Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.93 KB, 91 trang )

Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Nguyễn Thị Ngàn

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L

HÀ NỘI,

1

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------

Nguyễn Thị Ngàn

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA


DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: THS. NGUYỄN ĐĂNG DUY

HÀ NỘI
2

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận là cơng trình nghiên cứu của riêng em. Các kết
quả nêu trong khóa luận chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
Vậy, em viết lời cam đoan này đề nghị Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội xem xét để em có thể bảo vệ khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Ngàn

3


Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 7
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC ............................................................................................................. 10
1.1. Khái quát về Doanh nghiệp nhà nước ..................................................... 10
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước .................................................... 10
1.1.2. Vị trí, vai trị của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị
trường................................................................................................................ 13
1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ................................ 16
1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ............................... 16
1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước .................... 20
Chương 2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................... 28
2.1. Mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ................. 29
2.2. Đối tượng, điều kiện cổ phần hóa ............................................................. 32
2.3.

Các hình thức cổ phần hóa .................................................................... 35

2.4.

Đối tượng mua cổ phần .......................................................................... 36

2.5.


Xử lý tài chính khi cổ phần hóa ............................................................ 40

2.6. Xác định giá trị doanh nghiệp .................................................................. 42
2.7.

Bán cổ phần lần đầu ............................................................................... 50

2.8.
Chính sách đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa ............................. 52
Chương 3. THỰC TRẠNG THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP
LUẬT CỔ PHẦN HĨA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY ............................................................................................................... 53
3.1.
Thành tựu đạt được và những hạn chế trong thi hành pháp luật cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam qua các giai đoạn ................ 53
3.1.1. Giai đoạn 1990- 2001 ........................................................................... 53
3.1.2. Giai đoạn 2002- 2010 ........................................................................... 55
3.1.3. Giai đoạn 2011 đến nay ....................................................................... 57
3.1.4. Đánh giá tồn bộ q trình cổ phần hóa đến nay .............................. 67
3.2. Giải pháp hồn thiện pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước……………………………………………………………………………75
3.2.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước về cổ phần hóa giai đoạn
2016 2020…………………………………………………………………...... 75
3.2.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
tại Việt Nam....................................................................................................... 78
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 87
4

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com



Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 89

5

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com


Dịch vụ viết luận văn trọn gói website: luanvantot.com Zalo/tele 0934573149

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CP:

Chính phủ

HĐBT:

Hội đồng Bộ trưởng

IPO:

Phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu

NĐ:

Nghị định


ODA:

Hỗ trợ phát triển chính thức

QĐ:

Quyết định

TPP:

Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xun Thái Bình Dương

TT:

Thơng tư

TTg:

Thủ tướng

WTO:

Tổ chức Thương mại Thế giới

6

Tham khảo miễn phí các tài liệu khác tại luanvantot.com



MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và nhà nước ta trong suốt 30 năm qua. Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận
kinh tế quan trọng trong nền kinh tế, được nhà nước giao phó nhiều nhiệm vụ đồng thời
được nhà nước tạo điều kiện, cơ hội về vốn, nguồn lực để phát triển. Tuy nhiên, trên
thực tế, doanh nghiệp nhà nước không tận dụng được những lợi thế của mình, ngược lại
cịn bộc lộ nhiều hạn chế, tính khơng hiệu quả so với các thành phần kinh tế khác. Cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu để khắc phục những thiếu sót của
bộ phận doanh nghiệp nhà nước, khi nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Q trình này nhằm
đa dạng hóa hình thức sở hữu, đổi mới phương thức quản lý đồng thời nhằm thúc đẩy
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mở ra triển vọng xây dựng thị trường
vốn lành mạnh, phong phú, tạo điều kiện cơ cấu lại nền kinh tế. Cổ phần hóa khơng
nhằm xóa bỏ bộ phận doanh nghiệp nhà nước, ngược lại, tăng cường vai trò chủ đạo
của doanh nghiệp nhà nước, nâng cao chất lượng doanh nghiệp nhà nước nói riêng
và chất lượng nền kinh tế nói chung.
Q trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã có những bước đi mạnh mẽ từ
những năm đầu thí điểm 1990 cho đến tận hơm nay, khi cổ phần hóa hóa đang dần
bước vào giai đoạn cuối hồn thành. Hàng loạt văn bản pháp lý đã được ban hành để
hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện cổ phần hóa ở tất cả các cấp, ngành, địa phương.Tư
tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về cổ phần hóa được quán triệt sâu
sắc trong tất cả các văn bản, các nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, XI, XII.
Nhận thấy được tầm quan trọng của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước cùng những thành tựu, hạn chế mà nước ta đạt được trong quá trình cổ phần hóa

