàng Trong. Vào khoảng năm 1540, thương nhân Bồ Đào Nha
từ Ma Cao hoặc Nam Dương (Indonesisa) đến Hội An vào tháng Chạp
hoặc tháng Giêng bán, mua hàng như tơ, lụa, hồ tiêu, gỗ quý, thông
qua các đại lí người Hoa, người Nhật ở Hội An rồi quay thuyền về các
căn cứ trên (Ma Cao, Nam Dương).
Đối với Việt Nam, Bồ Đào Nha không thiết lập hệ thống thương
điếm cho nên mọi quan hệ mua bán đều thông qua mối giới trung


gian để gom hàng hóa, giao dịch. Điều đáng lưu ý là các thương
nhân người Bồ Đào Nha không để lại người thường trực ở Hội An
nhưng lại muốn độc quyền mua bán ở Đàng Trong.
Để làm việc đó, các thương nhân Bồ Đào Nha tìm mọi cách để lấy
lịng chúa Nguyễn gửi tặng các đồ vật. Những sản vật mà các
thương nhân mua của Đàng Trong là tơ vàng, 1 số trầm hương, kỳ
nam và 1 ít benzoin. Đổi lại, các thương nhân Bồ Đào Nha mang đến
diêm tiêu, súng ống, kẽm, đồng… có thợ kĩ thuật đi cùng để bán lại
cho Đàng Trong.
Người Bồ Đào Nha đã dạy cho Chúa Nguyễn kĩ thuật đúc súng nên
đươc các Chúa Nguyễn sủng ái và nể trọng.
Điều cần nhận thấy là trong số các thương cảng của Đàng Trong
thì Hội An được coi là một trong những thương cảng sầm uất nhất.
c) Con đường du hành, du học

du hành của những người phương Tây đến. Họ ở một thời gian sau
đó quay về xuất bản sách hoặc nhật kí về những điều họ thấy tại
Việt Nam
Du hoc người Việt sang phương Tây du học để học kiến thức
phương Tây sau đó về truyền bá ở phương Đông như Nguyễn Trường
Tộ, Trần Đại Nghĩa, Trần Đức Thảo, …
-Có nhiều tập sách như: Một chuyến du hành Đàng ngoài, Một
chuyến du hành Nam Hà.
Trong « Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà” năm 1792 – 1793,
bên cạnh việc mô tả một cách tỉ mĩ và các vấn đề về địa lý, lịch sử
của xứ Nam Hà, Barrow cịn cung cấp nhiều thơng tin thú vị về văn
hóa, tín ngưỡng của xứ Nam Hà.
Trong đó Barrow nhấn mạnh rằng “Ngành kĩ nghệ đặc biệt mà
ngày nay có thể nói là người xứ Nam Hà nổi trội hơn cả là kĩ thuật
đóng tàu biển của họ: chẳng thiếu loại kích cỡ nào cũng như có đủ
các loại chất lượng gỗ dung để đóng tàu. Những du thuyền dùng mái
chèo là những chiếc thuyền thật xinh đẹp”.
Địa danh Cù Lao Chàm và Hội An được Barrow nhắc đến nhiều lần
trong tập du ký này. Về Cù Lao Chàm, Barrow có mơ tả :” Một hịn
đảo nhỏ có tên là Callao nằm cách phía Nam vịnh Turon chừng 30
dặm ”… hịn đảo này hồn tồn kiểm sốt lối ra vào của nhánh
chính con song Faifo – trước đây là nơi bn bán chính của nhiều nên
ngoại thương – nằm trên đó “


Mô tả về cảng thị Hội An, đáng chú ý nhất là bức tranh vẻ cảnh
thuyền bè buôn bán tấp nập trên song Faifo vào cuối thế kỷ XVIII với
các thuyền bn bán lớn của nước ngồi và nhiều ghe thuyền địa
phương
d) Con đường chinh trị

