BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
TIỂU LUẬN
VI PHẠM PHÁP LUẬT
MÔN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
GVHD: …
SVTH: Lê Đức Tính..............................12345678
Nguyễn Văn A..........................12345678
Nguyễn Thị B............................12345678
LỚP: 19PLDC09
TP. Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2022
MỤC LỤC
---oOo---
LỜI NĨI ĐẦU
Pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Vì pháp luật khơng
chỉ là công cụ để nhà nước quản lý xã hội; phương tiện để công dân thưc hiện bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cùa mình, mà cịn tạo mơi trường thuận lợi cho sự phát triển
của ý thức đạo đức, lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp những giá trị
mới.
Trong xã hội ta, pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân, đem lại hạnh phúc cho
nhân dân, nên các quy định của pháp luật được đông đảo nhân dân tôn trọng và tự giác
thực hiện nghiêm minh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn
còn nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật, xâm hại đến các lợi ích vật chất và tinh thần
của nhà nước, của xã hội và của nhân dân. Đó là một hiện tượng nguy hiểm, tác động
tiêu cực đến các mặt của đời sống xã hội. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề vi phạm
pháp luật, đặc biệt là cấu thành vi phạm pháp luật sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc góp
phần đề ra những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật
trong xã hội. Tuy nhiên, cấu thành vi phạm pháp luật là gì, bao gồm những mặt nào?
Ta sẽ phân tích một ví dụ trong thực tiễn để làm rõ vấn đề này. Do đó nhóm thực hiện
nghiên cứu đề tài “Vi phạm pháp luật” để làm rõ hơn về các vấn đề kể trên.
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật được hiểu là hành vi trái pháp luật, có lỗi và do chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện. Hậu quả của vi phạm pháp luật là xâm hại dến
các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện từ khi có pháp luật. Qua
các thời đại, nhận thức của con người về vi phạm pháp luật có sự khác nhau. Ngày
nay, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, nhận thức của con người về vi phạm
pháp luật cũng ngày càng toàn diện, đầy đủ và chính xác hơn. Theo đó, một hiện tượng
xã hội bị coi là vi phạm pháp luật khi có đủ các dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, vi phạm pháp luật luôn là hành vi xác định của các chủ thể pháp luật.
Bởi vì các quy định của pháp luật được Nhà nước đặt ra là để nhằm điều chỉnh hành vi
của các chủ thể pháp luật. Hành vi đó có thể là xử sự của con người được thể hiện dưới
dạng hành động hoặc không hành động.
Hành vi là xử sự của con người trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện
bằng lời nói, thao tác, cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng những thao tác, cử chỉ,
lời nói nào đó.
Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh hành vi con người nhằm xác lập và duy trì
trật tự xã hội. Bằng pháp luật, nhà nước và xã hội chính thức thể hiện quan điểm của
mình trong việc khuyến khích hay ngăn cấm một hành vi cụ thể nào đó. Do vậy, phải
có hành vi thực tế của chủ thể mới có cơ sở để xác định có vi phạm pháp luật hay
khơng. Vi phạm pháp luật không phải là suy nghĩ, ước mơ, giấc mơ của con người hay
những sự biến xảy ra nằm ngoài ý thức của con người... Vi phạm pháp luật phải là kết
quả của ý thức của con người, được thể hiện ra thế giới khách quan bằng hành vi thực
tế cụ thể.
Thứ hai, vi phạm pháp luật không những là hành vi xác định của con người mà
hành vi đó phải trái với các quy định của pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ. Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp với quy định
của pháp luật như không thực hiện những gì mà pháp luật yêu cầu hoặc sử dụng quyền
hạn vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép.
4
Các quy phạm pháp luật là khuôn mẫu cho cách xử sự của con người, thông qua
quy phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức trong xã hội biết mình được làm gì, khơng
được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào... Những hành vi ngược với cách xử sự
nêu ra trong quy phạm pháp luật bị coi là hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị
pháp luật cấm, hành vi vượt quá sự cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện
sự bắt buộc của pháp luật hay hành vi thực hiện không đứng cách thức mà pháp luật
yêu cầu. Sự quy định trước của pháp luật là cơ sở pháp lí để xác định tính trái pháp
luật trong một hành vi cụ thể. Một hành vi nào đó có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra
thiệt hại cho xã hội nhưng nếu chưa được pháp luật quy định thì khơng bị coi là vi
phạm pháp luật.
Những hành vi trái đạo đức xã hội, trái với quy định của các tổ chức trong xã hội,
trái phong tục tập quán... nhung không trái pháp luật không phải là vi phạm pháp luật.
Thứ ba, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng hành vi trái pháp luật
đó phải chứa đựng lỗi của chủ thể của hành vi. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật
phải xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, tức là xác định lỗi của học, biểu hiện trạng
thái tâm lý của người thực hiện hành vi đó. Trạng thái tâm lý có thể là cố ý hay vô ý.
Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác định hành vi vi phạm pháp luật và lỗi cũng
là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể của hành vi vi phạm pháp
luật.
Thứ tư, hành vi trái pháp luật đó do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện. Người
có năng lực hành vi là người có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi, việc làm
của mình và chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện.
Trong đời sống hàng ngày, lỗi được hiểu là điều sai sót, khơng nên, khơng phải
trong cách cư xử, trong hành động. Theo đó, lỗi được đồng nhất với hành vi, đó là
những hành vi sai sót, hành vi khơng nên có, khơng đáng có. Trong khoa học pháp lí,
lỗi là trạng thái tâm lí phản ánh thái độ tiêu cực của một người đối với hành vi trái
pháp luật của họ và hậu quả của hành vi đó. Như vậy, lỗi trong khoa học pháp lí khơng
phải là bản thân hành vi mà là thái độ của chủ thể đối với hành vi của chính mình và
hậu quả của hành vi ấy. Lỗi trong khoa học pháp lí chỉ được đặt ra khi chủ thể có hành
vi trái pháp luật.
