Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận cao học ,hồ chí minh người đặt nền móng cho giáo dục việt nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.35 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................3
Chương 1: TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC................................3
1.1. khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.......................................3
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục...........................3
1.2.1. Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị về tư tưởng giáo dục của dân tộc.
...........................................................................................................................3
1.2.3.Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo những quan điểm về giáo dục của
chủ nghĩa Mác-Lênin.......................................................................................6
1.2.4. Thực tiễn giáo dục Việt Nam và thế giới...............................................7
1.2.5. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh............................................................8
1.3.Q trình hình thành và phát triển tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh.. 9
Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN..................................................15
TRONG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC HỒ CHÍ MINH..................................15
2.1. Sơ lược lịch sử giáo dục Việt Nam trước năm 1945............................15
2.2. Hồ Chí Minh - người đặt nền tảng cho giáo dục Việt Nam hiện đại..17
2.3.Những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh..........18
2.3.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị và mục đích của giáo dục..............18
2.3.2. Nội dung giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh................................20
2.3.3. Phương pháp giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh.........................23
Chương 3: TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC HIỆN NAY..............................27
KẾT LUẬN....................................................................................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................32


PHẦN MỞ ĐẦU
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Song song với sự nghiệp đó, Người ln ln chăm lo đến việc xây dựng


một xã hội mang bản chất nhân văn, trong đó, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”, với quyết tâm đưa nước ta trở thành một nước “văn hoá
cao và đời sống vui tươi, hạnh phúc”. Có thể nói,Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người thầy, nhà giáo dục vĩ đại đã hình thành một quan điểm giáo dục hiện
đại, đặc sắc cho dân tộc ta, Người đã giành phần lớn cuộc đời mình cho sự
nghiệp “trồng người”. Người đã cổ vũ và tổ chức sự nghiệp khai sáng vĩ đại
cho toàn dân tộc Việt Nam, giải phóng nhân dân ta thốt khỏi vịng nơ lệ, làm
cho mọi người Việt Nam ai cũng được học hành từng bước nâng cao trình độ
văn hố của cả một dân tộc, tạo điều kiện để dân tộc ta phát huy mọi năng lực
và sức mạnh của mình, làm cho nước nhà từng bước vươn lên đỉnh cao khoa
học và nghệ thuật; tạo một lối sống văn hoá mới, phổ biến trong các quan hệ
và các thể chế của xã hội ta, làm cho toàn thể nhân dân ta ra sức thực hành
các giá trị của một nền đạo đức cao đẹp và tự mình nêu tấm gương của một
nhân cách trong sáng để mọi người thường xuyên hướng vào đó mà soi rọi
lương tâm, trách nhiệm của mình.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển ngày càng
nhanh, kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển
lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết
định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Các nước trên thế giới đều coi giáo
dục là nhân tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia.
Đảng và Nhà nước ta đặt giáo dục và đào tạo ở vị trí cao. Nghị quyết
trung ương 2 khóa VIII xác định: Phát triển giáo dục đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong giai
đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa. Bài tốn giáo dục hiện nay
đang trở thành vấn đề không nhỏ, đang là mối quan tâm của tồn xã hội. Với
lý do đó tơi chọn đề tài: “Hồ Chí Minh - Người đặt nền móng cho giáo dục
Việt Nam hiện đại”làm đề tài tiểu luận.

2



NỘI DUNG
Chương 1: TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC
1.1. khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Như ta đã biết, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm toàn
diện và sâu sắc về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Như những
lĩnh vực khác, giáo dục cũng là một đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là một bộ phận
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ giáo dục dân
chủ nhân dân tiến lên giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống quan điểm, lý luận của tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh rất đa
dạng, phong phú, bao gồm các lĩnh vực về chức năng, nhiệm vụ, vị trí xã hội
của giáo dục.
Việc nhận thức khái niệm tưởng giáo dục Hồ Chí Minh như trên là xét ở
mặt bản thể luận, tức là khẳng định sự tồn tại khách quan của một hiện thực tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. Tư tưởng này tồn tại thực, là sản phẩm
không chỉ của cá nhân Hồ Chí Minh mà của cả dân tộc Việt Nam, của thời
đại.
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục không xuất hiện ngẫu nhiên, mà bắt
nguồn từ truyền thống và những tư tưởng giáo dục của dân tộc và nhân loại,
được Người tiếp thu và phát triển theo quỹ đạo tư tưởng cách mạng xã hội của
mình.
1.2.1. Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị về tư tưởng giáo dục của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu
nước, chịu ảnh hưởng sâu sắc của người cha, cũng là người thầy học đầu tiên,
về tinh thần hiếu học, lịng thương người, cuộc sống giản dị và tình yêu đất
nước. Lớn lên trên quê hương xứ Nghệ, trên mảnh đất Việt Nam có nền văn
hiến lâu đời với triết lý nhân sinh hết sức sâu sắc, Hồ Chí Minh đã tiếp thu

những giá trị tốt đẹp về tư tưởng giáo dục của dân tộc mình.

3


Mọi thế hệ người Việt Nam sinh ra đều hướng đến 3 nhiệm vụ quan
trọng: làm người, dựng làng và giữ nước. Xuất phát từ nhiệm vụ ấy, hình
thành nên triết lý giáo dục của người Việt: Con người phải học tập, tu dưỡng
suốt đời để dựng làng và giữ nước. Triết lý đó đã gieo mầm vào thế hệ trẻ lý
tưởng về đạo làm người, sống theo lẽ phải, cống hiến và phục vụ quê hương
đất nước, sống xứng đáng với quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc. Nền
giáo dục theo lương tri của dân tộc ấy còn giúp cho Nguyễn Ái Quốc tiếp thu
những giá trị cao đẹp trong tình nghĩa thầy trị, tình cảm đồng môn, tiếp thu
tinh thần ham học hỏi, cầu thị và tôn trọng người khác.
Bên cạnh những truyền thống giáo dục đậm tính nhân văn của dân tộc
cịn có các tấm gương nhà giáo lớn như: Nhà sư phạm Chu Văn An, nhà giáo
dục học - Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, … những nhà giáo mẫu mực
không màng danh lợi, không ham vinh hoa phú quý, cả đời phục vụ sự nghiệp
và đấu tranh cho sự hưng thịnh của quốc gia. Tư tưởng của họ mang ý nghĩa
lịch sử sâu sắc, lớn lao, đã được Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa và phát triển
trong thời đại mới.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, những người quan tâm đến vận mệnh và tương
lai của đất nước, đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, các sĩ phu yêu nước ít
nhiều đều quan tâm tới giáo dục và đào tạo con người. Từ Nguyễn Tư Giản,
Nguyễn Trường Tộ với các bản điều trần nổi tiếng, đến các sĩ phu ở đầu thế
kỷ XX trong nhóm Đơng kinh nghĩa thục, đến Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, đã hình thành một loạt ý kiến về cách tân giáo dục, xây dựng trường
học trực dụng, một kiểu nhà trường gắn với lao động sản xuất: như Nguyễn
Tư Giãn từng nói: “Nhà trường khơng phải dạy cho người ta hư văn phải cung
cấp cái học hữu dụng, phải vừa học vừa biết làm ruộng, đó là sự kết hợp Tri