Pháp xâm lược Việt Nam: Pháp đã đưa các thành tưu khoa học
phương Tây vào công cuộc khai thác thuộc địa như điện, tàu hỏa,
công nghiêp, hệ thống giao thông đường bộ, trường học,
2.Diễn trinh giao lưu văn hóa Đơng – Tây cổ - trung – cận –
hiện.
Từ cổ đại cho đến sơ kì, trung kì thời trung đại
Quan hệ Đơng- Tây được thực hiện qua các cuộc chiến tranh; qua
giao lưu kinh tế, văn hóa; qua hoạt động của các nhà thám hiểm.
qua các nhà truyền giao. Trong thời kì này “ con đường tơ lụa” giữ
vai trò quan trọng như một hành lang thơng thương về kinh tế và
giao lưu về văn hóa
Cho đên đầu thế kỉ XV, trong quan hệ Đông – Tây, phương Đơng
vẫn giữ vai trịn ưu thế và vẫn tỏa chiều ánh sáng văn mình sang
phương Tây vớ sự truyền bá nhiều thành tuuj từ Trung Quốc, Ấn Độ ,
Tây Á sang các nước Địa Trung Hải
-

Từ hậu kì Trung Đại cho đến tời Cận đại

Những cuộc phát kiến địa lý cuối thế kỉ XV- XVI
Từ đây “ con đường tơ lụa trên bển” nối liền Đông Á với Nam Á và
Tây Á phát triển thành con đường hang hải nối liên ba đại dương, mở
ra “ thời đại thương mại”- thời đại hình thành và phát triển thương
mại thế giới
Nhung cũng từ đây ưu thế kinh tế- xã hội nghiên hẵn về phương
Tây
Thế kỉ XVIII- XIX, phương Đông chậm tiến so với phương Tây và
hậu quả là trở thành đối tượng xâm lược và thông trị của các nược
thực dân phương Tây
Từ cuối thế kỉ XIX, công cuộc khai thác thuộc địa từng bước làm

thay đổi căn bản các xã hội châu Á
Người ta đã bắt đầu cuộc hình trình “hiện đại hóa “ bằng những
cuộc vận động cải cách chấn hung dân trí, dân khí


Bước vào thể kỉ XX, khi những yếu tố của chủ nghĩa từ bản đã lộ
rõ trong nhiều không gian xã hội phương Đông, du là thuộc địa hay
nửa thuộc địa, cũng tất yếu diễn ra sự chuyển đổi mô hình văn hóa,
thiết chế văn hóa cũng như sự xuất hiện các laoaij hình văn hóa mới
theo kiểu phương Tây
-

Thời hiện đại

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phương Đông thuộc địa đã thức
tỉnh, trở thành các quốc gia, dân tốc độc lập và bằng nhiều con
đường khác nhau xây dựng lại đất nước, từng bước tiến lên văn minh
hiện đại
Khoảng cách Đông – Tây dần trở thành thu hẹp cùng với sự khủng
hoảng của văn ming phương Tây trong thời đại kĩ trị, sự thoái trào
của “chủ nghĩa Châu Âu trung tâm” và xu hướng tồn cầu hóa của
thế giới hiện đại. Những di sản độc đáo của châu Á dần được đề cao.
Quan hệ Đông- Tây dần tiến tới chỗ tơn trọng lẫn nhau, hợp tác bình
đẳng
3.Thái độ của các nước phương đông đối với các nước
phương Tây
Một là thái độ đối đầu, cự tuyệt
Không phải đến khi người Pháp vào xâm lược, giao lưu giữa văn
hóa Việt Nam và văn hóa phương Tây mới điền ra. Bởi trong văn hóa
của cư dân Ốc Eo, người ta đã nhận thấy nhiều di vật của các cư dân

