Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận môn xây dựng đảng ,đổi mới CHỈNH đốn ĐẢNG, NÂNG CAO NĂNG lực LÃNH đạo và sức CHIẾN đấu của ĐẢNG TRONG điều KIỆN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.36 KB, 31 trang )

1

MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, và cùng với
đó Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
cơng tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, cơng tác xây dựng Đảng vẫn cịn khơng
ít hạn chế, yếu kém, đặc biệt là sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng quan liêu,
tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng. Để tiến hành đổi mới và chỉnh đốn đạt kết quả tốt,
nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, cần luôn luôn
dựa chắc vào tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ
những quan điểm và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, thể hiện
trongCương lĩnh và Điều lệ Đảng… Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay, Đảng ta đã chọn ba vấn đề để tập trung chỉ đạo là: Ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp trung ương, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;
xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền và mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Cùng với đó, Nghị
quyết cũng đưa ra bốn nhóm giải pháp nhằm tạo được sự chuyển biến rõ rệt,
khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng. Đổi
mới, chỉnh đốn Đảng trước hết phải quán triệt thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XI.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng nước ta. Trước những yêu cầu của tình hình và



2

nhiệm vụ mới, công tác xây dựng Đảng đang nổi lên như một nhiệm vụ đặc
biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với tồn bộ sự nghiệp
cách mạng nước ta và có ý nghĩa sống còn đối với Đảng. Đảng ta đã nhiều lần
nhấn mạnh: lúc này xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt. Các cấp ủy đảng từ trung ương đến cơ sở đang dành nhiều công sức cho
công tác quan trọng này: một mặt, triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng về xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng; mặt khác, tiến hành tổng kết
các mặt chủ yếu của công tác xây dựng Đảng để tiếp tục bổ sung, phát triển
các quan điểm lý luận về xây dựng Đảng.
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐNG ĐẢNG, NÂNG
CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG

1.1. Khái niệm
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam rất
coi trọng cơng tác xây dựng Đảng nói chung và nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn
Đảng nói riêng. Việc thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh của Đảng và
sự tồn vong của chế độ. Muốn nâng cao sức mạnh và uy tín chính trị của Đảng
khơng có con đường nào khác ngoài việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Do đó, việc làm trước hết là phải tường
minh khái niệm đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng.
Đổi mới Đảng là quá trình thay đổi Đảng theo hướng phát huy, nâng
cao những nhân tố phát triển hợp quy luật; tiếp nhận, bổ sung những nhân tố
mới, tiến bộ, loại bỏ những nhân tố lỗi thời, lạc hậu; sửa chữa những lệch lạc
Chỉnh đốn Đảng là quá trình điều chỉnh tổ chức, bộ máy, nhân sự, mục
tiêu, nhiệm vụ của tổ chức đảng cho phù hợp với thực tiễn; loại bỏ những yếu
tố khơng cịn tác dụng cho sự tồn tại, phát triển của tổ chức …



3

Đổi mới, chỉnh đốn Đảng là quá trình điều chỉnh, thay đổi, loại bỏ
những cái lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp, phát huy, tiếp nhận, nâng cao
những cái mới, tiến bộ, làm cho Đảng phát triển theo hướng hợp quy luật,
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ lãnh đạo trong thời kỳ mới.
Năng lực lãnh đạo của Đảng khả năng đề ra được mục tiêu cách mạng
đúng đắn, cơ bản, lâu dàu, cũng như trong từng thời kỳ và bằng những
phương thức, phương pháp đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện có
hiệu quả. Năng lực lãnh đạo của Đảng là biểu hiện khả năng lãnh đạo trên
thực tế của Đảng, bao gồm: năng lực đề ra chủ trương, đường lối sát đúng,
phù hợp với yêu cầu địi hỏi của tình hình và đáp ứng được nguyện vọng của
nhân dân; năng lực tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, đạt được những
thành tựu to lớn; năng lực kiểm tra, giám sát phát hiện và xử lý kịp thời các
vấn đề mới nảy sinh.
Sức chiến đấu của Đảng là sức mạnh của chính bản Đảng để chiến đấu
vượt qua những trở lực, chơng gai. Đó là những rào cản, trở lực phát sinh từ
các thế lực thù địch với lý tưởng và sự nghiệp của Đảng, của nhân dân và của
dân tộc; từ những tiêu cực trong xã hội, trong nội bộ nhân dân, thậm chí trong
nội bộ Đảng và cả những khó khăn khách quan của đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Đó là hai mặt thống nhất biện chứng với nhau, chúng tác động qua
lại và hỗ trợ nhau trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, đảm bảo cho Đảng
ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, vững bước tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là những vấn đề cơ
bản nhất, quan trọng nhất và quyết định nhất đối với hoạt động lãnh đạo của

Đảng nhằm hoàn thành mục tiêu cách mạng.