và Hành”. Hay Nguyễn Trường Tộ đã viết: “Học làm gì? Học tức là học cái
chưa biết để mà biết, biết để mà làm việc, làm việc gì, làm ở đâu? Làm tức là
làm công việc thực tế trong nước hiện nay và để việc làm hữu dụng đó cho
đời sau mãi mãi”.
Sự thống nhất trong các ý kiến là đã phê phán mạnh mẽ nền giáo dục
phong kiến lạc hậu, vô bổ và xu hướng chung muốn có một nền giáo dục với
nội dung thiết thực, sát thực tế dân tộc, hướng về khoa học và thực nghiệm,
mở rộng cho nhiều người, nhưng do điều kiện lịch sử, họ đã không đạt được
4


những khát vọng đó, chỉ đến Hồ Chí Minh, Người đã kết tinh ý tưởng và hoạt
động khai sáng của các thế hệ tiền bối thành chính sách, đường lối của nền
giáo dục Việt Nam hiện đại.
1.2.2. Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị tốt đẹp trong triết lý giáo dục
của nhân loại.
* Tinh hoa giáo dục phương Đông.
Với tinh thần gạn đục khơi trong, Hồ Chí Minh đã tiếp thu sáng tạo
những mặt tích cực của nền giáo dục Nho gia như: Tư tưởng bình đẳng trong
giáo dục - “hữu giáo vơ lồi”; phương pháp giáo dục nêu gương, khơi dậy
tính tích cực của người học, phương pháp cá biệt hóa đối tượng trong giáo
dục; tinh thần khoan dung trong giáo dục; tư tưởng về đào tạo và quý trọng
nhân tài,…
Ngoài việc kế thừa một cách sống động, sang tạo, có phê phán từ tư
tưởng giáo dục của Nho giáo, Hồ Chí Minh cịn tiếp thu hết sức sâu sắc tư
tưởng nhân văn của Phật giáo trong việc giáo dục con người, giải phóng
con người một cách khoa học.
* Tinh hoa của nền giáo dục phương Tây.
Rồi trên những nẻo đường bơn ba của mình sau này, Hồ Chí Minh cũng
đã tiếp cận và tìm hiểu thêm nền giáo dục phương Tây, Người đã tiếp thu

những tinh hoa của nó:
Đó là tư tưởng giáo dục ở thế kỷ XVI của các tác gia Machiavel,
E’rasme, Mariand, Rabelais, Mantaigne,… được khái quát nên nội dung chủ
yếu của nền giáo dục nhân bản, nhân văn, thực tiễn, chống lại giáo dục tự
nhiên, khắc kỷ, kinh viện, viển vơng. Chính từ đây ta đã bắt gặp tư tưởng giáo
dục toàn diện: Đức, trí, thể, mỹ, với xu hướng gắn giáo dục vào đời sống.
Giáo dục phải đào tạo nên những con người góp phần cải tạo, hồn thiện xã
hội và thơng qua đó mỗi người bảo đảm cuộc sống cùng sự phát triển của bản
thân: Gắn bó học - hành - sống (học qua hành, hành để sống và sống là học,
học để sống).
Nền giáo dục nhân bản, nhân văn mở đầu từ tinh hoa tư tưởng cổ đại
châu Âu, được khôi phục và phát triển vào thế kỷ XVI, đạt đỉnh cao ở thế kỷ
XVII và XVIII. Tinh hoa tư tưởng này dạy ta rằng: phải vươn tới mục tiêu

5


đào tạo ra con người xã hội, thậm chí cịn gọi là con người nhà nước tức con
người công dân, con người của đạo lý, công lý và nhân lý.
Sang thế kỷ XX, các nước châu Âu tiếp tục điều chỉnh chính sách duy
trì và phát triển nền giáo dục công cộng cho mọi công dân, thực thi giáo dục
trung học bắt buộc,… “Mọi cơng dân có quyền được hưởng một nền giáo dục
phổ thơng và hồn tồn miễn phí” (Hiến pháp 1791 của Cộng hoà Pháp).
Chúng ta đang sống trong kỷ ngun mới, kỷ ngun trí tuệ với cơng
nghệ cao, xã hội thông tin, xã hội học tập và một nền giáo dục nhân văn cao
đẹp. Con người lý tưởng cùng nền giáo dục đang tiến vào kỷ nguyên mới có
nguồn tư tưởng từ xa xưa mà Bác đã tiếp thu.
1.2.3.Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo những quan điểm về giáo dục của
chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong tác phẩm “những chỉ thị cho các đại biểu của Hội đồng trung

ương lâm thời về một số vấn đề”, C.Mác đã xây dựng quan điểm giáo dục
một cách toàn diện và sâu sắc: Chúng ta hiểu giáo dục gồm ba điều:
-Giáo dục trí lực: Trong việc giáo dục trí lực, các ông đặc biệt quan tâm
đến giáo dục lý luận chính trị cho quần chúng, coi việc giáo dục lý luận chính
trị cho quần chúng, cho cán bộ cốt cán, cho giai cấp tiên phong cách mạng là
nhiệm vụ hàng đầu của mỗi Đảng Cộng sản “….”.
-Giáo dục thể lực: như đang được thực hành trong các trường thể dục
thể thao và bằng luyện tập quân sự.
-Giáo dục kỹ thuật: Bằng việc giới thiệu các nguyên tắc cơ bản của tất
cả các quá trình sản xuất, đồng thời tập cho trẻ em hoặc thiếu niên quen sử
dụng công cụ của tất cả các ngành sản xuất.
Sự thấm nhuần và vận dụng chủ nghĩa Mác trong thực tiễn là yếu tố
quan trọng quyết định sự thành công của mỗi người cách mạng. Kế thừa tư
tưởng đó, sau này Hồ Chí Minh cũng nêu lên quan điểm giáo dục tồn diện về
đức, trí, thể, mỹ nhằm phát huy mọi năng lực sẵn có của con người.
Không chỉ nêu lên những nội dung của một nền giáo dục toàn diện, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin còn chỉ ra phương pháp mới cho một nền
giáo dục tiến bộ, đó là: Trong quy trình giáo dục, bản thân nhà giáo dục cũng
phải được giáo dục và nhà trường trở thành cơng cụ của chun chính vô sản,
nghĩa là nhà trường không những truyền bá những nguyên lý của chủ nghĩa
6


cộng sản nói chung mà cịn là cơng cụ để truyền bá những ảnh hưởng về tư
tưởng, về giáo dục, để chủ nghĩa của mình thẩm thấu vào mỗi người. Các ông
chủ trương vận dụng nhuần nhuyễn nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong giáo dục lý luận, giáo dục tinh thần làm chủ cho người học và
phát huy dân chủ trong nhà trường.
Như vậy, với quan niệm “khơng học thì khơng trở thành người cộng
sản”, chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu lên những quan điểm hết sức cơ bản về