suốt 30 năm qua, em đã chọn đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình là:
“Những vấn đề pháp lý về cổ phầGHGGn hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam”.
Việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý và thực tiễn thi hành pháp luật cổ phần hóa

7


doanh nghiệp nhà nước hiện nay có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết, để từ đó rút ra
những kinh nghiệm, đưa ra những kiến nghị nhằm thúc đẩy, hoàn thiện tiến trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, hướng tới mục tiêu hồn thành q trình cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới.
2.

Mục đích nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu của khóa luận là làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý về
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam, thấy được những thành tựu đạt
được cũng như những khó khăn, hạn chế mà các doanh nghiệp trong q trình cổ
phần hóa gặp phải. Từ đó, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những kiến nghị hoàn
thiện pháp luật và thi hành. Khóa luận đi sâu nghiên cứu và khẳng định sự đúng đắn
của các chủ trương, chính sách cổ phần hóa của Đảng và nhà nước.
Việc nghiên cứu và phân tích những vấn đề khái quát cơ bản về doanh
nghiệp nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được khóa luận thực hiện
dưới góc độ pháp luật, thơng qua phân tích các quy định pháp luật hiện hành về cổ
phần hóa, cũng như thực trạng tiến hành cổ phần hóa ở các doanh nghiệp. Từ đó
khóa luận chỉ ra những điểm bất cập trong các quy phạm pháp luật và đề xuất các
kiến nghị, giải pháp hoàn thiện.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Khóa luận nghiên cứu những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước tại Việt Nam trong 30 năm qua.
Khóa luận nghiên cứu và phân tích những khái quát cơ bản về doanh nghiệp
nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; phân tích các quy định pháp luật
hiện hành về cổ phần hóa, phân tích thực trạng tiến hành cổ phần hóa và đề xuất các
kiến nghị, giải pháp hồn thiện.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em tiến hành khai thác thông tin từ các
sách, báo, tạp chí, và luận văn nhằm tìm kiếm số liệu của các bộ, ngành, doanh
nghiệp, số liệu của Tổng cục thống kê. Tham khảo các cơng trình nghiên cứu về cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước của các tác giả trong nước. Đối chiếu, so sánh,
thống kê, hệ thống, đưa ra những tổng hợp, phân tích về vấn đề nghiên cứu.
8


5.

Bố cục của khóa luận

Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Chương 2: Nội dung pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt
Nam hiện nay.
Chương 3: Thực trạng thi hành và giải pháp hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện nay.


9


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC
1.1.

Khái quát về Doanh nghiệp nhà nước

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước là một khái niệm hồn tồn khơng mới khi hình thái
doanh nghiệp này khơng thể thiếu trong bất kỳ nền kinh tế của các nước trên thế
giới. Ngân hàng thế giới 1991 định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước như sau:
“Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh tế mà quyền sở hữu hay quyền kiểm
sốt thuộc về Chính phủ, và phần lớn thu nhập của chúng được tạo ra từ việc bán
hàng hóa và dịch vụ”.
Đối với Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng được đề cập trong
nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên khái niệm doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
khơng bất biến mà có sự thay đổi trong từng thời kỳ.
Theo điều lệ xí nghiệp cơng nghiệp quốc doanh ban hành kèm theo Nghị
định số 50/HĐBT ngày 22/03/1988 và quy chế về thành lập, giải thể doanh nghiệp
nhà nước ban hành kèm Nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 thì “Doanh nghiệp
Nhà nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với
tư cách chủ sở hữu”.
Doanh nghiêp nhà nước hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã
hội của nhà nước. Khái niệm này không cụ thể, chỉ khẳng định sự can thiệp trực tiếp
và toàn diện của nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp.
Khái niệm doanh nghiệp nhà nước được đề cập lần đầu trong luật doanh nghiệp

nhà nước 1995. Theo đó, “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu
tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động cơng ích,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước
có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ
hoạt động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý” [26, 84]. Quan
niệm này về cơ bản giống với các văn bản pháp lý trước đó, tập trung đề cập đến vai trò
của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động kinh doanh, cơng ích vì mục

