Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận cao học, môn lịch sử quan hệ quốc tế, những diễn biến chủ yếu của cuộc chiến tranh lạnh giữa hai cực xô – mĩ qua việc giải quyết vấn đề đức sau năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.68 KB, 18 trang )

TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI
NHỮNG DIỄN BIẾN CHỦ YẾU
CỦA CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH GIỮA HAI CỰC XÔ - MỸ
QUA VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐỨC SAU NĂM 1945

0


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CUỘC ĐỐI ĐẦU XÔ – MĨ VÀ VIỆC CHIA
CẮT NƯỚC ĐỨC TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II

TRANG
2
3
3

ĐẾN NĂM 1949
1
1.1
1
1.2

Khái quát về cuộc chiến tranh lạnh
Cuộc đối đầu Xô – Mĩ và việc chia cắt nước Đức
từ sau chiến tranh thế giới II đến năm 1949.


Chương 2: CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH GIỮA HAI

CỰC XÔ-MĨ XUNG QUANH VẤN ĐỀ ĐỨC TỪ THẬP NIÊN
2
2.1
2

khối quân sự đối lập.
Bức tường Béclin - biểu hiện cao nhất của sự đối

2

đầu giữa Mĩ và Liên Xô
Hiệp ước về những cơ sở của quan hệ giữa Cộng

2.2
2.3
2.4

50 ĐẾN THẬP NIÊN 90 CỦA THẾ KỈ XX
Việc tái vũ trang lại Tây Đức và sự hình thành hai

hịa liên bang Đức và Cộng hòa dân chủ Đức năm 1972.
2
Từ cuộc khủng hoảng chính trị ở Cộng hịa dân
chủ Đức đến việc tái thống nhất nước Đức năm 1990.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


3
3
10
11
11
12
14
16
17


PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử loài người đã chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh với rất nhiều
hình thái và diễn biến, cùng với những hệ quả khác nhau đối với sự phát triển
của xã hội loài người. Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường Liên Xô và
Mĩ, giữa hai khối Đông và Tây (1947 – 1989) là một cuộc chiến tranh khác lạ,
khơng bởi chỉ vì cái tên của nó mà cịn cả vì hình thái, diễn biến, cách đánh
giá và nhận định về tác động của nó đối với cục diện thế giới. Trong đó, một
vấn đề quan trọng, trung tâm của cuộc chiến là việc giải quyết vấn đề Đức trở
thành một đề tài thu hút được rất nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều
học giả trên thế giới với nhiều quan điểm, nhận định khác nhau.
Sau chiến tranh thế giới II, một trong những vấn đề nổi lên hàng đầu
trong quan hệ quốc tế là vấn đề nước Đức, thủ phạm chính gây nên chiến
tranh. Mặc dù cùng thống nhất với nhau trong chủ trương “ tiêu diệt tận gốc
chủ nghĩa phát xít Đức ” nhưng trong q trình thực hiện chủ trương này,
Liên Xơ – Mĩ đã bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt. Với âm mưu biến Tây Đức
thành tiền đồn “ngăn chặn” các nước đi theo chủ nghĩa cộng sản do Liên Xô
đứng đầu, Mĩ và các nước Tây Âu đã ra sức thực hiện âm mưu chia cắt nước
Đức, không ngừng tăng cường bánh trướng ảnh hưởng của mình tại đây.

Trong khi đó, Liên Xơ và các nước chủ nghĩa xã hội lại muốn tiêu diệt hoàn
toàn chủ nghĩa quân phiệt Đức, trung lập và dân chủ hóa nước này, xóa bỏ
hồn tồn nguy cơ bị nước Đức tấn cơng một lần nữa như trong lịch sử hai
cuộc chiến tranh thế giới. Vì thế, nước Đức, sau chiến tranh thế giới thứ hai
trở thành điểm nóng nhất trong quan hệ quốc tế. Không ở đâu và không ở nơi
nào, chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường Liên Xô – Mĩ, giữa hai khối Đông
và Tây lại căng thẳng và diễn biến phức tạp như ở nước Đức. Cho nên,
tìm hiểu về chiến tranh lạnh thì khơng thể khơng tìm hiểu về vấn đề Đức,
hay nói cách khác, thơng qua vấn đề Đức, có thể thấy được những nét diễn
biến chủ yếu của chiến tranh lạnh.
Chính vì những lí do trên, tơi đã mạnh dạn chọn đề tài “Những diễn
biến chủ yếu của cuộc chiến tranh lạnh giữa hai cực Xô – Mĩ qua việc giải
quyết vấn đề Đức sau năm 1945” làm đề tài tiểu luận của mình.
2


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CUỘC ĐỐI ĐẦU XÔ – MĨ VÀ VIỆC CHIA CẮT NƯỚC ĐỨC
TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II ĐẾN NĂM 1949
1. 1. Khái quát về cuộc chiến tranh lạnh
Sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, trong quan hệ quốc tế nảy
sinh nhiêu mâu thuẫn và bất đồng mới, đặc biệt là hai siêu cường Liên Xô –
Mĩ, hai nước đứng đầu hai hệ thống xã hội đối lập nhau là TBCN và XHCN.
Chính những bất đồng này, cộng với môi trường quốc tế sau chiến tranh và
nhu cầu bảo đảm, mở rộng lợi ích quốc gia mà mối quan hệ đồng minh giữa
Mĩ và Liên Xô trong chiến tranh thế giới II bị thay thế bằng quan hệ đối đầu
căng thẳng trong một cuộc chiến tranh mới, chiến tranh lạnh.
Đến ngày nay, việc định nghĩa và nêu lên những đặc trưng của chiến
tranh lạnh vẫn còn là một đề tài gây nhiều tranh cãi trong các học giả trên