một nền giáo dục tiến bộ, nó đã trở thành cơ sở lý luận quan trọng nhất, làm
nền tảng cho việc hình thành tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh.
1.2.4. Thực tiễn giáo dục Việt Nam và thế giới
Đất nước Việt, đất nước của nền văn hiến lâu đời, đất nước của những
truyền thống hiếu học với rất nhiều người con thơng minh, trí tuệ un bác đã
đứng lên xây dựng quê hương. Trên con đường ra đi của mình, Bác đã có
điều kiện tiếp xúc với thực tiễn giáo dục của nhiều nước trên thế giới. Đó là
nền giáo dục tiến bộ, công bằng, tốt đẹp ở Cơng xã Pari; đó là thực tiễn giáo
dục ở các nước châu Âu có trình độ văn minh phát triển, ở đây giáo dục có
nhiều mặt tích cực nhưng là nền giáo dục tư bản, chỉ phục vụ tối ưu nhất cho
người giàu, cho mục đích của giai cấp tư sản; đó là thực tiễn nền giáo dục ở
các nước thuộc địa khác, vẫn là sự dốt nát, bần cùng, đói nghèo và lạc hậu. Ở
đây, giáo dục chỉ nhằm mục đích cao nhất là “ngu dân dễ trị” - một chính
sách thâm độc mà chủ nghĩa thực dân ưa dùng nhất.
Nhắc đến thực tiễn các nền giáo dục mà Người đã từng khảo cứu trên
thế giới, chúng ta không thể không nhắc tới nền giáo dục Nga - Xô Viết đã
được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp, Người đã trình bày về trường Đại học Phương Đơng, một ngơi trường
kiểu mẫu cho nền giáo dục thật sự cách mạng và tiến bộ. Ở đây những nguyên
tắc về giáo dục toàn diện, về một nền dân chủ trong nhà trường, về quan
điểm gắn liền học tập với lao động sản xuất đã được thực hiện. Và hơn thế
nữa, nó cịn là ngôi nhà chung cho sinh viên của nhiều dân tộc khác nhau, họ
khơng chỉ bình đẳng mà cịn được làm chủ thực sự. Ở đó người ta khơng
những học tri thức mà cao hơn hết đó là tình u con người, lòng nhân ái,
những sẻ chia, sự gắn kết cùng chiến đấu cho một lý tưởng cao đẹp vì tương
lai và hạnh phúc của con người.
7


Thực tiễn của trường Đại học Phương Đơng cịn cho Hồ Chí Minh

nhận thấy việc giáo dục tư tưởng chính trị, thường xuyên liên hệ với tình hình
đất nước và thế giới được đặc biệt coi trọng. Như vậy, lần đầu tiên từ thực tiễn
của một nhà trường Xô Viết, Hồ Chí Minh đã đúc kết thành những nguyên lý
giáo dục, làm cơ sở cho việc tổ chức, chỉ đạo, đào tạo, huấn luyện cán bộ sau
này.
1.2.5. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
Những phẩm chất, nhân cách làm nên tư tưởng của Người về giáo dục
đó là:
* Q trình tự giáo dục bản thân trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình. Người đã khơng ngừng nghiên cứu, tìm tịi, ln tự nâng cao
nhận thức của mình trong mọi hoàn cảnh.
* Sự quan tâm đặc biệt đối với lĩnh vực giáo dục trong đấu tranh giải
phóng dân tộc cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, hay đó chính là chủ
nghĩa nhân văn của Hồ Chí Minh, phấn đấu cho tự do, hạnh phúc của con
người, phấn đấu cho mọi người được giải phóng triệt để về mặt nhận thức và
xã hội.
* Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo có đầu óc phê phán trong học tập đã
giúp cho Người tiếp thu những tinh tuý nhất của giáo dục dân tộc cũng như
trên thế giới để xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện đại.
* Tình cảm cao cả của một nhà yêu nước, một người cách mạng, một
học sinh, một người thày giáo vĩ đại. Đó là tình u thương con người vơ hạn,
đó là sự cảm thông sâu sắc trước số phận của con người, và đó cũng là khát
vọng cháy bỏng của một thầy giáo muốn cho học sinh trở thành những công
dân có ích cho xã hội; của một lãnh tụ muốn đem tri thức, con đường để đưa
dân tộc mình thành một dân tộc thông thái; muốn đưa nhân loại đi lên tầm cao
tri thức và tình cảm chân chính của người cộng sản.
Như vậy, bằng phẩm chất riêng có của bản thân, Hồ Chí Minh đã tiếp
thu tinh hoa giáo dục của dân tộc và nhân loại, vận dụng một cách sáng tạo và
nhuần nhuyễn vào thực tiễn nóng bỏng, sinh động của xã hội Việt Nam. Sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại đã trở thành dòng chủ


8


lưu xuyên suốt trong sự nghiệp lãnh đạo xây dựng nền giáo dục Việt Nam của
Người. Vì thế tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh khơng chỉ có giá trị nhân văn,
mang tính logic - lịch sử, gắn kết giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp
cách mạng Việt Nam mà cịn mang tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại
sâu sắc.
1.3.Q trình hình thành và phát triển tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh.
 Thời kỳ 1890 - 1910.
Đây là thời kỳ người được giáo dục trong gia đình, ở nhà trường (Nho
học, Tây học), làm thầy giáo và nảy sinh ý tưởng tìm hiểu nội dung một số
vấn đề đang học tập, gắn với thực tế cuộc sống, trong học tập và giảng dạy.
Trong bảy năm đầu (1898 - 1905) học chữ Hán, Nguyễn Sinh Cung đã
tích lũy một vốn Nho học khá phong phú. Người lại được theo cha đi nhiều
nơi, tiếp xúc với nhiều nhà yêu nước nên đã sơm khơi dậy lòng yêu nước,
thương dân, ý thức vươn lên để giúp dân, giúp nước.
Với sự thơng minh, nhạy bén của mình, khi tiếp xúc với nền văn hóa
phương Tây, Nguyễn Tất Thành đã suy nghĩ về khẩu hiệu: “Tự do - bình đẳng bác ái”. Những điều học trong sách vở trái với thực tế cuộc sống đã làm cho
người luôn trăn trở, thúc giục lòng yêu nước và chuyển thành hành động cứu
nước.
Năm 1909, tại trường Dục Thanh - Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành tham
gia dạy học và đây là dịp để người thực hiện những suy nghĩ, dự định của mình
về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục thế hệ trẻ. Ở đây, thầy Thành đã
dạy cho học sinh lịng u q hương đất nước thơng qua những giờ học,
những bài thơ, những câu chuyện kể. Bằng phương pháp dạy học tích cực cùng
với cuộc sống chan hịa giữa thầy và trị, chỉ trong một thời gian ngắn, thầy
khơng chỉ dạy cho học trò những tri thức sâu sắc, dễ nhớ, dễ hiểu mà cịn tác
động đến tình cảm, tư tưởng của học trị, đóng góp cho việc giảng dạy ở trường

Dục Thanh.
Thời kỳ 1911 - 1930:
Thời kỳ hình thành tư tưởng giáo dục theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngay từ khi bước lên vũ đài chính trị, Hồ Chí Minh đã có những hoạt
động sơi nổi trong lĩnh vực giáo dục của mình như: Tố cáo chính sách giáo
dục ngu dân của thực dân Pháp, đòi quyền học tập, mở trường, giới thiệu nền
9


giáo dục tiến bộ của Liên Xơ, phác họa hình ảnh của tương lai về nhà trường
Việt Nam, gửi thiếu nhi Việt Nam sang học ở Liên Xô, mở trường “Mình lập”
để dạy cho con em Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan), tổ chức các lớp huấn luyện
cách mạng, xác định vai trò quan trọng của giáo dục trong các tổ chức cơng
hội và tổ chức dân cày được trình bày trong tác phẩm “Đường kách mệnh”
(1927) thể hiện sự hình thành các quan điểm cơ bản trong tư tưởng giáo dục
Hồ Chí Minh vào thời kỳ này. Đó là:
-Giáo dục gắn liền với nhiệm vụ chính trị và đời sống xã hội.
-Giáo dục phải đấu tranh chống chính sách ngu dân của giai cấp thống
trị và tiếp thu nền giáo dục tiên tiến, cách mạng.
-Giáo dục phải là quyền lợi và nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người.
Những cơ sở và lý luận và thực tiễn nêu trên được phản ánh trong các
văn kiện do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và được hội nghị thành lập Đảng
thông qua. Trong chánh cương vắn tắt của Đảng nêu rõ “phổ thơng giáo dục
theo cơng nơng hóa” và trong “lời kêu gọi” cũng nêu lên một trong mười
nhiệm vụ mà Đảng thực hiện: “Thực hành giáo dục toàn dân”.
Như vậy trong thời kỳ 1911-1930, Hồ Chí Minh từ nhận thức thực tiễn
đã tiếp thu quan điểm Macxit làm cơ sở quan trọng để xây dựng quan điểm
của Đảng trong việc tạo dựng nền giáo dục toàn dân, theo đường lối chủ
trương của giai cấp công nhân, phục vụ quyền lợi chủ yếu cho công nông. Từ
đây, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh đã trở thành đường lối giáo dục của