10


tiêu kinh tế xã hội. Với khái niệm này, doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động trên
mọi lĩnh vực, ngành nghề bởi vai trị quan trọng của nó.
Trải qua nhiều lần sửa đổi luật, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng có
những thay đổi theo. Theo luật doanh nghiệp nhà nước 2003, “Doanh nghiệp nhà
nước là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần,
vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức cơng ty nhà nước, cơng ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn” [27, 84]. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp
nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động,
kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước
có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Luật doanh
nghiệp nhà nước 2003 đã liệt kê các đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp nhà nước.
Khái niệm này đã cụ thể hơn khi khẳng định doanh nghiệp nhà nước là doanh
nghiệp do nhà nước sở hữu tồn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần chi phối, vốn góp
chi phối thay vì chỉ là doanh nghiệp do nhà nước đầu tư vốn như trước. Doanh
nghiệp nhà nước được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với các mơ
hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường như công ty nhà nước, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Năm 2005, luật doanh nghiệp mới ra đời thay thế luật doanh nghiệp năm
2000 và luật doanh nghiệp nhà nước 2003. Luật doanh nghiệp 2005 đã thống nhất,

khơng có sự phân biệt đối xử đối với tất cả các doanh nghiệp, khơng phân biệt tính
chất sở hữu, thành phần kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa là doanh
nghiệp trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ [28, 85]. Như vậy, đối tượng
thuộc diện doanh nghiệp nhà nước được mở rộng dưới mọi hình thức chỉ cần doanh
nghiệp có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu nhà nước.
Luật doanh nghiệp 2014 đã thu hẹp đối tượng thuộc diện doanh nghiệp nhà
nước khi định nghĩa “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ” [29, 85]. Đây là một thay đổi lớn trong quan niệm về doanh nghiệp
nhà nước phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Theo đó, nhà nước giảm dần sự can thiệp
vào hoạt động của doanh nghiệp bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước
và vốn đầu tư tư nhân. Sự thay đổi định nghĩa này đem lại sự bình đẳng trong kinh
doanh giữa các thành phần doanh nghiệp, đặc biệt đem lại sự công bằng cho
11


doanh nghiệp dân doanh. Mặt khác, định nghĩa mới về doanh nghiệp nhà nước có
thể thúc đẩy q trình cổ phần hóa và thối vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp
nhà nước hiện này- theo luật sư Nguyễn Hưng Quang. Theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh:
“Việc giảm danh nghĩa và pháp lý số doanh nghiệp nhà nước có thể có lợi trong q
trình đàm phán hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”. Sự thay đổi khái
niệm doanh nghiệp nhà nước đã giúp doanh nghiệp tự chủ hơn trong sản xuất kinh
doanh và đầu tư. Doanh nghiệp bắt buộc phải năng động, sáng tạo để có thể tồn tại
và đứng vững trên thị trường. Với sự thay đổi này, hoạt động tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước sẽ diễn ra nhanh hơn. Tổ chức và điều hành doanh nghiệp sau tái
cơ cấu sẽ có những thay đổi tích cực khi có só sự tách bạch giữa quyền sở hữu và
quyền quản lý, giữa quản lý của chủ sở hữu với điều hành hoạt động kinh doanh,
giữa quản lý điều hành với kiểm tra kiểm soát, đồng thời cơ cấu tổ chức được bố trí
hợp lý, gọn nhẹ, tinh giản được lao động gián tiếp. Sự phân biệt đối xử trên thực tế
giữa các thành phần kinh tế dần được xóa bỏ, tạo sự cạnh tranh bình đẳng.
Tuy nhiên cũng có những ý kiến khác cho rằng sự thay đổi định nghĩa về