tồn thế giới. Trong đó, khái niệm “chiến tranh lạnh” do Baruch, tác giả của
kế hoạch nguyên tử lực của Mỹ ở Liên Hợp Quốc đặt ra, xuất hiện lần đầu
tiên trên báo chí Mỹ ngày 26.7.1947 được khá nhiều người đồng ý. Theo đó
thì cuộc chiến tranh lạnh là “chiến tranh không nổ súng, không đổ máu”
nhưng “ln ở tình trạng chiến tranh” nhằm “ngăn chặn” rồi “tiêu diệt” Liên
Xô. Tuy nhiên, trong định nghĩa về chiến tranh lạnh này cũng còn nhiều vấn
đề gây tranh cãi: Cuộc “chiến tranh lạnh” giữa các nước xã hội chủ nghĩa do
Liên Xô đứng đầu và các nước phương Tây do Mỹ đứng đầu là hình thức
chiến tranh đặc biệt, trong một thời gian nhất định thể hiện sự đối đầu giữa
hai siêu cường, hai khối Đông – Tây được khởi phát từ sau chiến tranh thế
giới thứ II, cụ thể là ngay từ 1945 và chính thức bùng nổ vào năm 1947. Đặc
trưng của nó là sự liên kết bền chặt giữa các thành viên mỗi khối (Mỹ và các
nước TBCN, Liên Xô và các nước XHCN) cũng như sự căng thẳng, tác động
mạnh mẽ đến tất cả các mối quan hệ giữa hai phe, song chưa có chiến tranh
nóng, nghĩa là chưa xảy ra đối đầu trực tiếp có vũ trang giữa hai siêu cường
Xơ – Mĩ, hai khối Đông – Tây.
Cuộc chiến tranh lạnh kéo dài hơn 4 thập kỉ từ năm 1947 đến 1989.
Trong cuộc chiến này, cả hai bên đều ra sức chạy đua để lôi kéo đồng minh và
xây dựng các tổ chức qn sự, kinh tế, chính trị của mình. Từ đó hình thành
3


trên thế giới hai khối kinh tế, quân sự đối lập nhau là khối kinh tế, quân sự
của các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu và khối kinh tế, quân sự
của các nước tư bản chủ nghĩa do Mĩ đứng đầu. Hai khối này mỗi khối lại có
hệ tư tưởng riêng, có lậptrường riêng và cạnh tranh gay gắt với nhau. Trong
hơn 40 năm ấy, chiến tranh lạnh diễn biến hết sức phức tạp, có những lúc
căng thẳng tới đỉnh điểm, song cú lúc lại hòa hỗn với sự thương lượng giữa
đơi bên nhằm tránh một cuộc chiến tranh hạt nhân hủy diệt mà nếu nổ ra sẽ
khơng có kẻ thắng người thua.

Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường Xô và Mĩ, hai khối Đông và
Tây đã chi phối hầu hết các mối quan hệ quốc tế trong thời gian này, đã để lại
nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với các quốc gia bị lôi vào guồng quay của
nó. Tiêu biểu nhất cho việc này là nước Đức, nơi mà cuộc chiến giữa hai siêu
cường Liên Xô và Mĩ, hai khối Đông và Tây luôn ln ở trong tình trạng
căng thẳng nhất, quyết liệt nhất.
1.2. Cuộc đối đầu Xô – Mĩ và việc chia cắt nước Đức từ sau chiến
tranh thế giới II đến năm 1949.
1.2.1. Âm mưu của Mĩ
Sau hội nghị Poxđam, lo ngại trước uy tín chính trị và ảnh hưởng của
Liên Xơ trên trường quốc tế ngày càng mở rộng sau chiến thắng vĩ đại của
Liên Xơ trước chủ nghĩa phát xít Đức và Nhật, Mĩ toan tính đề ra các kế
hoạch nhằm “ngăn chặn” ảnh hưởng của Liên Xô, nhằm lôi kéo các nước dân
chủ mới được thành lập vào vòng ảnh hưởng của Mĩ và nhằm sử dụng lực
lượng chinh trị chống lại chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu, trong đó có Đức để
chống lại Liên Xơ. Mĩ coi Liên Xơ là vật cản chủ yếu đối với chính sách toàn
cầu của Mĩ.
Từ giữa năm 1945, Mĩ đẩy mạnh tham vọng muốn chỉ duy nhất Mĩ có
được những độc quyền kinh tế trên phạm vi toàn thế giới, đặc biệt là ở Châu
Âu nói chung và nước Đức nói riêng là nơi có cơ sở kinh tế - kĩ thuật to lớn.
Mĩ đã tiến hành chính sách mở cửa (Open door), trên danh nghĩa là tự do
thương mại, thực chất là phục vụ cho chiến lược toàn cầu của đế quốc Mĩ. Mĩ
không muốn phân chia phạm vi quyền lợi với Liên Xô và cũng chẳng hề lưu
tâm đến kế hoạch tái thiết đất nước và vấn đề an ninh sau chiến tranh của Liên
4


Xô: Mĩ từ chối yêu cầu 10 tỉ đô la tiền bồi thường chiến tranh của Đức phải
trả cho Liên Xơ từ khu vực do Mĩ kiểm sốt; cậy thế độc quyền vũ khí hạt
nhân để ép buộc Liên Xơ làm theo ý muốn của Mĩ trong các vấn đề ở Châu