La Mã cổ đại : "2 huy chương hay tiến La Mã, một vật thời Antonies
(152 nằm sau công nguyên, 1 vật thời Marcus Anrelius 161-180 sau
công nguyên ... Những di vật đó nói lên rằng Ĩc Eo đã có những
quan hệ thương mại quốc tế rộng rãi, các linh mục phương Tây đã
vào truyền giáo ở vùng Hải Hậu (nay thuộc tỉnh Nam Định), và chúa
Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài cũng như các chúa Nguyễn ở Đàng Trong,
rối nhà Tây Sơn đều có quan hệ với phương Tây. Tuy nhiên, quan hệ
thực sự diễn ra vào nửa sau thể kỉ XIX, khi thực dân Pháp đánh
chiếm cửa Cần Giờ và đặt cách cai trị lên dân tộc Việt Nam. Đây là
thời kì biến động lớn về tư tưởng và chính trị, đồng thời văn hóa Việt
Nam cũng có sự thay đổi căn bản. Về phía người Pháp, đội quân đi
xâm lược và đơ hộ rất có ý thức dùng văn hóa như một cơng cụ cai
trị nên bị người dân Việt, phản ứng một cách quyết liệt. Có thế thấy
thái độ ấy của các nhà nho yêu nước ở Nam Bộ hồi cuối thế kỉ XIX
như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực v.v.
Tiêu biểu cho sự cự tuyệt tiếp thu văn hóa Pháp này chính là cụ đồ
Chiểu người có lịng u nước nồng nàn. Cụ đã kiên qut khơng
dùng một thứ gì liên quan đên Pháp như để khai thác thuộc địa


người Pháp đã xây dựng hệ thống đường xi măng. Nhưng cụ thà lội
xuống ruộng để đi chứ không đi đường do Pháp xây dựng. Hay cụ
thà dung tro để giặc quần áo chứ không dung các loại bột giặc hay
thuốc tẩy của Pháp sản xuất. Vì vậy, người Việt chống lại cả văn hóa
mà đội quân đi xâm lược định áp đặt cho họ.
Hai là thái độ không điều kiện tiếp nhận văn minh phương
tây
Sau các cuộc phát kiến địa lý, các cuộc cách mạng công nghiệp,
các cuộc cách mạng tư sản, một số nước châu Âu như Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Hà Lan nổi lên như các đế quốc siêu cường,

những kẻ chinh phục mạnh nhất và có ảnh hưởng lớn nhất. Ngay
sau khi xâm chiếm châu Phi, châu Á, người châu Âu đã dùng phường
thức truyền giáo, đồng thời sử dụng các tiến bộ kỹ thuật để chinh
phục các dân tộc ở châu Á, châu Phi. Đầu thế kỷ XIX, người Anh
chiếm quyền kiểm soát tiểu lục địa Ấn Độ, Ai Cập, Malaysia,
Australia, New Zealand và Nam Phi; người Pháp chiếm Đông Dương;
người Hà Lan chiếm Đông Ấn.
Sau khoảng một thế kỷ bị thôn tính, các nước thuộc địa tuy đã bị
khai thác kiệt quệ về tài nguyên và nhân lực nhưng lịch sử ghi nhận
rằng, hầu hết các nước này đã có sự thay đổi lớn về diện mạo kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Cuộc tiếp xúc văn minh phương Tây
thời kỳ cận đại đã làm thay đổi về chất nền văn hóa của nhiều nước.
Lúc này, các nước thuộc địa bị cưỡng chế tiếp xúc, giao lưu và tiếp
biến văn hóa với người phương Tây. Họ phải trực tiếp xử lý mối quan
hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh với các yếu tố ngoại sinh, kết quả
có thể diễn ra theo hai trạng thái: một là, yếu tố ngoại sinh lấn át
triệt tiêu yếu tố nội sinh và hai là, yếu tố ngoại sinh.
Điều này, đã dẫn đến hệ quả nhiều nước tại Châu Phí do có nền
văn hóa nội sinh yếu nên đã tiếp thu văn hóa Phương Tây một cách
không điều kiện. Điều này đã khiến cho văn hóa bản địa bị lu mờ đi.
Ngày nay ở nhiều quốc gia Châu Phi nói tiếng Anh, Pháp, Bồ Đào
Nha,… và họ khơng cịn nhớ ngơn ngữ bản địa của họ. Một hệ quả
khác là khi họ đã được độc lập nhưng họ lại muốn quay trở lại thời
thuộc địa. Bởi trong thời kỳ thuộc địa tuy họ bị các chủ đồn điền bóc
lột sức lao động nhưng đổi lại họ được lo ăn, ở. Nhưng khi đất nước
độc lập họ được tự do nhưng họ lại không biết làm việc gì để ni
song bản thân mình.
Ba là tiếp thu có chọn lọc hay nói đúng hơn là thái độ thâu
hóa văn minh Phương Tây, tạo ra giá trị mới. Đây chính là