Đảng Cộng sản Việt Nam và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình cách mạng
Việt Nam.
 Thời kỳ 1930-1941:
Thời kỳ phát triển phong phú tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh.
Từ năm 1930, trên mặt trận giáo dục, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc
đấu tranh cho một nền giáo dục mới, cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chương trình hành động của Đảng năm 1932 đã nêu cụ thể những yêu
sách về giáo dục như sau: “Hết thảy con cái nhà lao động được học cho tới 16
tuổi, bằng tiếng mẹ đẻ…, các trường học nghề, bách nghệ, giáo dục cho nhà
nước và bọn địa chủ chịu phí tổn”. Triển khai chủ trương ấy, chương trình

10


hành động và giáo dục được vạch ra, như dân chủ các trường học, tự do mở
trường tư, cấm dạy về tôn giáo, đảm bảo việc làm sau khi hết học.
Thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, Đảng đề ra khẩu hiệu trường
học cho mọi người, thực hiện chủ trương truyền bá giáo dục, chống nạn thất
học, đang là yêu cầu khẩn thiết lúc bấy giờ. Đó cũng là nội dung trong cuộc
đấu tranh đòi tự do, dân chủ, chống chính sách ngu dân của thực dân Pháp ở
thuộc địa.
Trong thời gian từ 1934 đến 1938. Khi học tập và nghiên cứu ở Liên
Xơ, Hồ Chí Minh đã nêu lên một tấm gương về tinh thần tự học, độc lập suy
nghĩ trong học tập và nghiên cứu, đạt kết quả học tập cao, phương pháp học
tốt, luôn gắn lý luận với thực tế. Có thể nói, việc học tập và nghiên cứu trong
thời gian này làm phong phú nhận thức của người về những quan điểm lý luận
Macxit Leninit, về nhiều vấn đề nội dung và phương pháp của khoa học cơ
bản, khoa học giáo dục và tư tưởng giáo dục của Người ngày càng sâu sắc.
 Thời kỳ 1941 - 1945:

Thời kỳ khẳng định và thắng lợi của tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh.
Từ những nhận thức về giáo dục theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, Hồ Chí Minh đã bước đầu xây dựng được một hệ thống các quan
điểm; những quan điểm này trở thành quan điểm, đường lối giáo dục của
Đảng. Chúng ta nhận thấy điều này qua các Văn kiện của Đảng như “Chính
cương vắn tắt”, “Luận cương chính trị” (10-1930), “Chương trình Việt Minh”
(1941), “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943)… Hơn nữa, các đường lối,
chính sách này được thể hiện cụ thể trong đấu tranh cách mạng; trong các
phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945, đặc biệt trong khu
căn cứ địa Pác Bó, trong khu giải phóng Việt Bắc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vào thời kỳ này tập trung vào những điểm cơ bản sau:
-Chống giáo dục thực dân nô dịch, đòi quyền được học tập cho mọi
tầng lớp nhân dân.
-Vạch ra một đường lối chủ trương chính sách để thực hiện đường lối
giáo dục toàn dân.
-Xác định những nguyên tắc “Dân tộc, khoa học, đại chúng” cho văn
hóa giáo dục.
 Thời kỳ 1945-1969.

11


Đây là thời kỳ thắng lợi của tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh trong thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Bảng thống kê về số lần phát biểu của chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo
dục theo thời gian.
Năm
Số lần phát biểu
1945
4
1946

6
1947
13
1948
3
1949
2
1950
11
1951
3
1952
2
1953
0
1954
3
1955
20
1956
19
1957
4
1958
4
1959
12
1960
3
1961

5
1962
2
1963
6
1964
8
1965
0
1966
0
1967
0
1968
3
1969
5
Qua bảng thống kê trên ta thấy vấn đề giáo dục là vấn đề quan tâm suốt
cuộc đời của Người. Dù trong những năm tháng khó khăn, gian khổ của cuộc
cách mạng nhưng trong suốt thời kỳ này Bác vẫn ln ln sâu sát và có
những sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời cho việc xây dựng chính sách giáo dục
phù hợp với tình hình cách mạng nước ta. Thời điểm mà chủ tịch Hồ Chí
Minh phát biểu nhiều nhất về giáo dục là vào những năm 1947 (13 lần) và
năm 1955 (20 lần), 1956 (19 lần).

12


Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công; tại phiên họp đầu tiên
của chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra một trong ba nhiệm vụ cấp

bách là: “Diệt giặc dốt”. Thực hiện chủ trương của Người, phong trào xóa nạn
mù chữ nan rộng khắp cả nước. Hệ thống giáo dục phổ thông được cải tổ và
xây dựng bước đầu nhằm thực hiện mục tiêu của nền giáo dục dân chủ nhân
dân: “Tôn trọng nhân phẩm, rèn luyện chí khí, phát triển tài năng để phụng sự
Tổ quốc và góp phần vào cuộc tiến hóa chung của nhân loại”1.
Năm 1947 năm mà cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mới bắt
đầu, cuộc kháng chiến đang ở giai đoạn cực kỳ ác liệt. Nhà trường cần được
cải cách cho phù hợp với yêu cầu và hoàn cảnh chiến tranh.
Những bài phát biểu của chủ tịch Hồ Chí Minh, về giáo dục đã là
những chỉ thị có tính chất định hướng cho cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất
(1950). Cuộc cải cách lần này đã có những quyết sách rất quan trọng làm cho
hệ thống giáo dục quốc dân có khả năng chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho
công cuộc kháng chiến và kiến quốc lâu dài.
Năm 1955, 1956 kháng chiến chống Pháp thắng lợi nhưng đất nước
tạm thời bị chia cắt. Nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi phải chuẩn bị nguồn nhân
lực mới và cần tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới hiện đại hơn và quy
mô to lớn hơn. Đây là thời kỳ chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu nhiều nhất về
các vấn đề giáo dục và chỉ đạo cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai năm 1956
thắng lợi.
Qua các bài viết, bài nói trong 25 năm nay, tư tưởng giáo dục của Bác
được tổng kết và khái quát thành những điểm cơ bản sau:
-Giáo dục được khẳng định là một mặt trận trong cuộc kháng chiến bảo
vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước. Điều này không chỉ xác nhận những thành
tựu to lớn của giáo dục mà còn đặt nhiệm vụ nặng nề cho ngành phải góp
phần to lớn cho cuộc đấu tranh chung.
-giáo dục bao giờ cũng góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị nhất
định. Nguyên lý này có ý nghĩa khơng chỉ trong thời kỳ kháng chiến mà cả
trong hịa bình xây dựng.
-Nền giáo dục của chúng ta chịu ảnh hưởng, tác động của tư tưởng tiến
bộ, cách mạng.