doanh nghiệp nhà nước dẫn đến những hệ quả liên quan đến doanh nghiệp có cổ
phần chi phối là nhà nước như:
- Sự thay đổi này không làm giảm bớt số lượng doanh nghiệp nhà nước đang
tồn tại trên thực tế ở những doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà
nước, đồng thời cũng không hạn chế được những vấn đề của doanh nghiệp nhà
nước. Năm 2011, số doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước là 1.217 doanh
nghiệp chiếm 1/3 tổng số doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp đã cổ phần hóa.
Thực tế, những doanh nghiệp này vẫn được coi là doanh nghiệp nhà nước, nhà nước
vẫn sử dụng để thực hiện mục tiêu chính sách, vẫn thuộc quyền kiểm sốt của nhà
nước, vẫn tồn tại sự độc quyền, áp đặt của cổ đông nhà nước, cách thức quản trị
doanh nghiệp khơng thay đổi,...
- Khi doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước khơng cịn là doanh
nghiệp nhà nước sẽ dẫn đến việc nhà nước không mấy quan tâm đến loại doanh
nghiệp này. Vì vậy, doanh nghiệp khơng có cách tiếp cận đúng, khơng có các nỗ lực,
các biện pháp, chính sách cải cách phù hợp, dẫn đến phó mặc các doanh nghiệp này
cho những người đại diện cổ đông nhà nước.
12


- Khơng coi doanh nghiệp có cổ phần chi phối nhà nước là doanh nghiệp nhà
nước là đi ngược lại với thông lệ quốc tế. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, sau làn
sóng tư nhân hóa từ những năm 1980, các doanh nghiệp nhà nước ở những nước
này chủ yếu là những doanh nghiệp do nhà nước sở hữu cổ phần chi phối, thậm chí
gồm cả những doanh nghiệp có cổ phần dưới mức chi phối nhưng nhà nước vẫn
nắm quyền kiểm soát [13, 83].
Vậy, cần hiểu và vận dụng khái niệm mới về doanh nghiệp nhà nước một
cách khách quan, linh hoạt để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước, đồng thời tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế thị trường hiện nay.
1.1.2. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sở hữu toàn dân là tư tưởng chi phối,
doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước đóng vai trị chủ đạo
trong mọi khu vực, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nhà nước thuộc sở
hữu nhà nước, được điều hành, kiểm sốt về mọi phương diện bởi nhà nước.
Vị trí và vai trị của doanh nghiệp nhà nước ln được xác định và định hướng
bởi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước cũng như
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là chủ trương nhất quán của Đảng tại các kỳ đại
hội. Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 khóa IX năm 2001 nêu rõ ”Doanh nghiệp nhà
nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà
nước định hướng và điều tiết kinh tế vĩ mơ, làm lực lượng nịng cốt, góp phần chủ yếu
để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 3 khóa IX xác định ”Tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn
quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất
thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực sản phẩm của nền kinh tế”.
Đại hội X có sự điều chỉnh nhất định về vị trí của doanh nghiệp nhà nước, đó là ”Xóa
bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và tập
trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ
quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực cơng ích”. Đại hội XI chỉ khẳng định
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà không khẳng định
13


rõ ràng, trực tiếp và cụ thể về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trong
nền kinh tế như Hội nghị trung ương 3 khóa IX và các văn kiện khác trước đây.

Trên thực tế, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang được sắp xếp, đổi mới
theo hướng thu hẹp dần, giảm bớt ở nhiều vị trí khơng cần đến sự hiện diện doanh
nghiệp nhà nước, kể cả diện hoạt động- phạm vi ngành, lĩnh vực có doanh nghiệp
nhà nước và mật độ hiện diện của doanh nghiệp nhà nước- số lương doanh nghiệp