Âu. Khi không khuất phục được Liên Xô, Mĩ tìm cách củng cố địa vị của Mĩ
ở đây, lấy Đức làm trung tâm: Mĩ muốn trước hết là chiếm giữ các thị trường,
sau đó củng cố vị thế của tư bản tư nhân trong phạm vi ảnh hưởng của mình.
Mọi hình thức sở hữu xã hội hóa bị bóp chết, như đã xảy ra trong khu vực
chiếm đóng của Mĩ ở Đức.
Chính sách đảm bảo an ninh của Liên Xô ở Đông Âu, bao gồm cả phần
lãnh thổ nước Đức do Liên Xô cai quản làm cho Mĩ cảm thấy bất ổn và càng
tập trung hơn vào các khu vực Mĩ quan tâm ở Tây Âu và nước Đức, nhằm hạn
chế đến mức tối đa việc “mở rộng ảnh hưởng” của Liên Xô ở những khu vực
này, cụ thể: Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, họ ngừng không cung cấp vật
tư cho Liên Xô và phản đối việc tháo dỡ cácc xí nghiệp của Đức ở khu vực
của họ, ngăn cản việc vận chuyển các máy móc này về Liên Xô từ tháng
5/1946, trong khi việc tháo dỡ các xí nghiệp của Đức được Hiệp ước Potxđam
quy định vừa là để trả bồi thường chiến tranh, vừa là nhằm xóa bỏ nền cơng
nghiệp chiến tranh của Đức và giảm sản xuất cơng nghiệp Đức xuống cịn
50% so với thời kì 1935. Bên cạnh đó, Mĩ cịn sợ rằng một khi khơng cịn
qn đội của họ đóng ở châu Âu thì châu Âu sẽ bị Liên Xơ, tức chính quyền
cộng sản kiểm sốt và điều đó chắc chắn sẽ là một trở ngại cho việc thực hiện
chiến lược toàn cầu của Mĩ.
Như vậy, dường như các nước phương Tây, đặc biệt là Mĩ vừa sợ một
nước Đức hiếu chiến quá mạnh, vừa sợ sự lớn mạnh của phong trào cộng sản
quốc tế do Liên Xô đứng đầu nên sau Hội nghị Potxđam họ vừa muốn làm tan
rã nước Đức vừa muốn tìm cách ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô trước hết
là ở khu vực châu Âu, từng bước xây dựng vị trí và ảnh hưởng của Mĩ ở khu
vực này. Vì thế, vấn đề Đức trở thành trung tâm, trọng điểm trong chiến lược
của nước Mĩ vào thời điểm này
1.2.2. Chủ trương của Liên Xô trong vấn đề Đức.
Do những yếu tố như vị trí địa lý, chính trị, hoàn cảnh lịch sử, địa vị
quốc tế và nhiệm vụ xây dựng lại đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh,
5



nên chủ trương của Liên Xô trong vấn đề Đức sau hội nghị Potxđam là bảo
đảm an ninh, đặc biệt là an ninh phía Tây đất nước, tránh nguy cơ một lần nữa
phải đối đầu với chiến tranh từ hướng này. Vì vậy, mục tiêu lớn nhất của Liên
Xơ trong giai đoạn này là “tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát xít, dân chủ hóa
nước Đức”, bảo đảm Đức sẽ khơng bao giờ có thể xâm lược Liên Xơ một lần
nữa. Từ đó, Liên Xơ chủ trương thực hiện nghiêm chỉnh những thỏa thuận đã
đạt được trong hai hội nghị Ianta và Pụxđam về vấn đề Đức: Chia nước Đức
thành các khu vực khác nhau do quân đồng minh chiếm đóng, địi bồi thường
chiến tranh ở mức cao, nghiêm trị tội phạm chiến tranh phát xít, thực hiện dân
chủ hóa chính trị và các hoạt động trong đời sống xã hội… Bên cạnh đó, cũng
cần phải tính đến “tham vọng” của Liên Xơ trong việc mở rộng ảnh hưởng
của mình ở Đông Đức – biến nước này thành một nước đi theo chủ nghĩa xã
hội như Liên Xô, như Stalin đã nói: “Chiến tranh lần này khác với trước kia
bởi bất luận ai chiếm lĩnh đất đai thì đều áp đặt chế độ của mình ở đó. Khơng
thể khác được”. Chính những chủ trương này đã làm cho nước Mĩ cảm thấy lo
ngại về việc “thúc đẩy chính sách bành trướng Nga Sa hồng” ở Đức nói
riêng và các Đơng Âu nói chung.
Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, sau Hội nghị Pụxđam, mặc dù đã
đạt được một số thỏa thuận chung trong việc giải quyết vấn đề Đức, nhưng cả
Mĩ và Liên Xơ đều theo đuổi những tính tốn của riêng mình. Trong đó, chỉ
có Liên Xơ là thực hiện tương đối đầy đủ những thỏa thuận đó, góp phần tiêu
diệt hồn tồn chủ nghĩa qn phiệt Đức, trung lập và dân chủ hóa nước này;
trong khi Mĩ tìm mọi cách trì hỗn, khơng thực hiện những biện pháp đó cớ
để xây dựng và thiết lập địa vị của mình tại đây, âm mưu chia cắt lâu dài nước
Đức, biến nước này trở thành tiền đồn “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản ở
Châu Âu. Chính sự khác biệt này đã làm cho nước Đức vốn chỉ tạm thời bị
chia làm các vùng khác nhau do quân đồng minh kiểm soát, bỗng nhiên bị
chia cắt thành hai nước Đức riêng biệt với hai chế độ chính trị xã hội hoàn