5
Trạng thái tâm lí của chủ thể khi thực hiện một hành vi có thể là vui, buồn, lo
lắng, sợ hãi, tức giận, tích cực hoạt bát, thờ ơ lãnh đạm, nhận thức được hay không
nhận thức được, mong muốn, khơng mong muốn... Một người bị coi là có lỗi khi thực
hiện một hành vi trái pháp luật nếu đó là kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định và
thực hiện của chính chủ thể trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn, quyết định và thực
hiện một xử sự khác phù hợp với các quy định của pháp luật. Như vậy, không phải mọi
trường họp chủ thể có hành vi trái pháp luật cũng đều bị coi là có lỗi. Một hành vi mặc
dù trái pháp luật nhưng được thực hiện trong trường hợp chủ thể không có sự lựa chọn
nào khác (bất kì ai trong điều kiện đó cũng chỉ có thể có sự lựa chọn như thế) hoặc
trong trường hợp chủ thể bị mất tự do ý chí thì chủ thể khơng bị coi là có lỗi, do vậy
hành vi đó khơng bị coi là vi phạm pháp luật.
Tóm lại, các dấu hiệu trên đây là cơ sở nhận diện vi phạm pháp luật. Một hiện
tượng cụ thể xảy ra trong đời sống chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khi chứa đựng đầy
đủ các dấu hiệu nêu trên. Do vậy, có thể khẳng định, mọi vi phạm pháp luật đều là
hành vi trái pháp luật, nhưng không phải tất cả hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi
phạm pháp luật. Chỉ những hành vi trái pháp luật do người có năng lực trách nhiệm
pháp lí thực hiện trong trường hợp có lỗi mới bị coi là vi phạm pháp luật.
Một người được coi là có năng lực trách nhiệm pháp lí khi họ đạt đến độ tuổi do
pháp luật quy định, đồng thời có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
Đối với mỗi lĩnh vực khác nhau, pháp luật quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm
pháp lí khác nhau. Khả năng nhận thức ở đây được hiểu là, chủ thể nhận thức được
hành vi của mình là đúng hay sai theo chuẩn mực xã hội, hành vi đó được xã hội
khuyến khích, bắt buộc hay bị xã hội ngăn cấm... Khả năng điều khiển được hiểu là,
trên cơ sở của sự nhận thức, chủ thể có thể chủ động, tích cực, quyết tâm thực hiện
hành vi mà họ cho là phù hợp với đòi hỏi của xã hội; kiềm chế, không thực hiện hành
vi nếu cho rằng nó đi ngược lại lợi ích của xã hội... Thông thường, khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của con người phát triển dần dần cùng với sự trưởng thành về
tuổi tác của họ. Chính vì vậy, pháp luật của các nhà nước đều lấy dấu hiệu độ tuổi để
phản ánh khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của chủ thể. Bên cạnh đó, sự quy
định độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lí cịn phản ánh chính sách pháp luật của một nhà
nước cụ thể. Bởi lẽ, sự chênh lệch không lớn về độ tuổi không phản ánh rõ nét sự khác
6
biệt trong khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con người. Các nhà nước
khác nhau có thể có sự quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí một cách khác
nhau, điều đó thể hiện mức độ nhân đạo trong pháp luật của các nhà nước.
Ngược lại, trường hợp chủ thể thực hiện một hành vi có tính chất trái pháp luật
nhưng người này khơng nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó
gây ra cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi nhưng khơng
điều khiển được hành vi của mình thì khơng bị coi là có lỗi và khơng phải là vi phạm
pháp luật.
Trên thực tế, nhiều trường hợp mặc dù đã đạt đến độ tuổi luật định nhưng vì
những lí do khác nhau dẫn đến bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi nên cũng được coi là khơng có năng lực trách nhiệm pháp lí.
Thứ năm, vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ như: Quan hệ tài sản, quan hệ hơn nhân - gia đình…
Vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là những hành vi vi phạm các quy
định quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường do cá nhân, tổ chức thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý.
2. Dấu hiệu và cấu thành vi phạm pháp luật
2.1. Dấu hiệu vi phạm pháp luật
Dấu hiệu hành vi:
Vi phạm pháp luật phải là hành vi của con người, tức là xử sự thực tế, cụ thể của
cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật được ban hành để điều chỉnh hành vi
của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của họ. Mác đã từng nói: ngồi hành vi
của tơi ra, tơi khơng tồn tại đối với pháp luật, khơng phải là đối tượng của nó. Vì vậy,
phải căn cứ vào hành vi thực tế của các chủ thể mới có thể xác định được là họ thực
hiện pháp luật hay vi phạm pháp luật. Hành vi xác định này có thể được thực hiện
bằng hành động (ví dụ: Giết người, gây thương tích….) hoặc bằng khơng hành động
(ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế).
Dấu hiệu trái pháp luật:
Vi phạm pháp luật là hành vi trái với các quy phạm của pháp luật, xâm hại tới các
quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ
7
Một hành vi được coi là trái pháp luật khi nó khơng phù hợp với các quy định
của pháp luật, xâm hại tới quyền của công dân, tài sản của Nhà nước….Thông thường,
một người không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình nếu hành
vi đó chưa được pháp luật quy định. Sự quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để xác
định tính trái pháp luật trong một hành vi cụ thể. Hành vi của con người có thể được
các quy phạm xã hội khác nhau cùng điều chỉnh.
Dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý:
Hành vi trái pháp luật xác định do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện. Người
có năng lực hành vi là người có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi, việc làm
của mình và chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện.
Dấu hiệu lỗi:
Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng hành vi trái pháp luật đó phải
chứa đựng lỗi của chủ thể của hành vi. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật phải
xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, tức là xác định lỗi của học, biểu hiện trạng thái
tâm lý của người thực hiện hành vi đó. Trạng thái tâm lý có thể là cố ý hay vơ ý. Lỗi là
yếu tố không thể thiếu được để xác định hành vi vi phạm pháp luật và lỗi cũng là cơ sở
để xác định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật.