1

Tuyên bố của Bộ giáo dục. Giáo dục Tân san, số 1 năm 1945.

13


-Công tác tổ chức và quản lý là một nhân tố quan trọng để xây dựng
nền giáo dục
-Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng.
Như vậy, tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng phải xuất
hiện một cách tùy tiện mà có quy luật ln ln gắn bó với sự vận động và
phát triển của cách mạng Việt Nam, luôn luôn đào tạo nguồn nhân lực và
nhân tài kịp thời nhằm đáp ứng những yêu cầu cụ thể của cách mạng, của sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Tóm lại, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh vận động và phát triển liên tục
theo hướng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì hạnh phúc mỗi con người
và toàn nhân loại.

14


Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
TRONG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC HỒ CHÍ MINH
2.1. Sơ lược lịch sử giáo dục Việt Nam trước năm 1945.
Trong một ý nghĩa nhất định, giáo dục hình thành cùng với sự xuất hiện
của con người. Thời kỳ xã hội nguyên thủy, lớp người già đã dạy dỗ thế hệ trẻ
biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động, truyền thụ kinh nghiệm sản xuất,
quan hệ và lối sống cộng đồng. Giáo dục nhà trường ra đời khi có chữ viết.
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục nhằm phục vụ giai cấp thống trị, khơng có

giáo dục “vơ tư”, “phi chính trị” trong một xã hội phân chia thành giai cấp đối
kháng. Cuộc đấu tranh cho một nền giáo dục tiến bộ bao giờ cũng gắn với
cuộc đấu tranh vì một xã hội cơng bằng tiến bộ. Vì vậy, giáo dục ln là cơ sở
cho sự tồn tại, động lực cho sự phát triển của xã hội, được nhân dân, các giai
cấp thống trị quan tâm, xây dưng, sử dụng theo mục đích của mình.
Nhân dân Việt Nam có lịch sử lâu đời trong q trình dựng nước và giữ
nước và cũng có một nền giáo dục truyền thống nhưng suốt 2700 năm tồn tại
như một quốc gia - trong đó đã có gần 1200 năm bị ngoại xâm đô hộ - đến
năm 1945, nền giáo dục của nước ta bị nhiều kìm hãm, chưa có một nền quốc
học thực sự.
Đối tượng giáo dục trong tư tưởng Nho giáo không phân biệt kẻ sang
người hèn, kẻ cao người thấp, điều này thể hiện rõ tính nhân văn và sự bình
đẳng trong giáo dục. Nội dung và phương pháp giáo dục trong Nho giáo được
định vị một cách chặt chẽ. Nội dung có tính phổ cập cho tất cả mọi người là
“dạy đạo làm người, đạo cương thường”. Nội dung cụ thể của nó phản ánh
quan hệ, nghĩa vụ, trách nhiệm của con người đối với bản thân, gia đình và xã
hội.
Nhưng bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại một số hạn chế trong giáo dục Nho
giáo như: không chú ý đến giáo dục khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, kiến
thức về sản xuất kinh doanh, coi thường lợi ích cá nhân - thủ tiêu động lực của
sự phát triển cùng với những tư tưởng bảo thủ lạc hậu (trọng nam khinh nữ, coi
thường lao động chân tay,…) đã làm cản trở bước tiến của lịch sử.
Tuy nhiên, tư tưởng Nho giáo vào nước ta đã được Việt hóa rất nhiều
và trở thành nét đẹp trong nền văn hóa Việt Nam. Mặc dù Nho học và Nho
15


giáo có nhiều hạn chế nhưng nó đã trở thành cơng cụ hữu ích góp phần quản
lý xã hội và giáo dục con người ở nước ta thời kỳ này.
Từ giữa thế kỷ XIX đến hai thập niên đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp

vẫn giữ nguyên nền giáo dục phong kiến Nho học của triều Nguyễn. Mãi đến
năm 1917 mới ban hành bộ luật đầu tiên về giáo dục. Theo luật này, từ năm
1919 khơng cịn trường học chữ Hán và hoàn toàn bãi bỏ các khoa thi hương,
thi hội. Từ đó, hệ thống giáo dục nước ta phỏng theo hệ thống giáo dục ở
Pháp. Theo chương trình này, ở một số ít xã đơng dân được mở trường sơ học,
gồm 1-2 lớp đầu bậc tiểu học; Ở một số thị trấn thị xã có trường tiểu học gồm
6 năm học, một số thành phố lớn có ít trường cao đẳng tiểu học; chỉ có ở Hà
Nội, Huế, Sài Gịn mỗi nơi có một trường cao trung gồm 3 năm học. Cũng
trong thời gian này, thực dân Pháp bắt đầu phát triển một số trường chuyên
nghiệp dạy nghề.
Như vậy, giáo dục ở Việt Nam thời Pháp thuộc đã xây dựng theo tư
tưởng chỉ đạo là chỉ phát triển giáo dục theo chiều ngang, chứ không theo
chiều dọc, tức là chủ yếu tập trung mở nhiều trường sơ học gồm 3 lớp đầu bậc
tiểu học, quy mô giáo dục quá nhỏ, thu hút vẻn vẹn 2,6% dân số chủ yếu đào
tạo nguồn phục vụ bộ máy cai trị của thực dân. Hồn tồn khơng có căn cứ để
có thể nói tới một nền giáo dục nhân dân, mà đó chỉ là một con số trường học
để cho những người nhẹ dạ có thể tin vào cái gọi là chinh sách khai hóa của
thực dân.
Trong yêu sách gửi Nghị viện Pháp và đoàn đại biểu dự hội nghị
Vecxây, Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu: “Tự do học tập, thành lập các trường kỹ
thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ… Tiếp đó, năm
1930, Nguyễn Ái Quốc nêu ra khẩu hiệu “thực hành giáo dục toàn dân”. Tức
là phải tiến hành phổ cập giáo dục, cực lực lên án chủ trương giáo dục của
thực dân Pháp đối với ngừơi Việt Nam “hủy bỏ nền giáo dục nô lệ và thuộc
địa, xây dựng nền giáo dục quốc dân; hết thảy con cái người lao động được
học bằng tiếng mẹ đẻ, được học nghề cho đến 16 tuổi”.
Từ 1926 đến 1935, Tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở
nhiều lớp học chữ quốc ngữ cho nhân dân lao động và thanh niên. Trong cao
trào cách mạng 1930-1931, công cuộc chống nạn thất học được đẩy mạnh.