nhà nước cùng kinh doanh trong ngành, lĩnh vực. Số ngành, lĩnh vực nhà nước giữ
100% vốn đã giảm từ 43 ngành, lĩnh vực năm 2002 xuống 20 ngành, lĩnh vực năm
2011. Số doanh nghiệp nhà nước từ 12.600 doanh nghiệp năm 1991 cịn 3265 doanh
nghiệp năm 2011, trong đó, số doanh nghiệp sở hữu 100% vốn của nhà nước từ
5.655 doanh nghiệp năm 2001 còn 1.254 doanh nghiệp năm 2013.
Doanh nghiệp nhà nước nắm giữ nhiều vị trí quan trọng có ảnh hưởng lớn đến
nhiều ngành, lĩnh vực và nền kinh tế. Cuối năm 2011, có 452 doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực quốc phịng an ninh và hoạt động cơng ích chiếm 34,5%. Số doanh nghiệp còn lại
hoạt động kinh doanh và giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực hạ tầng. Đây là những vị
trí quan trọng cần có doanh nghiệp nhà nước để phát triển. Những vị trí này chủ yếu do
các tập đồn kinh tế, tổng cơng ty nhà nước nắm giữ. Các Doanh nghiệp nhà nước chủ
yếu thông qua các tập đồn kinh tế và tổng cơng ty nhà nước giữ vai trị chi phối hoặc
có ảnh hưởng đến các ngành, lĩnh vực quan trọng như điện, than, xăng dầu, bưu chính
viễn thơng, .... Doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm gần 1% tổng số doanh
nghiệp cả nước nhưng lại có các sản phẩm dịch vụ quan trọng trong nền kinh tế như hệ
thống lưới điện quốc gia đã vươn tới những vùng sâu, vùng xa, đưa tỷ lệ hộ sử dụng điện
cả nước đạt 97,5%. Doanh nghiệp nhà nước cung ứng gần như toàn bộ than, phần lớn
thép, xi măng cho nền kinh tế, cung ứng 85% sản lượng xăng dầu, 100% vận tải đường
sắt, 98% lượng vận tải hàng khơng nội địa, 56% dịch vụ tài chính, tín dụng; 70% lượng
gạo xuất khẩu, 80% lượng phân bón hóa học, 95% khách hàng sử dụng dịch vụ viễn
thông của 2 tập đồn bưu chính viễn thơng Việt Nam- VNPT và tập đồn viễn thơng qn
đội- Vietel. Năm 2012, Chính phủ đánh giá tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp nhà nước phát triển tương đối ổn định, hơn 80% doanh
nghiệp làm ăn có lãi, các tập đồn, tổng cơng ty nhà

14


nước đạt tổng doanh thu hơn 1.621 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2011, lợi
nhuận trước thuế đạt 127,5 nghìn tỷ đồng.

Do nắm giữ các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nên Doanh nghiệp nhà nước
giữ vị trí độc quyền ở một số ngành, lĩnh vực mang tính chất độc quyền tự nhiên và độc
quyền do cạnh tranh không lành mạnh mà ra. Nguyên nhân của thực trạng này là do
nhà nước thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp nhà nước độc lập thành
các tổng công ty, sáp nhập các tổng công ty thành các tập đoàn kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước được dùng để điều tiết vĩ mô, ổn định thị trường, bình
ổn nền kinh tế. Vai trị này được nhấn mạnh đặc biệt trong thời ký kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp trước đây. Hiện nay, Doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục thể hiện vai trị
này, tuy nhiên, quy mơ và mức độ giảm đi rất nhiều. Năm 2008- 2009, doanh nghiệp
nhà nước được sử dụng nguồn vốn nhà nước hoặc nguồn vốn tự huy động để tăng đầu
tư, chống suy giảm kinh tế. Năm 2011- 2012, doanh nghiệp nhà nước được sử dụng để
thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bằng cách cắt giảm đầu
tư và chi tiêu, không tăng giá bán sản phẩm, dịch vụ (than, điện, xăng dầu, sắt thép,..)
theo yêu cầu của nhà nước. Tuy nhiên với nền kinh tế thị trương hiện nay, vai trị điều
tiết vĩ mơ khơng cịn phù hơp. Việc lạm dụng vai trị này làm thị trường bọ bóp méo,
tạo sự bất bình đẳng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, vị trí, vai trị
của doanh nghiệp nhà nước được định vị lại với nhận thức đúng đắn về kinh tế nhà
nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo khơng biểu hiện ở số lượng đông đảo doanh
nghiệp nhà nước, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế hay tổng sản phẩm quốc nội,
không phải ở việc doanh nghiệp nhà nước phải luôn luôn làm công cụ vật chất để nhà
nước định hướng và điều tiết vĩ mô hay doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ những vị
trí then chốt trong nền kinh tế với toàn bộ là sở hữu nhà nước. Vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước phải là ở việc doanh nghiệp nhà nước đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghiệp, đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội.
Doanh nghiệp nhà nước góp phần bảo đảm vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước tạo lập, dẫn dắt, thúc đẩy hình thành, phát tiển nền tảng hạ tầng
kinh tế cơ bản và thiết yếu, tạo đà cho phát triển kinh tế xã hội, thúc đầy cạnh tranh và
hội nhập. Doanh nghiệp nhà nước làm công cụ khắc phục những thất
15