Như vậy, chỉ những hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là
vi phạm pháp luật. Cịn trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử sự có tính chất trái
pháp luật nhưng chủ thể khơng nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành
vi đó gây ra cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi của mình
nhưng khơng điều khiển được hành vi của mình thì khơng bị coi là có lỗi và khơng
phải là vi phạm pháp luật.
Dấu hiệu quan hệ xã hội bị xâm hại:
Vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quan hệ xã
hội được pháp luật bảo vệ, tức là làm biến dạng đi cách xử sự là nội dung của quan hệ
pháp luật đó.
2.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật
Cấu thành vi phạm pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng của một vi phạm pháp
luật cụ thể.
8
Vi phạm pháp luật bao gồm 4 yếu tố cấu thành là mặt khách quan, mặt chủ quan,
chủ thể và khách thể.
2.2.1. Chủ thể
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp
lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật. Mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ
thể riêng tùy thuộc vào mức độ xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Đối với chủ thể là cá nhân: Cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải có
đầy đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Trong đó:
Năng lực hành vi của cá nhân: Là khả năng của cá nhân tự nhận thức được hành
vi của mình, nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi do
mình thực hiện, nhận thức được trách nhiệm của mình đối với hành vi đó.
Năng lực hành vi của cá nhân trong từng quan hệ pháp luật khác nhau là khác
nhau.
Năng lực pháp luật của cá nhân: Là khả năng của chủ thể được có các quyền và
nghĩa vụ pháp lí theo quy định của pháp luật.
Năng lực pháp luật của cá nhân trong từng quan hệ pháp luật khác nhau là khác
nhau.
Ví dụ: Một người bị bệnh tâm thần khi thực hiện hành vi trái pháp luật khơng
được xem là vi phạm pháp luật vì người bị bệnh tâm thần khơng có năng lực hành vi
dân sự.
Để xác định chủ thể của hành vi trái pháp luật có được những khả năng đó hay
khơng, nhà nước đã căn cứ vào độ tuổi và khả năng lí trí của chủ thể vào thời điểm họ
thực hiện hành vi trái pháp luật để quy định vấn đề trên.
Ví dụ: Trong lĩnh vực hình sự, nhà nước ta quy định, cá nhân có năng lực trách
nhiệm hình sự là người từ đủ 14 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ là từ đủ
16 tuổi; khơng mắc bệnh tâm thần hoặc một loại bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi. Người đủ 14 tuổi là chủ thể của tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người đủ 16 tuổi là chủ thể của mọi tội phạm mà họ gây
ra.
9
Đối với chủ thể là tổ chức: Tổ chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phảicó
tư cách pháp nhân (là tổ chức do nhà nước thành lập hoặc được nhà nước thừa nhận
thành lập hoặc được nhà nước cho phép thành lập).
Năng lực pháp luật của pháp nhân do nhà nước quy định. Năng lực pháp luật của
pháp nhân trong từng quan hệ pháp luật khác nhau là khác nhau.
Chủ thể vi phạm pháp luật sẽ được xác định tương ứng với từng quan hệ pháp
luật và loại vi phạm pháp luật khác nhau. Việc xác định hành vi vi phạm pháp luật và
trách nhiệm pháp lí cũng khác nhau giữa chủ thể là cá nhân và chủ thể là tổ chức.
2.2.2. Khách thể
Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng
bị hành vi trái pháp luật xâm hại tới. Tính chất của khách thể vi phạm pháp luật cũng
là một yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm trong hành vi trái pháp luật. Là một trong
những căn cứ để phân loại hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ tài sản về quyền sở hữu tài
sản hợp pháp của công dân được nhà nước bảo vệ.
Khách thể là căn cứ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi
phạm pháp luật. Các vi phạm pháp luật khác nhau sẽ xâm hại đến các khách thể khác
nhau.
2.2.3. Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật gồm lỗi, động cơ, mục đích vi phạm pháp
luật:
Lỗi là một trạng thái tâm lý thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hậu quả
xấu trong hành vi của mình (nhìn thấy trước được hậu quả xấu trong hành vi của mình
mà vẫn thực hiện) và trong chính hành vi đó (hành vi chủ động, có ý thức….) tại thời
điểm chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật đó.
Lỗi được chia thành hai loại: cố ý và vô ý.
Lỗi cố ý gồm:
Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận
thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và
mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
10
Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp luật
nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi
đó, tuy khơng mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi vơ ý gờm:
Lỗi vơ ý do cẩu thả: là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội
nhưng do cẩu thả nên khơng thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó,
mặc dù có thể thấy trước và phải thấy trước hậu quả này.
Lỗi vô ý vì quá tự tin: là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả đó sẽ khơng xảy
ra hoặc cỏ thể ngăn ngừa được nên mới thực hiện và có thể gây ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội.
Động cơ là cái thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích là
kết quả cuối cùng mà chủ thể vi phạm pháp luật mong đạt tới khi thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật.
2.2.4. Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới
khách quan của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm hành vi trái pháp luật, sự thiệt hại cho
xã hội và quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội, thời
gian, địa điểm, công cụ vi phạm. Trước hết phải xác định xem vụ việc vừa xảy ra có
phải do hành vi của con người hay khơng, nếu phải thì hành vi đó có trái pháp luật
khơng, nếu trái pháp luật thì trái như thế nào. Sự thiệt hại cho xã hội là những tổn thất
về vật chất hoặc tinh thần do hành vi trái pháp luật gây ra.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội là việc
xác định xem hành vi trái pháp luật có phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự thiệt
hại cho xã hội hay không và sự thiệt hại cho xã hội có phải kết quả tất yếu của hành vi
trái pháp luật hay khơng, vì thực tế có trường hợp hành vi trái pháp luật không trực
tiếp gây ra sự thiệt hại cho xã hội, mà sự thiệt hại đó do nguyên nhân khác. Ngoài ra
con phải xác định: thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm nào. Địa điểm
vi phạm pháp luật là ở đâu. Phương tiện thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là gì.
Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội là xử sự nguy
hại cho xã hội của con người ra thế giới khách quan ở những mức độ khác nhau, được
11
ý thức của chủ thể kiểm sốt và ý chí của người đó điều khiển; được quy định trong
pháp luật. Những biểu hiện của hành vi trái pháp luật như:
Chủ thể làm một việc mà pháp luật cấm. Ví dụ: Tàng trữ và mua bán trái phép
chất ma tuý, giết người,…
Chủ thể sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép.Ví dụ: Giết
người do vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng, tham nhũng…+ Chủ thể khơng thực
hiện nghĩa vụ mà Nhà nước bắt buộc. Ví dụ: Trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, không đội
mũ bảo hiểm khi đi xe gắn máy,…
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là thiệt hại gây ra cho các quan hệ xã hội được
nhà nước xác lập và bảo vệ của vi phạm pháp luật (đây là dấu hiệu không bắt buộc
phải có trong mọi vi phạm pháp luật). Thiệt hại cho xã hội thểhiện dưới những hình
thức:
Thiệt hại về thế chất: sức khoẻ, tính mạng của con người.
Thiệt hại về tinh thần: danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người.
Thiệt hại về vật chất: tài sản bị tổn thất, hư hại.
Ví dụ: Hành vi vu khống cho người khác gây thiệt hại cho danh dự, nhân phẩm
của người bị hại; hành vi cố ý làm lây lan dịch bệnh gây thiệt hại cho sức khoẻ của
cộng đồng; hành vi trộm cắp tài sản làm tổn thất tài sản của người bị hại,…
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là giữa
chúng phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã chứa đựng mầm gây
ra hậu quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu quả nên nó phải xảy ra trước hậu quả
về mặt thời gian; còn hậu quả phải là kết quả tất yếu của chính hành vi đó mà khơng
phải là của một nguyên nhân khác.
Các yếu tố khác: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa
điểm, hoàn cảnh vi phạm pháp luật…
Thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm pháp luật.
Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm pháp luật.
Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành
vi trái pháp luật của mình.
Khi xem xét mặt khách quan của vi phạm pháp luật thì hành vi trái pháp luật luôn
luôn là yếu tố bắt buộc phải xác định trong cấu thành của mọi vi phạm pháp luật, còn
12
các yếu tố khác có bắt buộc phải xác định hay khơng là tuỳ từng trường hợp vi phạm.
Có trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định, có trường hợp địa
điểm vi phạm cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định.
Ví dụ: Luật Giao thơng đường bộ nghiêm cấm hành vi bấm cịi, rú ga liên tục
trong thời gian từ 22 giờ đến 5 giờ. Nếu như anh A thực hiện hành vi trên ngồi
khoảng thời gian được quy định trong luật thì anh A khơng vi phạm pháp luật. Do đó,
thời gian vi phạm là yếu tố bắt buộc trong trường hợp này.
Hành vi thể hiện bằng hành động hoặc không hành động:
Hành vi hành động: là hành vi biểu hiện ra bên ngoài, tác động trực tiếp lên đối
tượng của chủ thể vi phạm pháp luật.
Ví dụ: A dùng dao đâm B, vượt đèn đỏ,…
Hành vi không hành động: là hành vi khơng biểu hiện ra bên ngồi nhưng vẫn
gây ra hậu quả và có tính chất nguy hiểm cho xã hội.
Ví dụ: Cán bộ cơ quan nhà nước khơng giải quyết đơn từ, khiếu nại của người
dân; không tố giác tội phạm,…
3. Phân loại vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa vào các
tiêu chí phân loại khác nhau. Ví dụ, nếu căn cứ vào đối tượng và phương pháp điều
chỉnh của pháp luật thì có thể chia vi phạm pháp luật thành các loại tương ứng với các
ngành luật như vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật dân sự…
Dựa vào các tiêu chí phân loại thì vi phạm pháp luật có thể được phân theo nhiều
loại khác nhau. Hiện nay vi phạm pháp luật được phân thành các loại dưới đây:
3.1. Vi phạm hình sự (tội phạm)
Là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý…; xâm phạm chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng dân,
Ví dụ: Bn bán ma túy, hiếp dâm, giết người,…
3.2. Vi phạm hành chính
13
Là hành vi có lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm hành chính trái với các quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hoặc trái với quy
định của pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự, chỉ bị xử lý hành chính.
Ví dụ: Hành vi trốn thuế hay làm hư hỏng, thất thoát tài sản của nhà nước…
3.3. Vi phạm dân sự
Là hành vi trái pháp luật và có lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm dân sự
xâm hại tới các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân phi tài sản.
Ví dụ: Tranh chấp đất đai, nhà cửa, thừa kế,…
3.4. Vi phạm kỷ luật
Là hành vi có lỗi của chủ thể trái với các quy chế, quy định trong nội bộ cơ quan,
tổ chức, có nghĩa là khơng thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, công tác… trong
nội bộ cơ quan, tổ chức đó.
VD: Cán bộ, cơng viên chức làm sai thẩm quyền, không chấp hành đúng nội quy
cơ quan...
14
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA
Những năm gần đây, công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở nước ta đã được
Đảng và Nhà nước quan tâm chú trọng nhiều hơn. Những hoạt động của các cấp các
ngành trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã góp phần nâng cao ý thức pháp
luật của người dân, hầu hết người dân đã nắm rõ được tầm quan trong của pháp luật
trong đời sống từ đó mà nhìn nhận đúng và tự giác hơn trong việc chấp hành pháp luật
mà nhà nước đề ra.