toàn đối lập nhau sau chiến tranh thế giới II.
6


1.2.3. Sự ra đời của hai nước Đức mâu thuẫn và đối lập nhau.
Sau khi phát xít Đức đầu hàng theo quy định của Hội nghị cấp cao
Ianta và Hội nghị cấp cao Potxđam, bốn nước Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp tạm
thời chiếm đóng nước Đức và tồn bộ chính quyền ở Đức bị tạm thời chuyển
sang tay nhà đương cục 4 nước chiếm đóng. Khu vực chiếm đóng của Liên
Xơ ở miền Đơng nước Đức với diện tích là 107.900 km2 và dân số
17.603.578 người. Khu vực chiếm đóng của Mỹ, Anh, Pháp ở miền Tây nước
Đức với diện tích 248.400 km2 và dân số là 51.469.000 người. Thủ đô Béclin
nằm ở Đông Đức, nhưng cũng chia thành khu vực chiếm đóng của 4 nước
Liên Xơ, Mĩ, Anh, Phỏp. Đơng Bécclin do Liên Xơ chiếm đóng với diện tích
407,9 km2, dân số khoảng 120 vạn người; Tây Beclin do Mĩ, Anh, Pháp
chiếm đóng với diện tích 480 km2, dân số khoảng 220 vạn người.
Ở Đông Đức do Liên Xô kiểm soát, các lực lượng dân chủ được sự
giúp đỡ của Liên Xơ đó cương quyết thi hành đầy đủ những điều đó kớ kết
giữa các nước Đồng minh ở Ianta và Potxđam. Các lực lượng quân sự, các tổ
chức vũ trang và các tổ chức phát xít khác đều bị giải tán, hoặc bị tiêu diệt
toàn bộ. Bọn phát xít bị truy bắt và đem ra xử, tài sản của chúng cũng bị tịch
thu. Đến năm 1948 đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt các lực lượng
phát xít.
Trái lại, ở khu vực chiếm đóng Tây Đức, 3 cường quốc Mĩ, Anh, Pháp
dung túng, nuôi dưỡng những lực lượng qn phiệt phát xít đã ngóc đầu trở
dậy.Ở khu vực Anh chiếm đóng, các tổ chức quân đội phát xít cịn tồn tại dưới
hình thức “nhóm sản xuất”, những “tổ cơng tác”. Các nhóm và các tổ này đều
do các sĩ quan Đức quốc xã điều khiển. Ở khu vực Mĩ kiểm sốt, các tổ chức
qn sự phát xít vẫn được duy trì dưới hình thức “các tổ chức thể thao” có
huấn luyện viên Mĩ huấn luyện về quân sự. Căn cứ hải quân Kiel vẫn còn

nguyên như cũ (theo báo cáo của ngoại trưởng Liên Xô ở Hội nghị ngoại
trưởng Matxcơva 10/3/1947). Hầu hết những tên phát xít tích cực trước kia và
bọn tội phạm chiến tranh đã dần dần được thả ra. Hoạt động của các Đảng và
7


các tổ chức dân chủ bị hạn chế. Những cuộc khủng bố công khai chống Đảng
Cộng sản đã xảy ra ở Tây Đức. Trong khi đó, chính quyền chiếm đóng của
Mĩ, Anh, Phỏp đó cơng khai ủng hộ các Đảng phái tư sản và địa chủ của Đức
phát xít và các Đảng này dần dần nắm lấy chính quyền ở Tây Đức.
Về mặt kinh tế, ở ba khu vực do Mĩ, Anh, Pháp kiểm sốt, những máy
móc ở các xí nghiệp qn sự khơng được tháo ra. Các xí nghiệp sản xuất vũ
khí quân sự vẫn được giữ nguyên. Các công ty độc quyền được giải tán một
cách giả tạo bằng cách thành lập nhiều công ty mới, đặt dưới quyền quản trị
của những tay chủ công nghiệp cũ trước đây đã đứng ra tổ chức nền kinh tế
chiến tranh cho Hitle.
Bên cạnh đó, đi ngược lại với văn bản và tinh thần của hiệp ước
Potxđam quy định về việc cần thiết phối hợp hành động chung giữa tứ cường
chiếm đóng ở Đức, Mĩ và Anh đã tiến hành kí kết hiệp ước riêng rẽ nhằm hợp
nhất về kinh tế giữa hai khu vực Mĩ - Anh để rồi tiến tới hợp nhất về hành
chính và chính trị sau này, thực chất là quy định việc chia cắt nước Đức:
Trong năm 1947, hai khu vực Mĩ, Anh đã đẩy mạnh việc xúc tiến hợp nhất về
chính trị với một hiệp định mới được kí kết ngày 29/5/1947 để thành lập “Hội
đồng kinh tế” hợp nhất hai khu…
Tiến thêm một bước nữa trong âm mưu chia cắt nước Đức, tháng
5/1949 Anh, Pháp, Mỹ tiến hành thành lập một hiến pháp, đưa ra dự thảo hiến
pháp cho việc thành lập cộng hòa liên bang Đức. Ngày 14/8/1949, ở các khu
vực miền Tây đã tiến hành bầu cử Quốc Hội riêng rẽ. Tháng 9/1949 chính phủ
của nước Cộng hịa liên bang Đức được thành lập, đánh dấu sự ra đời của một
nước Đức hồn tồn riêng rẽ, khơng bao gồm phần đất phía đơng do Liên Xơ

kiểm sốt.
Trước tình hình đó, Liên Xơ cũng tập hợp các tổ chức dân chủ ở Đông
Đức để họp đại hội nhân dân và thông qua bản dự thảo Hiến pháp. Thỏng
10/1949 nước Cộng hòa dân chủ Đức cũng được thành lập. Đây được coi như
8