4

Trong một số văn kiện Đảng có sử dụng thuật ngữ tự đổi mới, tự chỉnh
đốn Đảng để nhấn mạnh tính chủ thể của nhiệm vụ này, chính bản thân Đảng
tự mình thực hiện sự đổi mới phát huy những ưu điểm, yếu tố tích cực, tự loại
bỏ, tự khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, yếu tố tiêu cực, làm cho Đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Mục đích của việc đổi mới Đảng cốt nhằm xây dựng Đảng thêm trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa đổi mới, chỉnh đốn Đảng với mục đích nâng cao
được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng lên ngang tầm địi hỏi của
cơng cuộc đổi mới. Trong giai đoạn hiện nay, công tác xây dựng Đảng bên
cạnh những thành tựu đạt được còn tồn tại nhiều hạn chế, khuyết điểm, yếu
kém. Tình hình đó địi hỏi phải chỉnh đốn Đảng và coi đây là một trong những
nội dung cơ bản của xây dựng Đảng. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng chính là
quy luật xây dựng tồn tại và phát triển của Đảng.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng tồn diện trên các mặt: chính trị, tư tưởng và
tổ chức.
1.2. Nguyên tắc của đổi mới, chỉnh đốn Đảng
Một là, quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì
đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bất kỳ tình huống
nào cũng khơng dao động, xa rời mục tiêu đó.
Ngay từ đầu q trình đổi mới đất nước, Đảng đã đề ra năm nguyên tắc
đổi mới. Nhờ kiên định những nguyên tắc này mà Đảng lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới đạt được những thành tựu quan trọng, đưa đất nước lên một tầm cao
mới, khẳng định vị thế nước ta trên trường quốc tế. Một trong những nguyên

tắc quan trọng trong lãnh đạo đổi mới do Đảng ta đề ra là kiên định nền tảng
tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải


5

quán triệt sâu sắc, kiên quyết giữ vững những vấn đề có tính ngun tắc đó.
Bên cạnh đó cần phải vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn góp phần phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lý luận về xây dựng
Đảng. Các cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ lý luận
phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là nắm
vững bản chất cách mạng và khoa học, nắm vững phương pháp luận, tinh thần
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng và xây
dựng đảng. Trên cơ sở đó phải biết vận dụng sáng tạo vào việc tổ chức thực
hiện đường lối của Đảng. Từ thực tiễn cách mạng và thực tiễn xây dựng
Đảng, cần tổng kết, bổ sung và phát triển học thuyết Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về đảng, giải quyết tốt các vấn đề do thực tiễn đổi mới và chỉnh
đốn Đảng đặt ra. Bên cạnh đó phải đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng, đập tan mọi thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc,
phủ nhận, hạ thấp các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đảng, đấu tranh với những tư tưởng lạc hậu, sai trái và những việc
làm bảo thủ, giáo điều khi vận dụng lý luận vào thực tiễn.
Hai là, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê
bình và phê bình, giữ gìn sự đồn kết thống nhất của Đảng
Trong q trình đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải giữ vững các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng. Trước hết, cần hiểu đúng các nguyên
tắc đồng thời phải quán triệt, vận dụng đúng đắn các nguyên tắc trên. Bên
cạnh đó, cần có những quy định cụ thể về điều kiện thực hiện nguyên tắc.
Ba là, gắn đổi mới, chỉnh đốn Đảng với kiện toàn tổ chức, nâng cao

chất lượng hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội.
Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị đồng thời là hạt nhân lãnh
đạo hệ thống chính trị. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải gắn chặt với kiện toàn
tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các


6

đồn thể chính trị - xã hội bởi lẽ sức mạnh của Đảng gắn liền với sức mạnh
của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Hay nói cách khác thước đo hiệu quả
đổi mới, chỉnh đốn Đảng thể hiện ở sự tăng lên sức mạnh của các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị.
Bốn là, mạnh dạn, quyết tâm đổi mới, từ thí điểm đến thực hiện trên
diện rộng và coi trọng sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm
Đổi mới, chỉnh đốn Đản là việc làm hết sức cần thiết nhưng đây là
công việc hệ trọng, chứa đựng những khó khăn, thách thức. Do đó, tồn Đảng
phải có quyết tâm cao, phải thẳng thắn đánh giá đúng những hạn chế, khuyết
điểm của chính bản thân tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Trên cơ sở đó,
xác định đúng nguyên nhân, tìm cách tháo gỡ và kiên quyết khắc phục những
khuyết điểm, yếu kém. Đối với những chủ trương lớn cần tiến hành thí điểm,
vừa làm vừa rút kinh nghiệm, hồn thiện dần cơ chế, quy chế, mơ hình trước
khi nhân rộng, làm đại trà.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng gắn liền với đổi mới các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trước hết với quá trình thực hiện và hồn thiện các chính sách và
cơ chế quản lý, với kiện tồn hệ thống chính trị, với phong trào hành động
cách mạng của quần chúng, khơi dậy và phát huy óc sáng tạo của quần chúng
với bước đi và phương pháp thích hợp.
1.3. Tính tất yếu của đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Một là, xuất phát từ vị trí, vai trị của Đảng ta và tình hình Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, đảng độc quyền
lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị và các lĩnh vực đời sống xã hội.
Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền vừa có những thuận lợi, thời cơ to lớn
vừa có những khó khăn, thách thức đáng lo ngại.
Một đảng duy nhất cầm quyền bảo đảm cho xã hội ổn định về chính trị,
thực hiện sự thống nhất và phân công về quyền lực nhà nước. Đảng quyết