Hiện nay trong các hoạt động của pháp luật, ý thức của người dân Việt Nam đã
nâng lên. Sự hiểu biết về pháp luật của nhân dân đã biểu hiện rõ nét, nhân dân ý thức
được trách nhiệm, quyền hạn của mình đối với nhà nước thơng qua pháp luật do đó họ
tích cực tham gia vào các hoạt động quản lí nhà nước, giám sát các hoạt động của cơ
quan nhà nước để thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình. Trong những năm qua,
người dân đã tích cực tham gia đóng góp các ý kiến cho các văn bản pháp luật, những
ý kiến đó được đánh giá cao và có tính thực tiễn. Có những ý kiến cũng đã được các cơ
quan có thẩm quyền ghi nhận để xem xét, nghiên cứu và bổ sung thêm. Như vậy, do
nhận thức đúng trách nhiệm của mình trong các vấn đề quan trọng của đất nước cho
nên người dân ngày càng quan tâm đến pháp luật; tự giác học hỏi và nghiên cứu nhằm
hoàn hiện nhận thức đúng đắn nhất đưa ra những quan điêm sáng suốt và có giá trị.
Người dân đã chủ động tố giác, cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng để triệt
phá những vụ án lớn. Sau đây là những vụ án trong đặc trưng tiêu biểu cho từng loại
hình vi phạm pháp luật:
1. Hành vi vi phạm hình sự
1.1. Tình huống
- Tình huống 1:
Ngày 11/7, Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Tĩnh phát hiện hơn 100 tấn chất thải
tại một trang trại ở phường Kỳ Trinh có nguồn gốc từ nhà máy của Công ty Gang thép
Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh. Trang trại nằm trong khu rừng tràm, rộng vài nghìn
mét vng, phía trong có bãi đất trống được đào hố rộng để tập kết loại chất thải màu
đen, có mùi hơi.
- Tình huống 2:
Nguyễn Đình T là sinh viên trường cao đẳng E, quận C, thành phố D. T không
chịu học hành mà suốt ngày chơi bời, ăn nhậu và nợ một số tiền khá lớn từ việc đánh
15
bạc. Đến hạn phải trả nợ, T khơng có tiền trả nên đã nảy sinh ý định đi vay người quen
để trả nợ. Biết được người họ hàng của mình là ông Nguyễn Quốc P kinh tế khá giả,
ngày 29/9/2014, T đã đến nhà ông P tại quận B, thành phố D. Khi đi, T thủ sẵn một
con dao mũi nhọn với mục đích nếu ơng P khơng cho vay tiền thì sẽ dùng dao đe doạ
để vay bằng được. Khi thấy ông P từ chối cho vay, T rút dao ra đe doạ. Ông P bỏ chạy
lên tầng 2, đến gần cửa ra vào ban cơng thì T đuổi kịp và vung dao đâm vào vai trái
ơng P. Ơng P quay lại chống đỡ thì bị T đâm nhiều nhát vào vai và tay phải. Thấy ông
P vẫnkêu cứu T liền đâm vào ngực ông P khiến ông P chết tại chỗ. Sau đó, T lục sốt
nhà ơng P lấy được 10 triệu đồng và bỏ đi.
- Tình huống 3:
Chị Thanh (40 tuổi, khơng chồng), có quan hệ với anh Lê Mạnh H (đã có vợ), và
sinh được một đứa con (cháu Minh). Sau khi chấm dứt quan hệ với anh H, chị luôn bị
một người tên Đỗ Thị Kim Duân (43 tuổi) vợ của H, gọi điện thoại chửi mắng.
Ngày 06/11/2009, Duân đến nhà chị Thanh (Đông Anh, Hà Nội). Tại đây, Duân
xin được bế đứa trẻ, chị Thanh đồng ý. Lấy cớ nghe điện thoại, Duân bế cháu xuống
bếp và dùng chiếc kim khâu lốp dài 7cm mang theo đâm vào đỉnh thóp đầu cháu. Sợ bị
phát hiện, Duân lấy mũ đậy vết đâm lại, nhưng máu chảy quá nhiều, cháu khóc thét lên
nên bị mọi người phát hiện. Sau khi đưa đi cấp cứu, cháu Minh (40 ngày tuổi) qua đời.
Duân (sinh năm 1974, Đông Anh, Hà Nội) khơng có bệnh về thần kinh, chưa có
tiền án, là một người làm ruộng.
1.2. Cấu thành vi phạm pháp luật
- Tình huống 1:
Về mặt khách quan:
Hành vi: việc làm của Formosa Hà Tĩnh là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm
trọng gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định tại Bộ luật hình sự.
Hậu quả: gây ơ nhiễm mơi trường một cách trầm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe
của những người xung quanh.
Thời gian: diễn ra vào khoảng trước 11/7/2016
Địa điểm: một trang trại ở phường Kỳ Trinh
Mặt chủ quan:
16
Lỗi: hành vi của Formosa Hà Tĩnh là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi Formosa Hà Tĩnh là
tổ chức có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý, biết rõ việc mình làm là trái pháp luật gây
hậu quả nghiêm trọng, nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra. Hành vi vi phạm đã
được tính tốn trước.
Động cơ và mục đích: Formosa Hà Tĩnh thực hiện hành vi này là do mục đích cá
nhân, trục lợi bất chính.
Mặt khách thể:
Hành vi của Formosa Hà Tĩnh là một vi phạm pháp luật nghiệm trọng, ảnh
hưởng đến môi trường không những ở hiện tại mà cịn có thể cả sau này.
Chủ thể vi phạm:
Chủ thể của vi phạm pháp luật là Công ty Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà
Tĩnh là một doanh nghiệp có đủ khả năng nhận thức và điểu khiển hành vi của mình.
Như vậy, xét về các mặt cấu thành nên vi phạm pháp luật có thể kết luận đây là
một hành vi vi phạm pháp luật hình sự nghiêm trọng. Cần được xử lý nghiêm minh
theo quy định của pháp luật.