16


Năm 1938, hội truyền bá chữ quốc ngữ được thành lập, thu hút hàng vạn
người đi học, kết hợp việc học chữ và phát triển phong trào cách mạng.
Năm 1945, Việt Nam có hơn 95% số dân mù chữ, trong đó tỉ lệ phụ nữ
và người dân thiểu số mù chữ chiếm số lượng lớn. Việc mở trường của thực
dân Pháp nhằm thực hiện chính sách giáo dục nơ dịch và đồng hóa, thực chất
là chính sách ngu dân đã làm cho dân tộc ta chìm đắm trong vịng trì trệ ngu
muội, nền giáo dục của ta đã lạc hậu cịn lạc hậu hơn.
2.2. Hồ Chí Minh - người đặt nền tảng cho giáo dục Việt Nam hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế tục và phát triển cao hơn cuộc đấu
tranh đòi quyền dân sinh dân chủ của thế hệ những người Việt Nam yêu nước
cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX, từ các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và
các sĩ phu yêu nước. Người đã tố cáo đanh thép, có hệ thống trước cơng luận
trong nước và ngồi nước tội ác của chế độ thực dân trong việc “làm cho dân
ngu để dễ trị” và trong việc gieo rắc một nền “giáo dục đồi bại xảo trá và
nguy hiểm hơn cả sự dốt nát”, dũng cảm đấu tranh trực diện với bè lũ thống
trị thực dân Pháp, đòi quyền “tự do học tập” và thực hành giáo dục toàn dân.
Đồng thời, người đã để cơng tìm kiếm, phát hiện và giới thiệu cho đất nước
những tiến bộ của nền giáo dục kiểu mới - nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ
nghĩa mang tính nhân đạo và tính dân chủ cao, bảo đảm cho sự phát triển
hồn tồn những năng lực sẵn có của con người.
Cùng với thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Tám, Người đã khai
sinh ra nền giáo dục mới, tiến bộ, dân tộc, nhân dân, khoa học, dân chủ và đại
chúng, đặt cơ sở cho nền quốc học nhân dân của nước ta - nền giáo dục Việt
Nam hiện đại. Trong hồn cảnh cực kỳ khó khăn của buổi đầu mới giành
được độc lập, giữa lúc kinh tế kiệt quệ, thiên tai, nạn đói hồn hành, thù trong
giặc ngoài ra sức chống phá để tiêu diệt cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
kêu gọi tồn dân ra sức thực hiện 3 nhiệm vụ vô cùng trọng đại và cấp bách là

diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của công cuộc biến đổi cả dân
tộc từ chỗ hơn 95% dân số mù chữ, dân ta đã trở thành một dân tộc có văn hóa,
khoa học, đủ khả năng để giành độc lập tự do cho đất nước và ngày nay có một
đội ngũ trí thức tài năng, tận tụy vì sự nghiệp giải phóng nhân dân, xây dựng đất
nước. lãnh đạo nhân dân thực hiện hàng loạt chủ trương to lớn, đúng đắn và
17


sáng suốt, như phổ cập giáo dục cơ sở, từng bước nâng cao trình độ học vấn,
phổ thơng cho người lao động, đào tạo cán bộ, đào tạo nhân tài, bồi dưỡng
cho đất nước một thế hệ công nhân, nông dân, quân nhân, trí thức cả trai và
gái, thuộc mọi tầng lớp, mọi dân tộc, giàu lòng yêu nước, quý trọng độc lập tự
do, tận tụy phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, biết tự rèn luyện mình theo
những chuẩn mực đạo đức và những giá trị văn hóa tinh thần cao đẹp: cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, không ngừng khiêm tốn học hỏi, dũng
cảm, năng động, sáng tạo trong lao động và chiến đấu, kế tục sự nghiệp cách
mạng vẻ vang của đảng và dân tộc.
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là cơ sở, là nguồn ánh sáng soi đường
cho sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam trong gần nửa thế kỷ qua và cả
trong các giai đoạn cách mạng sắp tới. Mọi thành quả to lớn trong lĩnh vực
giáo dục của Người, do Người đề ra các mục sát hợp, chỉ ra cách làm sáng
tạo, động viên và tổ chức các lực lượng đông đảo của xã hội tham gia sự
nghiệp bồi dưỡng và đào tạo những thế hệ mới.
2.3.Những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh.
2.3.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị và mục đích của giáo dục.
Hồ Chí Minh nhận rõ vai trị của giáo dục trong việc cải tạo, phát triển
con người, làm biến đổi con người cũ xây dựng con người mới. Người viết:
“Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”

Với ý nghĩa đó, giáo dục quyết định đến sự biến đổi của tư tưởng, tâm
lý và nâng cao trình độ nhận thức của con người. Giáo dục trở thành điều
kiện, tiền đề cho việc hình thành và phát triển bản chất người. Nó là “vũ khí
rất sắc bén để giúp chúng ta cải tạo con người”.
Giáo dục không chỉ là nhân tố tác động mạnh mẽ vào lĩnh vực kinh tế,
văn hố, xã hội, mà nó cịn có ý nghĩa hết sức lớn lao trong việc đào tạo con
người. Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, giáo dục có vai trị quan
trọng tác động vào các hoạt động khác và các quan hệ xã hội. Chiến lược phát
triển giáo dục gắn liền với việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế, văn
hố, xã hội, trong đó, vai trị của giáo dục là cung cấp nguồn nhân lực cho sự
phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. “Khơng có giáo dục, khơng có cán bộ thì
càng khơng nói gì đến kinh tế và văn hoá”.
18


Giáo dục được coi là một mặt trận quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam. Giáo dục có vai trị nâng cao trình độ nhận thức về đường lối
chính sách của Đảng và chính phủ; giáo dục nhất thiết phải gắn liền với sản
xuất và đời sống của nhân dân, “văn hoá giáo dục phải phát triển mạnh để
phục vụ u cầu cách mạng”. Vì theo Hồ Chí Minh “một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”. Vì vậy, mà Người đã kêu gọi toàn thể nhân dân phải “tẩy sạch”
những ảnh hưởng của nền giáo dục thực dân, như: thái độ thờ ơ đối với đời
sống xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy
bằng cấp, chạy theo lối nhồi sọ.
Mục đích xuyên suốt trong triết lý giáo dục con người ở Hồ Chí Minh
ln gắn liền với mục đích cao cả của Người trong hoạt động thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đó là một nền giáo dục mới vì con người và cho con người;
vì ấm no, tự do, và hạnh phúc của nhân dân; vì cuộc sống được làm chủ bản
thân và làm chủ xã hội. Tư tưởng sâu sắc trong triết lý giáo dục của Hồ Chí
Minh ở chỗ khơng chỉ là giải phóng con người khỏi áp bức bất cơng trong xã

hội mà cịn nâng giá trị con ngừơi về mặt văn hóa và nhận thức. Để làm được
điều đó thì phải xây dựng cho được chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa. Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh khơng có
con đường nào khác ngoài con đường của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp giáo dục phù hợp với từng
thời kỳ cách mạng. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã xác định được
vị trí, vai trị của giáo dục trong việc nâng cao trình độ, tinh thần yêu nước
cho mọi người. Tiến tới thành lập Đảng, Bác đặc biệt chú ý đến giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức cho người cách mạng. Giai đoạn toàn quốc kháng
chiến và xây dựng nền dân chủ, giáo dục tập trung xây dựng nền văn hóa
phục vụ cho mục tiêu lớn lao là kháng chiến kiến quốc. Khi nước ta thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược, giáo dục có nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ làm chủ vận
mệnh tương lai, xây dựng đất nước, giữ vững hịa bình, thống nhất Tổ quốc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh ln gắn liền với thực tiễn cách mạng Việt Nam, điều
đó đã làm cho tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh mang tinh khoa học sâu sắc.
Từ chỗ chỉ ra vị trí và tầm quan trọng của giáo dục đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh quan niệm đối tượng giáo dục là tất cả
19