7

định mục tiêu, phương hướng xây dựng và bảo vệ đất nước trên cơ sở ý kiến
của đảng viên và của tồn dân mà khơng phải điều hịa, nhân nhượng, đấu
tranh với các tổ chức đảng đối lập. Đường lối của Đảng được các cơ quan nhà
nước thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện theo một định hướng do
Đảng vạch ra.
Bên cạnh đó, một đảng cầm quyền phải đối diện với hàng loạt khó
khăn như: Đảng chủ quan, duy ý chí, quan liêu trong hoạch định đường lối,
chủ trương dẫn đến nguy cơ Đảng chệch hướng xã hội chủ nghĩa, thậm chí sai
lầm về đường lối; Đảng có xu hướng bao biên, lấn át, làm thay Nhà nước
nhưng lại không chịu trách nhiệm với những quyết định của mình; các đồn
thể nhân dân mất đi tính năng động, có xu hướng hành chính hóa, quan liêu,
hình thức trong hệ thống chính trị, khơng khí dân chủ sẽ mất dần; nguy cơ sai
lầm trong công tác cán bộ; đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng sa vào tiêu
cực, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, cửa quyền, bao che cho nhau…
Như vậy, xuất phát từ vị trí, vai trị của Đảng, nhất là từ những khó
khăn, thách thức của Đảng cầm quyền, cần đẩy mạnh đổi mới, chỉnh đốn
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Hai là, xuất phát từ vị trí, vai trị của cơng tác xây dựng Đảng và tình
hình công tác xây dựng Đảng
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng

Đảng. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, công tác xây dựng Đảng càng
được đặc biệt coi trọng. Xây dựng Đảng là công việc thường xuyên của Đảng
nhằm đảm bảo cho Đảng ln vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; có
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao; xứng đáng là đội tiền phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là yếu


8

tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, sự vươn lên mạnh mẽ
của dân tộc Việt Nam.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích
cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng
cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh
đạo của Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố;
đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ
về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm
chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân
tin tưởng. Thành tựu hơn 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn
dân, tồn qn, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Công tác xây dựng Đảng vẫn cịn khơng ít hạn chế, yếu kém, thậm chí
có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc
phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa
chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của
chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai

nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo
danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ
ngun tắc...
Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng
chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập
trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến
sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong cơng tác bố trí,
phân cơng cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật cơng
tâm, khách quan, khơng vì u cầu cơng việc, bố trí khơng đúng sở trường,


9

năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa
phương và cả nước.
Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều
nơi rơi vào hình thức, do khơng xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ
giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách nhiệm.
Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá
nhân, vừa khơng khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám
nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng
quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Nguyên nhân của khuyết điểm, hạn chế: Chậm đổi mới tư duy về xây
dựng Đảng và chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí then chốt của cơng tác
này; chưa định hướng đủ rõ và còn chậm so với đổi mới kinh tế. Thiếu quy
định trách nhiệm cụ thể đối với người đứng đầu tổ chức đảng và liên đới chịu
trách nhiệm đối với cấp uỷ cấp trên trực tiếp khi để tổ chức đảng yếu kém. Cơ
chế, chính sách, pháp luật còn nhiều sơ hở. Nhiều tổ chức đảng, cấp uỷ, bí thư
cấp uỷ chưa giành đúng mức, thời gian, trí tuệ, cơng sức cho cơng tác đổi
mới, chỉnh đốn Đảng. Việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương và

xây dựng Đảng chưa nghiêm, thiếu biện pháp cụ thể, hiệu quả. Lãnh đạo, chỉ
đạo chưa thật tập trung, kiên quyết. Chưa kịp thời sơ kết, tổng kết, rút kinh
nghiệm. Chưa thực sự đi đầu, làm gương trong công tác đổi mới, chỉnh đốn
Đảng và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực. Chưa thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương. Chưa dựa vào DÂN để đổi mới,
chỉnh đốn Đảng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu ý thức tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức, lối sống, năng lực công tác …
Hội nghị Trung ương 4 khóa XI nhấn mạnh nguyên nhân khách quan:
việc thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường
hết được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế;
chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận


10

mới cho cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, còn thiếu những cơ chế, chính sách đồng
bộ, khoa học để chủ động ngăn ngừa những vi phạm.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của
tập thể, của Nhà nước; đó là mơi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực
dụng phát triển.
Trong khi đó, các thế lực thù địch khơng từ bỏ âm mưu và hoạt động
"diễn biến hịa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường
hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó
giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nguyên nhân chủ quan: Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện,
giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước
nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số

nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật khơng nghiêm, nói khơng đi đơi
với làm, hoặc làm chiếu lệ.
Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi
vừa bị bng lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ
sở cho công tác kiểm tra, giám sát. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế,
chính sách, pháp luật thích ứng với q trình vận hành của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định
thiếu chế tài cụ thể. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ;
chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có
tài; khơng kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu
kém.
Cơng tác tun truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
nhiều khi cịn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý


11

chí cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm
đúng, gương người tốt khơng được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm
không được phê phán, xử lý nghiêm minh. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ
gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu
tranh với những vi phạm cịn nể nang, khơng nghiêm túc. Vai trị giám sát của
nhân dân thơng qua Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội chưa
được phát huy, hiệu quả chưa cao.
Ba là, xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước
trong thời kỳ mới
Nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính
thời kỳ mới đặt ra cho công tác xây dựng Đảng nhiều thuận lợi, thời cơ, vận

hội lớn, đồng thời phải đối mặt với những thách thức không thể xem thường:
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước khác trong khu vực; chênh hướng
xã hội chủ nghĩa; tham nhũng và tiêu cực; “Diễn biến hồ bình”.
Trong cơ chế thị trường, bên cạnh mặt tích cực nếu khơng có sự quản
lý chặt chẽ, kịp thời, khơng có giải pháp điều tiết hữu hiệu thì nền kinh tế có
thể bị chệch hướng, một bộ phận nhân dân giàu lên nhanh chóng, đẩy nhanh
sự phân hố giàu nghèo, kích thích khuynh hướng chạy theo đồng tiền. Hệ
quả của khuynh hướng này đang làm thay đổi quan niệm về thang bậc giá trị:
phẩm chất đạo đức, lịng trung thành, đức hy sinh tận tuỵ, tính nhân văn của
con người.
Tình hình trên đây đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi Đảng ta phải quan tâm
giải quyết cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Do đó, để nắm bắt cơ hội,
tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách với tinh thần cách mạng
tiến công đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục phát triển đòi hỏi Đảng phải trong


12

sạch, vững mạnh. Muốn Đảng trong sạch, vững mạnh thì phải tiếp tục đổi
mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Bốn là, tác động của yếu tố thời đại đến việc thực hiện đổi mới, chỉnh
đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi sâu sắc, khó lường: khoa học
và cơng nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trị ngày càng
nổi bật trong q trình phát triển lực lượng sản xuất. Tồn cầu hố kinh tế là
một xu thế khách quan, lơi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt
tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu
thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác
nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt.

Sự biến đổi của thế giới sẽ tác động vào cán bộ, đảng viên và nhân dân
ta cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của thế giới tác động vào cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, đòi hỏi Đảng
phải trong sạch vững mạnh thì mới đề ra được quan điểm, chủ trương và giải
pháp đúng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, giúp cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân ta nhận thức, hành động đúng. Muốn vậy, phải đổi mới, chỉnh
đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Năm là, xuất phát từ sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch
Từ sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, các thế
lực thù địch ra sức chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hồ bình”, mưu
toan chuyển hố từng bước, làm xói mịn lý tưởng cộng sản, tiến tới phá sập
niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng.
Các thế lực thù địch coi Việt Nam là một trọng điểm áp dụng chiến
lược đó. Với mưu đồ thâm độc ấy, chúng triển khai chiến lược “Diễn biến hồ
bình” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội – cả chính trị, kinh tế, quốc


13

phịng, an ninh, tư tưởng, văn hố, nghệ thuật, lối sống, quan hệ quốc tế…
Chúng dùng mọi thủ đoạn thâm độc, đê hèn, bằng mọi hình thức, biện pháp
xâm nhập vào tất cả các đối tượng, các lĩnh vực có thể xâm nhập được. Chiến
lược “Diễn biến hồ bình” tập trung vào hướng chính là: phá hoại nền tảng tư
tưởng và tổ chức của Đảng. Thủ đoạn của chúng là: xuyên tạc chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách
mạng, phủ nhận sự hy sinh và công lao của những người cộng sản, thổi phồng
sai lầm khuyết điểm của Đảng; đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng nhằm tước
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng lợi dụng những kẻ cơ hội, phản bội về
chính trị hoặc thối hố về phẩm chất đạo đức để chia rẽ, làm suy yếu, phá
hoại Đảng từ bên trong.