Theo điều 182a Bộ luật hình sự, người nào vi phạm quy định về quản lý chất thải
nguy hại gây ô nhiễm môi trường nghiệm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác
thì phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến hai
năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Trường hợp phạm tội có tổ chức, gây hậu quả rất nghiêm trọng, tái phạm guy
hiểm thì bị phạt tù từ hai đến 7 năm. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ 5 năm đến 10 năm. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đến
100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
từ 1 năm đến 5 năm.
- Tình huống 2:
Chủ thể vi phạm pháp luật: Nguyễn Đình T, sinh viên trường cao đẳng E, có đầy
đủ năng nực hành vi và năng lực pháp luật đã thực hiện hành vi dùng vũ lực đe doạ và
lấy đi 10 triệu đồng của ông Nguyễn Quốc P.
Khách thể vi phạm pháp luật: quan hệ tài sản về quyền sở hữu tài sản hợp pháp
của công dân được pháp luật bảo vệ.
17
Mặt khách thể của vi phạm pháp luật: Hành vi dùng vũ lực đe doạ lấy đi 10 triệu
đồng của T là hành vi thể hiện bằng hành động và là hành vi trái pháp luật.
Hậu quả nguy hại đến xã hội: Ông P chết và bị thiệt hại 10 triệu đồng.
Phương tiện vi phạm: dao mũi nhọn.
Cách thức vi phạm: dùng dao đe doạ và đâm nhiều nhát vào người vai, tay, ngực
ông P.
Địa điểm vi phạm: nhà ông Nguyễn Quốc P tại quận B, thành phố D.
Thời gian vi phạm: ngày 29/9/2014.
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: Hành vi của T được thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp: T đã thủ sẵn con dao trong người để đe doạ ông P, khi ông P bỏ chạy lên tầng
2 thì T vẫn đuổi theo và đâm ơng P nhiều nhát, sau đó lục sốt nhà ơng P để lấy tiền.
Động cơ vi phạm: cướp tài sản của ơng P.
Mục đích vi phạm: có tiền trả nợ.
- Tình huống 3:
Về mặt khách quan:
Hành vi: việc làm của Duân (dùng kim khâu lốp đâm xuyên đầu đứa trẻ sơ sinh
40 ngày tuổi) là hành vi dã man, lấy đi tính mạng đứa trẻ, gây nguy hiểm cho xã hội
được quy định tại Bộ luật hình sự.
Hậu quả: gây nên cái chết của cháu Minh, gây tổn thương tinh thần gia đình đứa
trẻ và bất bình trong xã hội. Thiệt hại được gây ra trực tiếp bởi hành vi trái pháp luật.
Thời gian: diễn ra vào sáng ngày 06/11/2009.
Địa điểm: tại nhà bếp của chị Thanh.
Hung khí: là một chiếc kim khâu lốp dài 7cm đã được chuẩn bị từ trước.
Mặt chủ quan:
Lỗi: hành vi của Duân là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi Duân là người có đủ năng lực
trách nhiệm pháp lý, biết rõ việc mình làm là trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng,
nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra. Duân có mang theo hung khí và có thủ đoạn
tinh vi (lấy cớ nghe điện thoại, che đậy vết thương của bé Minh).
Động cơ: Duân thực hiện hành vi này là do ghen tuông với mẹ đứa trẻ.
Mục đích: Duân muốn giết chết đứa trẻ để trả thù mẹ đứa trẻ.
Mặt khách thể:
18
Hành vi của Duân đã xâm phạm tới quyền được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của công dân, vi phạm đến quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Chủ thể vi phạm:
Chủ thể của vi phạm pháp luật là Đỗ Thị Kim Duân (43 tuổi) là một cơng dân có
đủ khả năng nhận thức và điểu khiển hành vi của mình.
Như vậy, xét về các mặt cấu thành nên vi phạm pháp luật có thể kết luận đây là
một hành vi vi phạm pháp luật hình sự nghiêm trọng. Cần được xử lý nghiêm minh
theo quy định của pháp luật.
2. Hành vi vi phạm hành chính
2.1. Tình huống
- Tình huống 1:
Tối 20/11/2015, Hùng có ăn liên hoan với thầy cô và các bạn trong lớp. Trong lúc
vui chơi Hùng có sử dụng rựu bia với các bạn, sau khi vui chơi các bạn có rủ Hùng
tham gia đua xe tại trên đường Phan Văn Trị và cũng tại thời điểm diễn ra cuộc đua xe
Hùng cùng đám bạn đã bị đội tuần tra công an giao thơng bắt giữ 2.
- Tình huống 2:
Tháng 9/2008, Bộ tài nguyên môi trường đã phát hiện ra vụ việc sai phạm của
công ty Bột ngọt Vedan (Công ty TNHH Vedan Việt Nam).
Theo đó thì cơng ty Vedan đã hằng ngày sả nước thải bẩn (chưa qua xử lý) trực
tiếp ra sông Thị Vải (Đồng Nai) suốt 14 năm qua kể từ khi đi vào hoạt động (1994):
khoảng 45000m3/1tháng. Hành động này gây ơ nhiễm nặng cho dịng sơng Thị Vải,
gây chết các sinh vật sống ở sông này và ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe người
dân ven sơng…
2.2. Cấu thành vi phạm pháp luật:
- Tình huống 1:
Mặt khách quan:
Hành vi nguy hiểm: là hành vi nguy hiểm cho xã hội và có thể gây hại đến tính
mạng của chính bản thân và những người cùng tham gia giao thơng.
Hậu quả: có thể gây ra tại nạn giao thơng ảnh hưởng đến tính mạng.
Thời gian: Tối 20/11/2015.
Địa điểm: đường Phan Văn Trị
19
Phương tiện: xe gắn máy.
Mặt chủ quan:
Lỗi: là lỗi cố ý gián tiếp. Vì, Hùng khi thực hiện hành vi này thì nhận thấy trước
hậu quả, tuy khơng mong muốn nhưng vẫn để hậu quả xảy ra.