một đòn đánh mạnh vào hệ thống chủ nghĩa tư bản thế giới, làm thất bại âm
mưu ngăn chặn và thống trị thế giới của Mỹ. Nước Cộng hòa dân chủ Đức ra
đời là một sự kiện quan trọng, một bước tiến trong quá trình củng cố hệ thống
XHCN; đồng thời cũng đánh dấu việc hình thành nên hai nước Đức riêng rẽ,
đối lập nhau, cùng tồn tại ở Châu Âu.
Như vậy, vấn đề Đức sau chiến tranh lạnh đã bị các cường quốc, trong
đó chủ yếu là Mĩ và Liên Xô làm cho trở nên vô cùng phức tạp, mà đỉnh cao
của nó là việc xuất hiện hai nước Đức riờng ré, theo hai chế độ chính trị đối
lập nhau: Cộng hòa dân chủ Đức đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, được sự
hậu thuẫn của Liên Xô; Cộng hòa liên bang Đức đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa, cấu kết chặt chẽ với Mĩ và các nước phương Tây. Điều này tạo nên sự
chia cắt lâu dài nước Đức và gây tác hại không nhỏ đến sự phát triển kinh tế,
chính trị của tồn nước Đức; làm ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp hịa bình
của nước Đức nói riêng và của Châu Âu, thế giới nói chung.

9


Chương 2
CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH GIỮA HAI CỰC XÔ-MĨ XUNG
QUANH VẤN ĐỀ ĐỨC TỪ THẬP NIÊN 50 ĐẾN THẬP NIÊN 90 CỦA
THẾ KỈ XX
2.1. Việc tái vũ trang lại Tây Đức và sự hình thành hai khối quân

sự đối lập.
Để tiến thêm một bước trong việc thống trị thế giới và chống lại các
nước xã hội chủ nghĩa thông qua cuộc chiến tranh lạnh, Mỹ đã lần lượt thành
lập các khối quân sự để chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
khác. Trong số đó, sự ra đời của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, gọi tắt là Nato
là khối quân sự lớn và quan trọng nhất của Mĩ. Ngày 4/4/1949, Hiệp ước Bắc
Đại Tây Dương đã được 12 nước, bao gồm Mĩ và các nước TBCN ở Châu Âu
kí kết tại Oasinhtơn. Hiệp ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 4/8/1949, thời hạn
hết hiệu lực là 20 năm. Trong đó, Mĩ năm quyền lãnh đạo, biến khối Nato trở
thành một cơng cụ của chính sách bành trướng của Mỹ, chống lại Liên Xô và
các nước XHCN khác.
Trước tình hình trên, Liên Xơ, Cộng hịa dân chủ Đức và các nước
Đơng Âu khỏc đó tổ chức hội nghị ở Vacsava từ ngày 11 đến ngày 14.5.1955,
thành lập nên tổ chức Hiệp ước Vacsava của các nước XHCN nhằm làm đối
trọng với Nato của các nước TBCN do Mĩ đứng đầu.
Ngay sau khi thành lập, cả hai khối quân sự trên đều tích cực tiến hành
chạy đua vũ trang, bao gồm cả vũ khí thơng thường và vũ khí hạt nhân. Trong
đó, nịng cốt nhất là Mĩ và Liên Xô: Mĩ đã đưa hàng chục vạn quân đóng ở
Cộng hịa liên bang Đức, được trang bị nhiều loại vũ khí hiện đại; trong khi
Liên Xơ cũng đưa hàng vạn binh sĩ với trang bị hiện đại, bao gồm cả vũ khí
hạt nhân của mình sang đóng ở các nước Đơng Âu, chủ yếu là ở Cộng hịa
dân chủ Đức. Điều này làm cho ở hai nước Đức lúc này xuất hiện một lực
lượng quân sự khổng lồ, lúc nào cũng ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu
cao độ.
Như vậy, có thể nói ở một khía cạnh nào đó, việc Mĩ tái vũ trang lại
Cộng hịa liên bang Đức và đưa nước này gia nhập Nato đã làm cho quan hệ
giữa Xơ – Mĩ, giữa Cộng hịa liên bang Đức và Cộng hòa dân chủ Đức ngày
10



càng trở nay căng thẳng, làm xuất hiện hai khối quân sự đối lập nhau, làm cho
cuộc chiến tranh lạnh trở nên căng thẳng và quyết liệt hơn bao giờ hết.
2.2. Bức tường Béclin - biểu hiện cao nhất của sự đối đầu giữa Mĩ
và Liên Xô
Tinh đến năm 1959, chế độ chiếm đóng ở Tây Béclin giữa lịng Cộng
hịa dân chủ Đức đã kéo dài hơn 14 năm trời. Các nước đế quốc phương Tây
lợi dụng Tõy Bộclin làm cơ sở hoạt động để chống lại Cộng hòa dân chủ Đức
và hệ thống XHCN. Chế độ chiếm đóng ở Tõy Bộclin đó tạo cho Cộng hịa
dân chủ Đức thành một cái “nhọt ung thư”, một nguồn gốc gây ra sự xung đột
giữa phương Đông và phương Tây, uy hiếp hịa bình ở châu Âu và gây tình
hình căng thẳng trên thế giới.
Năm 1960, đế quốc Mỹ tiếp tục mọi cách củng cố khối Nato, tăng
cường vũ trang lại Tây Đức, nâng đỡ cho bọn quân phiệt Tây Đức tiến hành
những hoạt động phục thù đối với nước Cộng hòa dân chủ Đức và hệ thống
XHCN. Dưới sự xúi dục và bao che của đế quốc Mỹ, bọn quân phiệt Tây Đức
trắng trợn địi khơi phục đường biên giới năm 1937, hiệp ước Muynich và cho
rằng Tây Beclin thuộc về Tây Đức. Sau khi chiến tranh thế giới thứ II chấm
dứt, vấn đề thủ đô Béclin vẫn chưa được giải quyết. Béclin nằm gọn trong
lòng nước Cộng hòa dân chủ Đức bị chia cắt làm 4 phần lãnh thổ. Đông
Béclin là thủ đơ của Cộng hịa dân chủ Đức, và Tây Béclin dưới sự che chở
của chế độ chiếm đóng đế quốc được xây dựng thành trung tâm gián điệp lớn.
Béclin chính là “Bức màn sắt có lỗ hổng” và qua lỗ hổng ấy có thể làm thâm
nhập vào các nước Đơng Âu và cả Liên Xơ. Ngồi ra, hàng dòng người Cộng
hòa dân chủ Đức đã bỏ đất nước sang Tây Béclin sinh sống, đe dọa nghiêm
trọng mọi mặt của nước này.
Trước việc “dòng người” Cộng hòa dân chủ Đức ra đi ngày một đông
tới mức báo động, Quốc hội Đông Đức đã thông qua một nghị quyết về các
biện pháp nhằm ngăn chặn chiến dịch “săn người” do Cộng hòa liên bang
Đức và Tây Béclin tổ chức. Sau đấy, bức tường Đông - Tây Béclin đã xuất
hiện vào đêm ngày 12 dạng sáng ngày 13/8/1961, làm cho nhân dân hai bên