của mọi người, không phân biệt già, trẻ, trai, gái, thành phần giai cấp trong xã
hội. Đặc biệt “phụ nữ lại càng cần phải học tập, đã lâu chị em bị kìm hãm,
đây là lúc chị em cần phải cố gắng để kịp nam giới, xứng đáng mình là một
phần tử trong nước”1. Bác coi nhiệm vụ nặng nề của ngành giáo dục đặt trực
tiếp lên vai nhà giáo: “nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang vì khơng
có thầy giáo thì khơng có giáo dục”2. Trong điều kiện kinh tế cịn khó khăn,
Bác đã động viên những người làm cơng tác giáo dục: “lương ít, cơng việc
nhiều, khổ là chung, khổ ấy là khổ gần một thế kỷ mất nước, nô lệ để lại”.
Sau này kinh tế khá thì đời sống vật chất khá hơn. Vì thế, mọi người nên yên

tâm công tác. Phải hiểu rằng không có gì vẻ vang bằng việc chăm nom bồi
dưỡng cho các cháu - những chủ nhân tương lai của nước nhà. Làm nhà giáo
phải có “chí khí cao thượng”, phải “tiên ưu lạc hậu”, coi đó là sự nghiệp cao
quý của mình. Cho nên nhà giáo phải “thương yêu các cháu như con em ruột
thịt của mình”. Trong khi quan tâm về đạo đức nhà giáo, Bác cũng kêu gọi
những người giáo viên phải biết tự sửa mình, làm gương, học tập nâng cao
trình độ để vươn lên mãi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục đích của giáo dục có ý nghĩa lớn lao
trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, góp phần quan trọng quyết định
thắng lợi của cách mạng tháng Tám đến việc hồn thành cơng cuộc kháng
chiến kiến quốc và góp phần đắc lực trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
2.3.2. Nội dung giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mục tiêu của sự nghiệp giáo dục đào tạo nước ta là từng bước hình
thành lớp người Việt Nam có đủ đức, đủ tài, vừa hồng, vừa chuyên, hồng
thắm, chuyên sâu. Để đạt đựơc mục tiêu đó, Hồ Chí Minh khẳng định mỗi
cơng dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ phải được giáo dục một cách toàn
diện.
Theo quan điểm của Bác, nền giáo dục toàn diện trước hết phải là nền giáo
dục kết hợp chặt chẽ văn hóa, khoa học với chính trị. Trong nhiều trường hợp, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh “phải ra sức học tập văn hóa, chính trị, khoa học kỹ thuật”.
Người chỉ rõ: Nếu không học tạp văn hố, khơng có trình độ văn hố thì khơng
thể tiếp thu khoa học kỹ thuật và chuyên môn nghiệp vụ, nếu chỉ học văn hoá,
1
2

Sđd Tập 4, tr.37.
Sđd Tập 8, tr.184.

20



khoa học kỹ thuật mà khơng học tập chính trị thì “như người nhắm mắt mà đi”.
Hồ Chí Minh địi hỏi mọi người “cần nhớ và thực hiện đầy đủ 3 điểm ấy”.
Trước hết, cần giáo dục cho học sinh lịng u nước, nâng cao trình độ
lý luận chính trị cho mọi người. Trên cơ sở giáo dục tinh thần u nước, Hồ
Chí Minh cịn chú ý đến việc nâng cao trình độ giác ngộ chính trị cho mọi
người. Trong việc học tập chính trị, cần đặc biệt coi trọng các mơn lý luận
Mác Lênin là đỉnh cao của trí tuệ và văn hố khoa học. Theo Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa Mác - Lênin soi phương hướng, đường lối cho giáo dục đào tạo
phát triển và là mảnh đất màu mở cho các nhà khoa học, các thầy cô giáo, học
sinh, sinh viên nghiên cứu, khám phá. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin “khơng
có gì cao xa” mà là sống với nhau có tình có nghĩa, hết lịng phụng sự Tổ
quốc, phụng sự nhân dân.
Hai là, phải giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống cho mọi người. Hồ Chí
Minh quan niệm: “Nếu ta khơng chuẩn bị sẵn sàng, khơng kịp thời lãnh đạo,
thì tư tưởng sẽ hỗn loạn, hành động sẽ hỗn loạn”. Cho nên, “Bồi dưỡng tư
tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở
thành con người mới”.
Từ quan điểm trên Hồ Chí Minh đưa ra nội dung giáo dục về đạo đức
hết sức mới mẻ và sâu sắc. Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng so
với đạo đức dưới chế độ thực dân phong kiến là hồn tồn khác nhau. Người
ví “đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức
mới như người hai chân đứng vững dưới đất đầu ngẩng lên trời. Bọn phong
kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng khơng bao giờ làm mà lại
bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi của chúng. Ngày nay ta đề
ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương để nhân dân theo
làm lợi cho dân”1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là toàn diện cả đức và
tài, cho nên nguyên tắc cơ bản trong tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng là lời nói đi đơi với việc làm. Giáo dục đạo đức cách mạng khơng có

nghĩa là phá bỏ tất cả những tưởng cũ mà chỉ bỏ những gì cũ kỹ, lạc hậu, gây
tác hại xấu đối với sự nghiệp cách mạng. Người luôn tiếp thu những giá trị
đạo đức được đúc kết bởi truyền thống dân tộc và tinh hoa nhân loại. Do đó

1

Sdd, t.6,tr.320-321

21


đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa mang tính giai cấp, tính dân tộc,
vừa rộng lớn, phong phú song cũng hết sức thiết thực và sâu sắc.
Ba là, phải giáo dục văn hố, trình độ chun mơn và tinh thần yêu lao
động. Hồ Chí Minh quan niệm: “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo
tư tưởng tốt phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hoá và chuyên môn nhằm
thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời
gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật”. Với nội dung đó,
giáo dục chẳng những có vai trò xây dựng xã hội mới mà còn nâng cao trình
độ của nhân dân trong quá trình thực hiện đời sống mới và thưởng thức những
thành quả do con người sáng tạo ra. Ngồi ra, Người cịn chú ý tới việc giáo
dục cho mọi người tinh thần yêu lao động, quý trọng lao động, xem “ lao
động là nghĩa vụ thiêng liêng của công dân đối với Tổ quốc”. Mỗi người phải
tùy theo khả năng, tự nguyện, tự giác tham gia lao động, góp phần xây dựng
nước nhà.
Bốn là, phải giáo dục sức khỏe và mỹ dục cho mọi người.
Trong quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, lao động là yếu
tố cơ bản của sự tồn tại và phát triển xã hội. Song “muốn lao động sản xuất tốt,
công tác và học tập tốt thì cần có sức khỏe. Muốn giữ gìn sức khỏe thì thường
xuyên thể dục, thể thao”1. Thể dục để làm cho thân thể mạnh khỏe. Sức khỏe có

vị trí tầm quan trọng hết sức lớn lao trong việc xây dựng con người mới, xã hội
mới.
Xây dựng xã hội vì con người, cho con người là mục đích cao nhất
trong tưởng Hồ Chí Minh. Ở đó con người khơng chỉ được thỏa mãn về nhu
cầu vật chất mà còn được thưởng thức về mặt tinh thần, thưởng thức thẩm
mỹ. Bác giải thích: mỹ dục là để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là khơng đẹp.
Chữ mỹ nghĩa là tốt đẹp, thiện cũng là tốt đẹp. Trong xã hội khơng có gì tốt
đẹp vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân. Như vậy, giáo dục thẩm mỹ
thực hiện điều thiện và giáo dục phục vụ lợi ích của nhân dân là tốt đẹp.
Những nội dung giáo dục trên đây phải được đưa vào chương trình của
tất cả các lớp, các cấp thuộc hệ thống giáo dục - đào tạo quốc dân. Tuy vậy,
trong thực tế, việc vận dụng căn cứ vào các cấp học và loại hình đào tạo. Hồ
Chí Minh đã nêu lên những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận:
1