Mục đích: thõa mãn nhu cầu cá nhân.
Mặt khách thể: Hùng đã vi phạm luật giao thông đường bộ đã được quy định.
Mặt chủ thể vi phạm: Hùng là một công dân đủ năng lực hành vi có đủ khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
- Tình huống 2:
Mặt khách quan:
Hành vi nguy hiểm: sả nước thải bẩn chưa qua xử lý ra sông Thi Vải:
45000m3/1tháng. Đây là hành vi trái pháp luật hành chính.
Hậu quả: dịng sơng bị ơ nhiễm nặng, phá hủy môi trường sống và làm thủy sản
chết hàng loạt, gây thiệt hại cho các hộ nuôi thủy sản và ảnh hưởng trầm trọng đến sức
khỏe người dân sống ven sơng. Những thiệt hại đó do hành vi trái pháp luật của công
ty Vedan gây ra trực tiếp và gián tiếp
Thời gian: 14 năm (từ năm 1994-2008).
Địa điểm: sông Thị Vải (thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tp.Hồ
Chí Minh).
Phương tiện: sử dụng hệ thống ống sả ngầm.
Mặt chủ quan:
Lỗi: là lỗi cố ý gián tiếp. Vì, Cơng ty Vedan khi thực hiện hành vi này thì nhận
thấy trước hậu quả, tuy khơng mong muốn nhưng vẫn để hậu quả xảy ra.
Mục đích: nhằm giảm bớt chi phí xử lý nước thải. Theo quy định thì công ty
Vedan phải đầu tư khoảng 1 chục triệu để xử lý 1m3 dịch thải đậm đặc. Đáng ra phải
chi từ 15%-20% vốn đầu tư cho việc xử lý nước thải thì Cơng ty Vedan chỉ dành 1,5%
vốn cho việc đó.
Mặt khách thể:
Việc làm của cơng ty Vedan đã xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà nước: vi
phạm trật tự quản lý nhà nước, làm tổn hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ.
20
Mặt chủ thể vi phạm:
Công ty Vedan (thuộc Công ty TNHH Vedan Việt Nam) là một công ty thực
phẩm với 100% vốn đầu tư Đài Loan.
Được xây dựng từ năm 1991.
Có giấy phép hoạt động từ năm 1994.
Dẫn đến, là một tổ chức có đầy đủ trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi trái
pháp luật này.
3. Hành vi vi phạm dân sự
3.1. Tình huống
- Tình huống 1:
Nguyễn Đình Cường (25 tuổi, Bến Tre), là sinh viên năm 2 trường ĐH Lạc
Hồng.
Năm 2010, quan Internet, Cường quen với anh Huy (Việt Kiều Úc).
Năm 2013, anh Huy về thăm quê và trú tại huyện Chợ Lách, Bến Tre. Đúng lúc
này, Cường khơng có tiền đóng học phí, nhiều lần nhà trường nhắc nhở.
Ngày 01/02/2013, Cường đến nhà anh Huy chơi và ở lại đêm. 02/02/2013, lợi
dụng lúc anh Huy đi vắng, tủ khơng khóa, Cường đã lấy đi 1 chiếc lắc 2 lượng vàng
18K.
Sau khi bán được hơn 22 triệu đồng, Cường mua một chiếc xe máy và gởi tiền
cho mẹ trả nợ, cho bà nội.
- Tình huống 2:
Nguyễn T Cường (25 tuổi, Bến Tre), là sinh viên năm 2 trường ĐH Tây Đô. Năm
2006, quan Internet, Cường quen với anh Huy (Việt Kiều Úc).
Năm 2009, anh Huy về thăm quê và trú tại huyện Chợ Lách, Bến Tre. Đúng lúc
này, Cường khơng có tiền đóng học phí, nhiều lần nhà trường nhắc nhở.
-1/2/2009, Cường đến nhà anh Huy chơi và ở lại đêm. 2/2/2009, lợi dụng lúc anh
Huy đi vắng, tủ khơng khóa, Cường đã lấy đi 1 chiếc lắc 2 lượng vàng 18K.
Sau khi bán được hơn 22 triệu đồng, Cường mua một chiếc xe máy và gởi tiền
cho mẹ trả nợ, cho bà nội.
3.2. Cấu thành vi phạm pháp luật
- Tình huống 1:
Mặt khách quan:
21
Hành vi: việc làm của anh Cường (lấy cắp 2 lượng vàng 18K, bán lấy tiền để sử
dụng theo mục đích riêng) là hành vi vi phạm pháp luật dân sự được quy định tại Bộ
luật dân sự.
Hậu quả: gây thiệt hại về mặt vật chất đối với anh Huy.
Thời gian: nhà anh Huy (huyện Chợ Lách, Bến Tre).
Thủ đoạn: lợi dụng lúc anh Huy vắng nhà và tủ không khóa.
Mặt chủ quan:
Lỗi: là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi vì Cường nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại do mình
gây ra, nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Động cơ: khơng có tiền nộp học phí, nhận thấy anh Huy là người giàu có nên
Cường đã nổi lịng tham.
Mục đích: trả tiền học phí, giúp mẹ trả nợ và sử dụng vào mục đích cá nhân (mua
xe máy).
Mặt khách thể: Anh Cường đã xâm phạm đến quan hệ tài sản được pháp luật bảo
vệ.
Mặt chủ thể:
Anh Cường (25 tuổi, sinh viên, không mắc phải bệnh về thần kinh) là người có
đủ năng lực trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi phạm pháp.
- Tình huống 2:
Mặt khách quan:
Hành vi: việc làm của anh Cường (lấy cắp 2 lượng vàng 18K, bán lấy tiền để sử
dụng theo mục đích riêng) là hành vi vi phạm pháp luật dân sự được quy định tại Bộ
luật dân sự. Hậu quả: gây thiệt hại về mặt vật chất đối với anh Huy.
Thời gian: nhà anh Huy (huyện Chợ Lách, Bến Tre).