Đông và Tây bức tường phải sửng sốt. Chỉ trong một đờm, đờm 13/8/1961,
bức tường Béclin được xây dựng là một trong những biểu hiện của sự đối đầu
11


căng thẳng Đông - Tây và là một trong những biểu tượng của chiến tranh
lạnh. Giới sử gia tư sản phương Tây cho rằng đây là “bức tường của sự sỉ
nhục”, trong khi Cộng hòa dân chủ Đức và Liên Xô cho rằng đây là “bức
tường chống lại nguy cơ chủ nghĩa phỏt xớt”. Vì đây là biểu tượng cho sự thất
bại của Liên Xô ở Đức, bởi Liên Xô xây dựng bức tường này nhằm ngăn cản
làn sóng di cư của người dân từ Đông Đức sang Tây Đức. Hiện tượng này là
do việc quản lí kinh tế của chính phủ Đơng Đức đối với tồn bộ nền kinh tế.
Dù có chấp nhận lập luận này hay khơng thì bức tường Bộclin cũng là một
biểu hiện của sự đối đầu Xô - Mỹ, hai khối Đông và Tây xung quanh vấn đề
Đức lên đến đỉnh cao.
2.3. Hiệp ước về những cơ sở của quan hệ giữa Cộng hòa liên bang
Đức và Cộng hòa dân chủ Đức năm 1972.
Những cơ sở pháp lí để giải quyết vấn đề sau chiến tranh đã được ghi
rõ trong hiệp định Potxđam năm 1945. Nhưng do sự phá hoại của Mĩ, các
nước đồng minh của Mĩ mà trên nước Đức đã xuất hiện hai nhà nước theo hai
chế độ chính trị đối lập nhau: Cộng hòa liên bang Đức và Cộng hòa dân chủ
Đức. Sau khi được Mĩ đưa vào Nato và được trang bị vũ khí bình đẳng như
các thành viờn khỏc của Nato, giới cầm quyền Cộng hịa liên bang Đức cơng
khai tiến hành các hoạt động phục thù Cộng hòa dân chủ Đức và các nước
XHCN khác, như trắng trợn đòi khơi phục lại đường biên giới năm 1937 (có
nghĩa là thơn tính cả Cộng hịa dân chủ Đức và thủ tiêu đường biên giới Odes
– Netxơ, thơn tính Tiệp Khắc và Tây Beclin thuộc về Cộng hòa liên bang
Đức). Ngày 23/6/1966, Quốc hội Cộng hịa liên bang Đức thơng qua đạo luật
về độc quyền đại diện cho cả nước Đức, cơng khai cho chính quyền Cộng hịa
liên bang Đức được quyền thi hành pháp luật và chủ quyền ở ngoài biên giới

nước này trên một vựng rụng 225.000km 2 (bao gồm Cộng hòa dân chủ Đức
và những phần đất ở Ba lan, Liên Xô…). Qua nhiều hội nghị thương lượng
giữa Liên Xơ, Mĩ thì vấn đề Đức vẫn “giẫm chân tại chỗ” và luôn là một

12


trong những mối nguy cơ chủ yếu đe dọa hòa bình và an ninh ở Châu Âu
cũng như tồn thế giới.
Đến những năm 70, tình hình so sánh lực lượng trên thế giới đã thay
đổi căn bản khác trước. Do sự phát triển nhanh chống về mọi mặt của Cộng
hòa dân chủ Đức, Mĩ và các đồng minh thấy không thể nào đảo ngược lại cục
diện ở Đông Đức và Châu Âu nữa. Do đó, khi lên cầm quyền, Nichxon buộc
phải “xuống thang” trong vấn đề Đức, chấp nhận thương lượng với Liên Xơ
để tìm ra một giải pháp thỏa đáng, phản ánh đúng những thực tế lịch sử đã
diễn ra ở Đức từ sau chiến tranh thế giới II.
Trên cơ sở những nguyên tắc đã được thỏa thuận giữa Liên Xơ và Mĩ,
ngày 19/11/1972, giữa Cộng hịa liên bang Đức và Cộng hịa dân chủ Đức đó
kớ kết ở Bon “Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Cộng hòa liên bang
Đức và Cộng hòa dân chủ Đức”. Hiệp định gồm phần mở đầu chung và 10
điều khoản, nhấn mạnh rằng trong các hoạt động của mình, hai nước xuất
phát từ trách nhiệm duy trì nền hịa bình, từ lịng mong muốn làm giảm bớt sự
căng thẳng và bảo đảm nền an ninh ở Châu Âu, “thiết lập quan hệ láng giềng
thân thiện, bình thường với nhau trên cơ sở bình đẳng” (điều 1). Hai nước sẽ
“tuân theo những mục đích và nguyên tắc được ghi trong Hiến chương Liên
hợp quốc cụ thể là những nguyên tắc chủ quyền bình đẳng của tất cả các nớc,
tơn trọng độc lập tự chủ, quyền tự quyết, tôn trọng các quyền con người và cự
tuyệt phân biệt đối xử (điều 2). Hai nước sẽ giải quyết các vấn đề tranh chấp
hồn tồn bình đẳng, bằng các biện pháp hịa bình và sự tự kiềm chế việc đe
dọa bằng vũ lực hoặc dùng vũ lực”. HIệp định cũng quy định rõ “khơng một