bại hoặc thiếu hụt của thị trường khi có các lĩnh vực, ngành nghề khơng có thị
trường, các thành phần kinh tế ngồi quốc doanh khơng tham gia hay do độc quyền
tự nhiên, chưa hình thành được thị trường cạnh tranh. Doanh nghiệp nhà nước làm
công cụ hỗ trợ với các chính sách điều tiết kinh tế, ổn đinh kinh tế vĩ mô được áp
dụng trong những trường hợp đặc biệt như khủng hoảng, suy giảm, lạm phát cao, ...
Doanh nghiệp nhà nước góp phần tạo ra vị thế chủ đạo cho kinh tế nhà nước
dựa trên ngành, lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước hoạt động, mức độ sở hữu của nhà
nước ở các doanh nghiệp nhà nước và tổng sở hữu nhà nước trong ngành, lĩnh vực
hoạt động chính hay quy mô của doanh nghiệp nhà nước.
1.2.

Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Theo quan điểm của nhiều quốc gia đã tiến hành cổ phần hóa như Trung
Quốc, Liên Xơ cũ, q trình cổ phần hóa nằm trong q trình lớn hơn là tư nhân
hóa. Tư nhân hóa theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc là “Sự biến đổi tương quan
giữa nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước ưu tiên thị trường.
Nền kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển, hạn chế sự can thiệp trực tiếp của
nhà nước vào nền kinh tế” [16, 84].
Quan điểm cổ phần hóa của Trung Quốc dựa trên tư tưởng cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lenin coi cổ phần hóa là một bộ phận quan trọng trong chuyển đổi
doanh nghiệp nhà nước, với mục tiêu tìm kiếm hiệu quả kinh doanh chứ khơng phải
tìm kiếm các hình thức sở hữu khác nhau.
Quan niệm cổ phần hóa của các nước đều hướng đến việc nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh, thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển mơ hình doanh nghiệp
một chủ sở hữu là nhà nước sang mơ hình cơng ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để
phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

Tại Việt Nam, theo quan điểm của Đảng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đáp ứng cơ chế thị trường, huy động vốn
từ các thành phần kinh tế. Đảng và nhà nước khẳng định cổ phần hóa khơng nhằm
mục đích tư nhân hóa. Cổ phần hóa hướng tới việc tháo gỡ khó khăn về vốn, cơ chế
hoạt động, không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nước.
16