thái độ văn hóa đúng đắn với các dân tộc phương Đơng và nó
đã trở thành một giải pháp tối ưu.
Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, văn hóa Việt đã tiếp xúc với
văn hóa Pháp và biến đổi mạnh mẽ theo chiều hướng Âu hóa cả về
vật chất, tinh thần. Trong thời kỳ này, Nho giáo được nhà Nguyễn
đưa lên địa vị độc tôn nhưng ngày một suy tàn, trở thành lực cản
phát triển và là một nguyên nhân khiến cho đất nước mất độc lập về
tay Pháp. Giai đoạn đầu thời Pháp thuộc, dân ta chống Âu hóa và cố
gắng Việt Nam hóa ảnh hưởng của phương Tây. Chúng ta đều biết,
thứ văn tự gọi là chữ Quốc ngữ mà ngày nay chúng ta vô cùng quý
trọng, vào cuối thế kỷ XIX đã từng được giới giáo sĩ và thực dân sử
dụng làm công cụ phục vụ mục tiêu truyền giáo và mưu đồ nô dịch.
Chính vì thế nên nó khơng thể nào phổ biến được trong nhân dân và
giới sĩ phu yêu nước, mặc dù thực dân Pháp rất tích cực thực hiện
chủ trương bãi bỏ chữ Hán và nền Hán học ở ba miền, thiết lập các
trường Pháp - Việt. Tình hình đó kéo dài suốt 40 năm kể từ khi tờ báo
có sử dụng chữ Quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định Báo ra đời năm
1865. Nhưng từ đầu thế kỷ XX, với phong trào Duy Tân - Đông Du
(1905 - 1908) và các trào lưu văn học, nghệ thuật sau đó, văn hóa
Việt Nam đã chủ động hội nhập với văn hóa phương Tây để hiện đại
hóa, tự cường, thốt ly khỏi vịng ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa.
Trong q trình giao lưu văn hóa với phương Tây, cư dân Việt đã tiếp
thu những yếu tố đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần để bổ
sung vào hành trang văn hóa, và những yếu tố ấy đều được Việt hóa
ở những mức độ khác nhau trong quá trình du nhập. Thứ nhất là chủ
Quốc ngữ, từ chỗ là loại chủ viết dùng trong nội bộ một tôn giáo
được dùng như chữ viết của một nền văn hóa. Thứ hai là sự xuất
hiện của các phương tiện văn hóa như nhà in, máy in ở Việt Nam
v.v... Thứ ba là sự xuất hiện của báo chỉ, nhà xuất bản. Thứ tư là sự

xuất hiện của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ mới như tiểu
thuyết, thơ mới, điện ảnh, kịch nói, hội họa v.v.... Có thể nói, “xác”
của chúng từ phương Tây lại, nhưng chúng đã được cải biến để dung
hợp với văn hóa truyền thống của Việt Nam và được sử dụng vì lợi
ích phát triển của Việt Nam, cho nên “hồn” của chúng là của Việt
Nam, và chúng được người Việt Nam vui lòng đón nhận. Kể từ chặng
đường này, văn hóa Việt và văn hóa Việt Nam đã chuyển sang quỹ
đạo hiện đại hóa, hội nhập với văn hóa phương Tây và thế giới.



×