nước nào trong hai nước có thể đại diện cho nước kia trong phạm vi quốc
tế…”. Hai bên cũng quy định sự phát triển, hợp tác trong lĩnh vực kinh tế,
khoa học và kỹ thuật, giao thông vận tải, văn hóa và trong các lĩnh vực khác.
Cả hai bên sẽ trao đổi đại diện thường trực đặt ở nơi có chính phủ trung ương.
Như thế, vấn đế Đức sau một thời gian tồn tại kéo dài trong quan hệ
quốc tế đã được giải quyết. Các nước Mỹ, Tây Đức và các đồng minh của họ
13


buộc phải thừa nhận trờn pháp lý sự tồn tại của một nhà nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Đức, thừa nhận đường biên giới hiện tại và toàn vẹn lãnh thổ
của Cộng hòa dân chủ Đức cũng như các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
khác, thừa nhận quyền đại diện cho mình và quyền độc lập tự chủ trong
đường lối đối nội, đối ngoại của Cộng hòa dân chủ Đức …Đó là thắng lợi to
lớn của cách mạng Đức, thắng lợi to lớn chủ nghĩa xã hội và hịa bình và an
ninh châu Âu và tồn thế giới.
2.4. Từ cuộc khủng hoảng chính trị ở Cộng hịa dân chủ Đức đến
việc tái thống nhất nước Đức năm 1990.
Sau những bước phát triển mạnh ở thập kỉ 70, đến giữa những năm 80
của thế kỉ XX, do những nguyện vọng duy ý chí của ban lãnh đạo, các chương
trình phúc lợi xã hội ngày càng tốn kém đã trở thành gánh nặng cho ngành
kinh tế. Trong khi thu nhập quốc dân trong thời kì 1971-1989 chỉ tăng 2 lần
mà cho các chương trình xã hội tăng từ 6 -7 lần. Hậu quả là đầu tư cho sản
xuất cũng giảm sút. Đầu tư đó ớt lại chỉ tập trung cho số ít ngành mũi nhọn
nên hàng loạt ngành kinh tế ở Cộng hòa dân chủ Đức đã bị lạc hậu đáng kể so
với thế giới. Điều đó làm mất cân đối nền kinh tế và làm cho khả năng cạnh
tranh thị trường xuất khẩu của Cộng hòa dân chủ Đức. Cải tổ ở Liên Xô và
cải cách ở một số nước XHCN khỏc đó tạo ra những điều kiện và những khó
khăn mới trong việc cung ứng vật tư, kĩ thuật và phát triển hợp tác giữa Cộng
hòa dân chủ Đức với các nước trong hệ thống XHCN. Nhưng ban lãnh đạo

trung ương Đảng XHCN thống nhất Đức vẫn bám giữ vào cơ chế cũ và khơng
tính đến các điều kiện kinh tế chính trị đã thay đổi. Cơ chế quản lí kinh tế và
xã hội tập trung mang tính mệnh lệnh hành chính, có phát huy tác dụng trong
một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng khơng cịn phù hợp với tình hình mới.
Theo cơ chế cũ, tất cả đều do ban lãnh đạo quyết định nên người lao động mất
vai trò và năng lực làm chủ trong kinh tế, xã hội. Do đó, cuộc khủng hoảng
chính trị đã xảy ra ở Cộng hòa dân chủ Đức ngay sau ngày Quốc khánh 40
năm thành lập nước ngày càng trở nên trầm trọng. Từ sau lễ kỉ niệm 40 năm
ngày thành lập nước Cộng hòa dân chủ Đức ngày 7/10/1789, tình hình chính
trị, xã hội ở Cộng hịa dân chủ Đức ngày càng trở nên phức tạp. Hàng trăm
ngàn công dân ra đi bất hợp pháp sang Cộng hòa liên bang Đức xin cư trú
14


chính trị. Sự bất bình về thực tại ở Cộng hịa dân chủ Đức của dân chúng
được bày tỏ thơng qua các cuộc biểu tình nổ ra ở các thành phố lớn…
Chính những hồn cảnh và thực trạng này, cùng với việc Liên Xơ tiến
hành cải tổ, khơng cịn can thiệp nhiều vào công việc của các nước Đông Âu;
cuộc chiến tranh lạnh giữa Xô và Mĩ đã chấm dứt từ năm 1989; xu thế đối
thoại và hợp tác trên cơ sơ hai bên cùng có lợi trong các mối quan hệ quốc tế
đang ngày càng đóng vai trị chủ đạo… đã làm cho Cộng hịa dân chủ Đức có
những bước tiến quan trọng trong việc hàn gán rạn nứt với Cộng hòa liên
bang Đức.
Ngày 28/11/1989 Thủ tướng H. Khonh đã trình bày trước quốc hội
Cộng hịa liên bang Đức “chương trình mười điểm” về tái thống nhất nước
Đức dưới dạng hợp bang hoặc liên bang, thông qua bầu cử ở hai phần của hợp
bang, lập quốc hội và chính phủ thống nhất. Nhưng diễn biến tình hình về sau
cho thấy nhiều luận điểm trong chương trình này đã lạc hậu trước diễn biến
của tình hình. Các lực lượng chính trị tác động ngày càng mạnh vào nội tình
Cộng hịa dân chủ Đức gây ra sức ép trong vấn đề tái thống nhất. Cộng hòa