Trước những âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch,
nếu không cảnh giác, không chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì tổn thất đối với cách mạng, đối với Đảng
là không thể lường hết được.
2. ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA

2.1. Thực trạng
2.1.1. Ưu điểm
Đảng đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, độc lập, sáng tạo. Đảng lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu nổi bật, góp phần nâng cao
vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Có được thành quả đó là do Đảng đổi
mới tư duy trên cơ sở kiên định nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tế, chú trọng thực tiễn và phát huy dân
chủ trong Đảng, trong xã hội.
Trong hoạt động lãnh đạo, Đảng tiến hành nhiều đổi mới quan trọng về
công tác tổ chức thực tiễn, công tác tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo. Sự
nghiệp đổi mới hoàn toàn mới mẻ do đó Đảng phải vừa làm vừa rút kinh


14

nghiệm, thí điểm trước khi tiến hành triển khai các mơ hình có tính chất đổi
mới… Đảng quan tâm tổng kết sự lãnh đạo, rút kinh nghiệm lãnh đạo. Đảng
nắm bắt tình hình một cách sâu sắc, tồn diện hơn, xác định đúng vấn đề bức
xức, mắt xích quan trọng nhằm tìm cách giải quyết. Bên cạnh đó, Đảng trăn
trở tìm tịi các hình thức, phương pháp lãnh đạo phù hợp với sự thay đổi của
đối tượng lãnh đạo trong điều kiện mới. Trong những năm qua, Đảng ta ngày
càng nhận thức rõ hơn về phương thức lãnh đạo của Đảng và ý nghĩa, tầm
quan trọng của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức

lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị từ Trung ương
đến địa phương đã có nhiều đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng.
Đảng đặc biệt coi trọng việc lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng thành luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà
nước. Đảng đã lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, thực
hành công khai, dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Thành lập đảng đoàn,
ban cán sự đảng và giới thiệu đảng viên của Đảng vào các vị trí lãnh đạo chủ
chốt trong hệ thống chính trị có tác động tích cực đến việc giữ vững và nâng
cao vai trò, hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
đã được tăng cường. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ
và phong cách, lề lối làm việc đã có đổi mới theo hướng khoa học, công khai,
dân chủ, sát cơ sở hơn.
2.1.2. Hạn chế, khuyết điểm
Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Đảng ta đánh giá: “Cơng tác xây
dựng Đảng cịn khơng ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có qua nhiều nhiệm kỳ
chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng” 1.
Trong đó có ba vấn đề cấp bách nhất cần được khắc phục ngay. Đó là:
Một là, một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những
đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI,
Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.21


15

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai
nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo
danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ

ngun tắc...
Hai là, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược chưa đạt yêu
cầu, dẫn đến sự hụt hẫng, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong
công tác bố trí, phân cơng cán bộ. Bên cạnh đó, đánh giá, bố trí một số cán bộ
chưa được cơng tâm, khách quan, khơng vì u cầu cơng việc, bố trí khơng
đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát
triển của ngành, địa phương và cả nước.
Ba là, nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở
nhiều nơi rơi vào hình thức do khơng xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối
quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách
nhiệm. Tình hình đó dẫn đến nhiều hệ quả nghiêm trọng: vừa có hiện tượng
dựa vào tập thể, khơng rõ trách nhiệm cá nhân, vừa khơng khuyến khích được
người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho
cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để
mưu cầu lợi ích cá nhân.
Bên cạnh đó, đổi mới phương thức lãnh đạo còn những khuyết điểm,
hạn chế. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
mà trọng tâm là Nhà nước còn chậm và lúng túng. Thiếu những quy định cụ
thể để bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hành dân chủ
trong Đảng và trong xã hội. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác
tư tưởng, công tác cán bộ đổi mới chậm. Chưa thực sự coi trọng đổi mới lề lối
làm việc.
2.2. Những vấn đề đặt ra
Công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề
cần giải quyết. Nếu không kiên quyết sửa chữa, khắc phục những hạn chế,