Thủ đoạn: lợi dụng lúc anh Huy vắng nhà và tủ khơng khóa.
Mặt chủ quan:
Lỗi: là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi vì Cường nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại do mình
gây ra, nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Động cơ: khơng có tiền nộp học phí, nhận thấy anh Huy là người giàu có nên
Cường đã nổi lòng tham.
22
Mục đích:trả tiền học phí, giúp mẹ trả nợ và sử dụng vào mục đích cá nhân (mua
xe máy).
Mặt khách thể:
Anh Cường đã xâm phạm đến quan hệ tài sản được pháp luật bảo vệ.
Mặt chủ thể:
Anh Cường (25 tuổi, sinh viên, không mắc phải bệnh về thần kinh) là người có
đủ năng lực trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi phạm pháp.
4. Hành vi vi phạm kỷ luật
4.1. Tình huống
- Tình huống 1:
Lê Văn An (sinh viên năm 2, trường Đại học Bình Dương, tỉnh Bình Dương)
nhiều lần bỏ học, quay cóp trong giờ kiểm tra nên bị giáo viên nhắc nhở nhiều lần. An
hiện trú ở ký túc xá trường, lại còn thường xuyên uống rượu bia.
Anh đã liên tục vi phạm từ cuối năm 2011 đến tháng 6/2012 và vượt quá giới hạn
chấp nhận của nhà trường.
- Tình huống 2:
Lê Văn An (sinh viên năm 2, trường Đại học X, Cần Thơ) nhiều lần bỏ học, quay
cóp trong giờ kiểm tra nên bị giáo viên nhắc nhở nhiều lần. An hiện trú ở ký túc xá
trường, lại còn thường xuyên uống rượu bia.
Anh đã liên tục vi phạm từ cuối năm 2006 đến tháng 6/2007 và vượt quá giới hạn
chấp nhận của nhà trường.
4.2. Cấu thành vi phạm pháp luật
- Tình huống 1:
Mặt khách quan:
Hành vi: việc làm của An (nhiều lần bỏ học, quay cóp, uống rượu bia) là hành vi
vi phạm kỷ luật nhà trường, ký túc xá.
Hậu quả: gây ảnh hưởng xấu đến các sinh viên khác, cũng như tương lại của An
và xâm phạm đến quy tắc quản lý của nhà trường.
Thời gian: từ cuối năm 2011 đến tháng 6/2012.
Địa điểm: trường ĐH Bình Dương, tỉnh Bình Dương, khu ký túc xá nhà trường.
Mặt chủ quan:
23
Lỗi: là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi vì, An đã nhìn thấy trước hậu quả xã hội do hành vi
của mình gây ra, nhưng vẫn mong muốn hành vi ấy xảy ra.
Ngun nhân: tính vơ kỷ luật và sự xem thường kỷ luật nhà trường của An, thiếu
tinh thần học tập và sự cầu tiến đáng có của một sinh viên.
Mặt khách thể:
Lê Văn An đã vi phạm, và xem thường quy tắc quản lý của nhà trường, ký túc xá.
Đó là các quy tắc mà An buộc phải thực hiện khi theo học tại trường và lưu trú tại ký
túc xá.
Mặt chủ thể:
Lê Văn An (sinh viên năm 2 trường ĐH Bình Dương, tỉnh Bình Dương) là người
có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi vi phạm này.
- Tình huống 2:
Mặt khách quan:
Hành vi: việc làm của An (nhiều lần bỏ học, quay cóp, uống rượu bia) là hành vi
vi phạm kỷ luật nhà trường, ký túc xá.
Hậu quả: gây ảnh hưởng xấu đến các sinh viên khác, cũng như tương lại của An
và xâm phạm đến quy tắc quản lý của nhà trường.
Thời gian: từ cuối năm 2006 đến tháng 6/2007.
Địa điểm: trường ĐH X, Cần Thơ, khu ký túc xá nhà trường.
Mặt chủ quan:
Lỗi: là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi vì, An đã nhìn thấy trước hậu quả xã hội do hành vi
của mình gây ra, nhưng vẫn mong muốn hành vi ấy xảy ra.
Ngun nhân: tính vơ kỷ luật và sự xem thường kỷ luật nhà trường của An, thiếu
tinh thần học tập và sự cầu tiến đáng có của một sinh viên.
Mặt khách thể:
Lê Văn An đã vi phạm, và xem thường quy tắc quản lý của nhà trường, ký túc xá.
Đó là các quy tắc mà An buộc phải thực hiện khi theo học tại trường và lưu trú tại ký
túc xá.
Mặt chủ thể:
Lê Văn An (sinh viên năm 2 trường ĐH X, Cần Thơ) là người có đủ năng lực
trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi vi phạm này.
24
KẾT LUẬN
Vi phạm pháp luật luôn là một đề tài rộng lớn đối với mỗi người. Việc nghiên
cứu cấu thành vi phạm pháp luật có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong quá trình xét xử,
phán xét các vi phạm pháp luật xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Ta cần xác định
đúng đắn và chính xác các mặt cấu thành vi phạm pháp luật, để từ đó đề ra những biện
pháp chế tài phù hợp với chủ thể vi phạm pháp luật.
Từ việc phân tích những vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và các yếu tố cấu
thành vi phạm pháp luật thơng qua ví dụ cụ thể trên, có thể thấy rằng khơng phải bất kì
hành vi trái pháp luật nào cũng bị xem là hành vi vi phạm pháp luật. Một hành vi được
xem là vi phạm pháp luật khi và chỉ khi hành vi đó đảm bảo đầy đủ các yếu tố cấu
thành của vi phạm pháp luật và các yếu tố khác theo quy định của pháp luật. Trong quá
trình điều tra các vụ án, các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền áp dụng luật
cần phân tích chính xác tránh trường hợp bỏ sót tội phạm hoặc xử phạt sai, áp dụng
chế tài sai đối với người vô tội.
25