dân chủ Đức buộc phải tiến hành bầu cử quốc hội sớm hơn dự kiến. Trong
cuộc bầu cử này, “Liên minh vì nước Đức” đã chiếm được hơn 48 số ghế và
được quyền đứng ra lập chính phủ, chủ trương việc đẩy nhanh thống nhất
nước Đức
Như vậy, vấn đề Đức tồn tại suốt một thời gian dài kể từ sau chiến
tranh thế giới II đã được giải quyết bằng việc hình thành nên một quốc gia
Đức thống nhất bao gồm cả Cộng hòa dân chủ Đức và Cộng hịa liên bang
Đức. Đó vừa là một sự kiện quan trọng trong lịch sử nước Đức, nhưng cũng
đồng thời là một mốc quan trọng đánh dấu việc kết thúc cuộc chiến giữa Xô
và Mĩ, giữa hai khối Đông và Tây xung quanh vấn đề Đức; góp phần quan
trọng vào việc củng cố xu hịa hịa bình, đối thoại hợp tác trong mối quan hệ
giữa Xơ – Mĩ nói riêng và các mối quan hệ quốc tế nói chung vào những năm
cuối cùng của thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỉ XX; mở ra một trang
mới với nhiều hứa hẹn về một thời kì ổn định và phát triển đối với nước Đức
nói riêng và Châu Âu nói chung.

15


KẾT LUẬN
Việc giải quyết vấn đề Đức sau chiến tranh thế giới lần thứ II đã trở
thành một trong những vấn đề quan trọng nhất của quan hệ quốc tế thời hậu
chiến; trở thành một mặt trận then chốt trong cuộc đấu tranh giữa hai siêu
cường Xô – Mĩ, hai khối Đông – Tây trong cuộc chiến tranh lạnh, đúng như
một nhà nghiên cứu về nó đã nói: Trung tâm của chiến tranh lạnh là ở Châu
Âu và trung tâm của Châu Âu là nước Đức. Đó là một quá trình lâu dài, trải
qua nhiều gai đoạn với những diễn biến hết sức phức tạp bắt đầu ngay từ khi
chiến tranh thế giới II bước vào giai đoạn kết thúc, kéo dài mãi cho tới khi
xuất hiện một nước Đức thống nhất (bao gồm cả Cộng hòa liên bang Đức và
Cộng hòa dân chủ Đức) vào tháng 10 năm 1990.

Nguyên nhân dẫn đến việc gải quyết vấn đề Đức sau chiến tranh thế
giới lần thứ II trở nên lâu dài, phức tạp như trên là do những mâu thuẫn gay
gắt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa hai siêu cường đứng đầu
hai hệ thống xã hội ấy là Liên Xô và Mĩ sau chiến tranh thế giới II. Đặc điểm
của cuộc xung đột giữa Xô và Mĩ, giữa hai khối Đông và Tây xung quanh vấn
đề Đức là hai đối thủ chính trong cuộc chiến này là Liên Xô và Mĩ đều không
trực tiếp tham chiến hay xung đột với nhau mà chỉ đứng đằng sau làm hậu
thuẫn, điều khiển đồng mình của mình. Vì vậy, có thể coi đây là một cuộc
chiến “căng thẳng, gay gắt trong hịa bình và ổn định”.Sự kiện Cộng hịa dân
chủ việc Cộng hòa dân chủ Đức bị sáp nhập vào Cộng hòa liên bang Đức
thành một quốc gia chung, thống nhất đánh dấu việc giải quyết hoàn toàn vấn
đề Đức tồn tại suốt từ sau chiến tranh thế giới thứ II; mở ra một kỉ nguyên
mới trong lịch sử nước Đức.
Từ thực tiễn cuộc xung đột giữa Xô và Mĩ, giữa hai khối Đông và Tây
xung quanh vấn đề Đức nói riêng, các vấn đề khác trong cuộc chiến tranh
lạnh nói chung, chúng ta có thể thấy việc chia cắt, cạnh tranh và xung đột với
nhau là một trở lực đáng kể ngăn cản sự đối thoại, hợp tác và tính độc lập tự
chủ của mọi quốc gia, đặc biệt là trong xu thế tồn cầu hóa, của thời đại khoa
học kĩ thuật phát triển như ngày nay. Vì vậy, một yêu cầu cấp bách, một bài
học kinh nghiệm quý báu cần được rút là cần phải nhanh chóng giải quyết
những tranh chấp, bất đồng để hội nhập và phát triển, khẳng định vai trò và vị
thế của dân tộc mình trong các mối quan hệ quốc tế.
16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Đào – Phan Doãn Nam (2001), Lịch sử quan hệ quốc tế,
NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà nội
3. Lê Minh Đức - Nguyễn Nghị (1994), Lịch sử nước Mĩ, NXB thông tin, Hà
Nội,

3. Phạm Giảng (1994), Lịch sử quan hệ quốc tế từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai đến 1954, NXB Sử học, Viện Sử học.

17



×