16

khuyết điểm thì ảnh hưởng trực tiếp đến vai trị lãnh đạo của Đảng và sự tồn

vong của chế độ. Trước hết, đổi mới, chỉnh đốn Đảng nhằm góp phần giải
quyết ba vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng. Coi đây là khâu đột
phát trong công tác xây dựng Đảng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
Thứ nhất, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của
nhân dân đối với Đảng. Đây là vấn đề trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.
Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp
trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
Thứ ba, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
3. MỤC TIÊU, PHƯƠNG CHÂM, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN
ĐẢNG TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Mục tiêu đổi mới, chỉnh đốn Đảng
Mục tiêu đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng sao cho ngang tầm với nhiệm vụ mới,
làm trong sạch đội ngũ Đảng, đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
chính trị do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đề ra, mà trọng tâm là phát
triển kinh tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bên cạnh đó, đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải hướng vào những vấn đề
có tính cấp bách nhất. Phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được
những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng
thật sự là đảng chân chính cách mạng, ngày càng trong sạch, vững mạnh,



17

không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố
niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng.
3.2. Phương châm đổi mới, chỉnh đốn Đảng
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ
chức; tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh về các mặt; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách
mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, ln
gắn bó với nhân dân.
Trong điều kiện hiện nay, đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải theo phương
châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể
nang, né tránh. Thực hiện các giải pháp phải đồng bộ, có trọng tâm, trọng
điểm, khả thi, kết hợp giữa “xây và chống”, “chống và xây”, nói đi đơi với
làm, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất. Bên cạnh đó, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện với quyết tâm chính trị cao, người đứng đầu nêu
gương. Ngồi ra, phải kiên quyết, kiên trì, xác định rõ lộ trình thực hiện, thời
gian hồn thành, làm từng bước vững chắc, thường xuyên kiểm tra, giám sát
chặt chẽ… Hơn nữa, phải bình tĩnh, tỉnh táo, khơng nóng vội, cực đoan; đồng
thời khơng để rơi vào trì trệ, hình thức, khơng chuyển biến được tình hình;
giữ đúng ngun tắc, khơng để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi
dụng, kích động, xuyên tạc, đả kích gây rối nội bộ.
3.3. Một số giải pháp chủ yếu đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay
3.3.1. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên, đấu tranh không khoan nhượng với những
biểu hiện tiêu cực, sai trái



18

Các cấp ủy Đảng quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để
mỗi người thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết
lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự tu
dưỡng, tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nêu cao tinh thần trách
nhiệm trước nhân dân, thật sự tiên phong gương mẫu trong cơng việc; xử lý
hài hồ các lợi ích. Tạo điều kiện cho đảng viên hồn thành nhiệm vụ của
mình. Học tập, quán triệt và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh; đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ; xây dựng cơ chế để nhân
dân tham gia giám sát cán bộ, đảng viên; tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát; xử lý nghiêm đảng viên vi phạm.
Cấp uỷ các cấp nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của
cuộc đấu tranh này và có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết, có
hiệu quả. Xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ, cụ thể, có hiệu lực về tuyên
truyền, giáo dục và hành chính, kinh tế, tài chính và pháp luật, về thanh tra,
kiểm tra và giám sát, về chính sách đãi ngộ và kỷ luật đảng; sử dụng sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân, của các phương tiện
thông tin đại chúng. Các cấp uỷ và tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là
cán bộ lãnh đạo cấp cao phải đi tiên phong trong cuộc đấu tranh này.
Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng Đảng, tự phê bình và phê bình
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, bổ sung thêm
những yêu cầu, biện pháp mới phù hợp, đưa cuộc vận động đi vào chiều sâu.
Coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, tự tu dưỡng của mỗi cán bộ,
đảng viên, công tác quản lý đảng viên; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, mở
rộng dân chủ, cơng khai. Biểu dương và nhân rộng những tấm gương cần
kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư.
Hồn thiện chính sách, pháp luật; tăng cường vai trò giám sát của Mặt
trận và các đồn thể nhân dân; đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước; xác



19

định rõ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Tăng cường chức năng, quyền hạn, trách nhiệm và tổ chức bộ máy
công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng; hệ thống thanh tra các cấp, các cơ
quan bảo vệ pháp luật và sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan có liên quan
Xây dựng hệ thống chính sách phân phối thu nhập và đãi ngộ công
bằng, hợp lý, bảo đảm đời sống của cán bộ, cơng chức; cơng khai hố chế độ,
chính sách để cán bộ, đảng viên và nhân dân giám sát, kiểm tra.
Xây dựng thiết chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên và nhân
dân tham gia giám sát, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Xử lý kịp thời, nghiêm minh những người vi phạm theo kỷ luật Đảng
và pháp luật của Nhà nước đối với những cán bộ, đảng viên tham nhũng, bao
che cho tham nhũng. Tịch thu tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng.
Cấp uỷ, tổ chức đảng, các ngành, các cấp lãnh đạo chặt chẽ cuộc đấu
tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí; khơng để kẻ xấu lợi dụng để kích
động, chia rẽ nội bộ. Thành lập ban chỉ đạo phịng, chống tham nhũng, lãng
phí.
3.2.2. Phát huy dân chủ trong Đảng, trong xã hội
Trong những năm đổi mới, Đảng ta kiên định nhận thức và từng bước
thực hiện trên thực tế những giá trị chung về dân chủ. Quyền làm chủ của
nhân dân gắn liền với những thành tựu của sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội
mới, xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng ta đã ban hành nhiều quan điểm, chủ
trương, nghị quyết về xây dựng nội bộ Đảng, cũng như xây dựng hệ thống
chính trị nhằm mở rộng dân chủ trong nội bộ Đảng và phát huy dân chủ trong
xã hội. Là Đảng duy nhất cầm quyền, việc mở rộng quyền làm chủ của đảng
viên trong các công việc của Đảng là tiền đề để phát huy quyền dân chủ của
người dân trong xã hội. Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện và gương