Sdd, t.10, tr. 166

22


+ Đối với đại học cần kết hợp học lý luận khoa học với thực hành, ra
sức học lý luận và khoa học tiên tiến trên thế giới, kết hợp với thực tiễn nước
nhà.
+ Đối với trung học cần bảo đảm cho học sinh những kiến thức phổ
thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đề xây dựng đất
nước, bỏ những phần nào không cần cho cuộc sống thực tế.
+ Đối với tiểu học cần giáo dục cho các cháu 5 điều: “yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào, …”. Cách dạy phải nhẹ nhàng, vui vẻ, chớ gị ép các cháu vào
khn khổ của người lớn.
Những quan điểm được Hồ Chí Minh nêu lên cách đây gần nửa thế kỷ

vẫn là nền tảng tư tưởng trong thế kỷ XXI. Bởi nền giáo dục toàn diện trong
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền giáo dục mang tính nhân dân sâu sắc, nền giáo
dục không chỉ dành riêng cho một số người hoặc một giai cấp mà toàn thể
quốc dân Việt Nam.
2.3.3. Phương pháp giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Phương pháp học kết hợp với hành, lời nói đi đơi với việc làm, lý
luận gắn liền với thực tiễn.
Một trong những phương pháp luận có tính nguyên tắc trong tư tưởng
giáo dục của Hồ Chí Minh, đó là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn. Đó là một nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh và là một
trong những yếu tố góp phần làm cho tư tưởng của Người có sức sống trường
tồn và sức mạnh cải tạo vĩ đại. trong sự nghiệp xây dựng nền giáo dục mới,
Hồ Chí Minh đã xem nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là cơ sở,
là nền tảng trong việc thiết lập các phương pháp giáo dục.
Từ nguyên tắc đó, bác Hồ quan niệm: “Các cháu học sinh không nên
học gạo, không nên học vẹt,…học phái suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế,
học với hành phải kết hợp với nhau” 1 kết hợp chặt chẽ lý luận với thực hành,
giáo dục với lao động. Phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa học với hành góp
phần quan trọng đến sự chuyển hướng từ nền giáo dục thực dân phong kiến
sang nền giáo dục mới xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội phong kiến, “học một
đường hành một nẻo. Nay phải sữa chương trình làm sao để học thì hành
được ngay”2. Đó là phương pháp dạy và học của nền giáo dục mới, trong đó
1
2

Sdd, T. 11, Tr. 331
Sdd, T. 5, Tr. 59-60

23



người học có kiến thức đến đâu, thực hành được đến đó, lời nói đi đơi với
việc làm. Với phương pháp này, người học có thể học trong mọi điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau: Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân
dân, không học nhân dân là một thiếu sót lớn. Phải nêu cao tác phong độc lập
suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, khơng tin
một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thơng suốt thì
mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẻ.
Nền giáo dục mới đào tạo ra con người tồn diện phục vụ cơng cuộc
cải tạo, xây dựng xã hội mới. Vì vậy học phải gắn liền với sản xuất. Sự kết
hợp này không chỉ trang bị cho người học nắm vững những kiến thức cơ bản
mà cịn đào tạo họ thành những con người có đức tính cần cù, siêng năng để
sau này trở thành cơng dân tốt, hăng hái thực hiện đời sống mới và xây dựng
xã hội mới.
* Giáo dục phải kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
C.Mác đã từng nói: “Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội”. Cho nên đào tạo trong nhà trường chỉ là một phần cịn cần có sự giáo
dục ở ngồi xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà
trường được tốt hơn. “Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo
dục trong gia đình và ngồi xã hội thì kết quả cũng khơng hồn tồn”. Chỉ khi
nhà trường, gia đình và xã hội cùng nhau phụ trách việc giáo dục đào tạo thì
kết quả của sự nghiệp này mới hoàn hảo. Người từng nhắc nhở: Giáo dục
thanh niên phải liên hệ vào dư luận xã hội, lực lượng của chính phủ để có thể
ngăn ngừa những ảnh hưởng xấu đến thanh niên. Với phương pháp này, mọi
người có thể học hỏi lẫn nhau, “học trong xã hội, nơi công tác thực tế, học ở
quần chúng”.
Với phương pháp giáo dục kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội,
Bác rát quan tâm chú ý đến việc làm gương của mọi người. Làm gương là
một trong những cách thức giáo dục mang lại hiệu quả cao bởi sự thiết thực,
sinh động, cụ thể: “Phải làm gương, gắng làm gương trong anh em và khi đi

công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả 3 mặt: tinh thần, vật
chất và văn hoá”. Làm gương không chỉ là phương pháp giáo dục mà qua đó,
những việc làm của người làm gương cũng trở thành nội dung giáo dục để họ
tự giáo dục và giáo dục người khác. Cho nên nhà giáo “ngoài tri thức phải có
24


đạo đức cách mạng. Thầy giáo phải làm khuôn mẫu cho các cháu. Làm được
như thế là làm tròn nhiệm vụ” 1. Với ý nghĩa đó, làm gương khơng chỉ là
phương pháp giáo dục mà còn thể hiện nhiệm vụ, trách nhiệm của một nhà
giáo đối với học trị.
Để có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba lực lượng nêu trên, theo Hồ Chí
Minh cần phát huy đầy đủ tính dân chủ, xây dựng mối quan hệ đàn kết giữa
thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa
nhà trường với nhân dân.
* dạy học tùy theo đối tượng, lấy người học làm trung tâm.
Với phương pháp lấy người học làm trung tâm, Hồ Chí Minh ln u
cầu việc dạy và học phải dựa trên năng lực, điều kiện và trình độ của người
học. Bác coi đó là cơ sở hàng đầu cho việc phát huy năng lực sáng tạo của
mọi người và nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục. Cho nên, giáo dục phải
căn cứ vào đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh của người học mà truyền đạt nội
dung và bổ sung cách thức giáo dục cho phù hợp. Người nói: “Bất cứ việc to,
việc nhỏ, chúng ta phải nhận xét rõ và làm cho phù hợp trình độ văn hố, thói
quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lịng ham, ý muốn,
tình hình thiết thực của quần chúng”. Nâng cao trình độ của mọi người là quá
trình được giáo dục và tự học tập, nghiên cứu suốt đời.
Giáo dục không chỉ xác định đúng đối tượng mà cịn phải tìm hiểu điều
kiện, hồn cảnh dạy học cụ thể. Phương pháp giáo dục phải linh hoạt, mềm
dẻo, phù hợp với đối tượng, công việc, trách nhiệm cụ thể của từng người.
Nhà giáo phải học hỏi, biết lắng nghe ý kiến người khác để làm giàu tri thức

cho mình.
Tóm lại, phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh thấm nhuần triết lý hành
động của phương Đông, được soi sáng bởi thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - lênin nên hết sức đa dạng, phong phú, sinh động. Trong
việc vận dụng kết hợp các phương pháp, Hồ Chí Minh lấy điểm xuất phát từ
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm cơ sở và phương pháp lấy
người học làm trung tâm là yếu tố hàng đầu trong việc xây dựng các phương
pháp giáo dục. Tất cả những phương pháp ấy được thâu tóm bằng tưởng
1

Sdd, T. 8, Tr. 184

25


×