mẫu thực hiện Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước là căn cứ và


20

điều kiện để phát huy dân chủ trong xã hội. Đảng ta đã chủ trương xây dựng
và thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở làm điểm đột phá để bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong q trình đổi mới tồn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán khẳng định nhiệm vụ phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Sở dĩ Đảng ta coi trọng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vì
nó vừa là mục tiêu vừa là động lực quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất
nước. Trong khi đó, trình độ dân chủ trong nội bộ Đảng và cơ chế thực hiện
dân chủ trong nội bộ Đảng có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển,
trưởng thành của bản thân Đảng, đối với năng lực cầm quyền của Đảng, nhất
là đối với phát huy dân chủ trong xã hội. Cơ chế dân chủ trong Đảng được
hiểu là những cơ sở, căn cứ, cách thức, quy chế, quy định.... được xây dựng
để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của đảng viên, của cấp ủy và tổ chức
đảng cấp dưới đối với cấp trên. Dân chủ trong nội bộ Đảng trên cơ sở thống
nhất và ràng buộc giữa quyền đảng viên (quyền được thông tin, tham gia bàn
bạc, thảo luận, trình bày ý kiến, chất vấn, nhận xét, đánh giá, phê bình, bảo
lưu ý kiến; ứng cử, đề cử, bầu cử các cơ quan lãnh đạo của đảng; ứng cử, đề
cử, bỏ phiếu tín nhiệm, lựa chọn, bổ nhiệm, hoặc giới thiệu bổ nhiệm cán
bộ…) và nhiệm vụ của đảng viên trong tham gia quyết định các công việc nội
bộ của Đảng, của cấp ủy và tổ chức đảng cấp dưới đối với cấp trên, đề cao kỷ
luật Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng…
Thực hiện dân chủ trong Đảng và thực hiện dân chủ trong xã hội có
mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Trong đó, thực hiện dân chủ
trong Đảng thúc đẩy dân chủ trong xã hội phát triển. Do đó, thực hiện cơ chế

dân chủ trong nội bộ Đảng là hạt nhân thực hành dân chủ xã hội. Để phát huy
được dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng phải thực sự trở thành tấm gương về
dân chủ trong xã hội. Do đó, cần làm cho cơ chế dân chủ và thực hiện cơ chế


21

dân chủ trong nội bộ Đảng thấm sâu vào toàn bộ hoạt động của Đảng. Muốn
vậy, trước hết phải nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, các cấp ủy về
tầm quan trọng của dân chủ trong nội bộ Đảng và thực hiện cơ chế dân chủ
trong nội bộ Đảng.
3.3.3. Tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Đổi mới phương thức phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động
của cả hệ thống chính trị, với đổi mới kinh tế. Tiếp tục nghiên cứu làm rõ
quan điểm về Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền làm cơ sở đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng. Cụ thể hoá cương lĩnh, Hiến pháp và Điều lệ Đảng
về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xã hội; xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, thực
hành và mở rộng dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
các cấp. Tăng cường vai trò lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá đường lối, nghị
quyết. Tập trung lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ của
hệ thống chính trị; phân cơng, phân cấp hợp lý. Quán triệt và thực hiện quan
điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng
thời phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và người đứng đầu các tổ
chức trong công tác cán bộ.
Kết hợp lãnh đạo với kiểm tra bộ máy nhà nước thông qua các tổ chức
đảng và cá nhân đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước, thông qua giám
sát của nhân dân. Xây dựng cơ chế, qui chế cụ thể giải quyết tốt mối quan hệ

giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Xác
định rõ hơn thẩm quyền quyết định của Chính phủ và thẩm quyền quyết định
hoặc định hướng của Trung ương đối với Chính phủ. Tăng cường lãnh đạo
công tác tư pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao vai trò của các cấp uỷ


22

đảng, ban cán sự đảng trong các cơ quan này; đề cao trách nhiệm của cơ quan
điều tra, viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân.
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt các lĩnh vực liên quan
đến quốc phòng, an ninh; đồng thời phát huy trách nhiệm quản lý của Nhà
nước đối với các lĩnh vực quốc phịng, an ninh và các cơ quan làm cơng tác
này. Phân định rõ công việc của cấp uỷ với hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân
dân các địa phương. Sự lãnh đạo của cấp uỷ là định hướng và bảo đảm để hội
đồng nhân dân quyết định các nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa phương, tạo
điều kiện cho uỷ ban nhân dân, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
địa phương quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đề
ra. Tăng cường và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong việc xây
dựng, ban hành cơ chế, chính sách, tạo điều kiện cho Mặt trận, các đồn thể
nhân dân hoạt động đúng định hướng chính trị, đúng pháp luật và có hiệu quả.
Phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong
việc kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động. Tiếp tục luật hoá các
hoạt động của các đoàn thể nhân dân và các hội.
Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của Đảng theo hướng thực sự dân
chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng; làm việc có
chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi đơi với làm. Phát huy
vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đổi mới cách ra
nghị quyết, văn kiện và báo cáo. Cấp uỷ tích cực tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra,
tổng kết thực hiện nghị quyết; chỉ đạo hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và

các đoàn thể nhân dân. Xây dựng và thực hiện chế độ báo cáo xin ý kiến về
hoạt động của mình với tổ chức đảng, đảng viên và cấp trên theo định kỳ hoặc
đột xuất.
3.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng
Cơng tác kiểm tra phải góp phần khắc phục được những khuyết điểm
mới manh nha; bên cạnh việc kiểm tra dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường chủ


23

giám sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ, về
nhận thức và chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, chấp hành Điều lệ Đảng.
Bổ sung chức năng giám sát, tăng thẩm quyền xét xử của cấp uỷ và
uỷ ban kiểm tra các cấp. Kiện toàn hệ thống bộ máy uỷ ban kiểm tra các cấp;
hoàn thiện qui chế phối hợp kiểm tra giữa uỷ ban kiểm tra đảng với các tổ
chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố
cáo và xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên. Kiện toàn tổ chức, cán bộ, cải
thiện điều kiện, phương tiện làm việc cho uỷ ban kiểm tra. Xây dựng qui chế
tiếp nhận, xử lý ý kiến của Mặt trận, các đoàn thể và của nhân dân phê bình tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên.
3.3.5. Xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với
nhân dân
Quán triệt quan điểm của Đảng, Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
Đảng với dân; thực hiện đại đồn kết tồn dân tộc trên nền tảng liên minh
cơng nhân, nơng dân và trí thức; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa
vào dân để xây dựng Đảng. Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự
giám sát của dân. Cán bộ, đảng viên phải vừa là người lãnh đạo, vừa là “cơng
bộc” của dân.
Đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, hồn thiện đường lối đổi mới

phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước; kết hợp hài hoà sự phát triển
kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Chăm lo thực hiện chính sách đại đồn kết tồn dân, kịp thời xử lý các
mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân; điều hồ hợp lý lợi ích xã hội của các tầng
lớp dân cư, các vùng, miền, lĩnh vực, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân.
Hoàn thiện những thiết chế thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội, bảo
đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hồn thiện và thực hiện có hiệu


24

quả qui chế dân chủ ở cơ sở; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế độ dân chủ trực
tiếp và đại diện.
Tăng cường xây dựng giai cấp công nhân; phát huy vai trị của giai
cấp nơng dân, phát huy trí tuệ, năng lực của đội ngũ trí thức; tạo điều kiện và
phát huy tiềm năng của doanh nhân, của người Việt Nam ở nước ngồi trong
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
Tạo điều kiện và phát huy vai trị của Mặt trận và các đồn thể tham
gia xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Tăng cường công tác nhân đạo, từ thiện và công tác vận động đồng
bào ta định cư ở nước ngoài.


25

KẾT LUẬN
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường
xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn
những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp
tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính
sách của Đảng trong thời kỳ mới. Đổi mới cơng tác giáo dục lý luận chính trị,
tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ
chốt các cấp; đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ
thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình.
Củng cố, nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư
tưởng, lý luận. Tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý
luận, nhất là cán bộ chủ chốt. Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác
lý luận, gắn các công tác này với công tác tổ chức - cán bộ, với phát triển kinh
tế, giải quyết hài hịa các lợi ích. Gắn “xây” với “chống”, lấy “xây” làm
chính. Đặc biệt quan tâm chống sự suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan
điểm sai trái, thù địch.
Mỗi tổ chức cơ sở Đảng có trách nhiệm tổ chức và qui tụ sức mạnh của
toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt cơng tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành
nhiệm vụ và phẩm chất, đạo đức, lối sống; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
và những biểu hiện tiêu cực trong Đảng.


×