Thuật ngữ cổ phần hóa xuất hiện ở Việt Nam cuối những năm 1980, đầu
những năm 1990 gắn với công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Có hai luồng
ý kiến trái ngược nhau về cổ phần hóa ở nước ta. Một bên cho rằng cổ phần hóa ở
Việt Nam khơng khác gì q trình tư nhân hóa. Đa số cho rằng, cổ phần hóa ở Việt
Nam khơng phải tư nhân hóa. Khi luật doanh nghiệp 2005 cịn hiệu lực, ông Hồ
Xuân Hùng- phó trưởng ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương đã
khẳng định: “Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hồn tồn khơng phải tư
nhân hóa. Với những doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trên 50% vốn sau khi cổ
phần, thì theo luật doanh nghiệp nó vẫn là doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy khơng
nên băn khoăn nó là tư nhân hay là nhà nước”.
Trong tiến trình thực hiện cổ phần hóa, đã có rất nhiều khái niệm về cổ phần
hóa được đưa ra.
Ơng Đỗ Mai Thành cho rằng “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc
nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản doanh nghiệp của mình cho các cá
nhân hay tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công
nhân viên của chính doanh nghiệp nhà nước thơng qua đấu thầu cơng khai hay
thơng qua thị trường chứng khốn để hình thành nên các công ty cổ phần” [30, 85].
Hay một khái niệm khác: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc
chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước từ một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước thành
doanh nghiệp đa sở hữu, theo đó tùy vị trí và tính chất cụ thể của doanh nghiệp
trong nền kinh tế quốc dân mà nhà nước vẫn giữ vai trị chi phối hoặc khơng cần giữ
vai trò chi phối nữa” [16, 84].

Như vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước khơng phải q trình tư nhân hóa
mà là q trình đa dạng hóa chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Nhà nước sẽ chuyển một
phần hoặc toàn bộ phần vốn của nhà nước cho cá nhân, tổ chức khác như người lao
động trong doanh nghiệp, cổ đơng ngồi doanh nghiệp nhằm đa dạng hóa các chủ sở
hữu cho doanh nghiệp, góp phần tạo sự năng động và hiệu quả trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước, phát
huy cao độ quyền tự chủ của doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn,
tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản
17


thuộc sở hữu nhà nước ngày càng tăng lên, tạo sự bình đẳng giữa khu vực kinh tế
nhà nước và khu vực kinh tế ngồi nhà nước.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam có những đặc điểm:
Thứ nhất, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là biện pháp chuyển doanh
nghiệp từ sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần- đa sở hữu. Doanh nghiệp
được cổ phần hóa sẽ khơng chỉ có một chủ sở hữu độc quyền quyết định mọi vấn đề
về đầu tư, kinh doanh mà sẽ có các chủ sở hữu- các cổ đơng đã đóng góp vốn, mua
cổ phần tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, Cổ phần hóa là q trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần. Đây là hình thức chuyển đổi loại
hình doanh nghiệp từ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là nhà nước sang
công ty cổ phần. Doanh nghiệp sau khi cổ phần phải hoạt động tuân thủ các quy
định của luật doanh nghiệp.
Ba là, Quá trình cổ phần hóa được tiến hành thơng qua hình thức nhà nước
bán một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Khi tiến hành cổ
phần hóa, doanh nghiệp nhà nước tiến hành phát hành và chào bán cổ phần. Doanh
nghiệp nhà nước sẽ lựa chọn các hình thức phát hành cổ phần khác nhau căn cứ vào
nhu cầu nắm giữ cổ phần chi phối trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nếu muốn

nắm giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp nhà nước lựa chọn hình thức bán một phần
vốn nhà nước hiện có hay phát hành thêm cổ phần để huy động vốn. Nếu khơng có
nhu cầu nắm giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp nhà nước có thể bán tồn bộ vốn
nhà nước hiện có để các nhà đầu tư tự quyết định phần trăm nắm giữ cổ phần của
mình có tính đến những giới hạn mà quy định pháp luật đặt ra.
Bản chất của cổ phần hóa:
Bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được xem xét trên 3 khía
cạnh:
Về bản chất pháp lý: Q trình cổ phần hóa là thay đổi chủ sở hữu, biến doanh
nghiệp một chủ là nhà nước thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu khác nhau bằng cách
bán một phần hay tồn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp cho những người
khác. Những người này trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp theo tỷ lệ tài
18


sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Các chủ sở hữu có quyền và
nghĩa vụ pháp lý, được hưởng lợi tức và các quyền tham gia hoạt động quản lý
doanh nghiệp tương đương với phần vốn góp đã mua.
Về bản chất chính trị: Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước khơng phải q
trình tư nhân hóa tồn bộ nền kinh tế mà là q trình tư nhân hóa một phần. Nhà
nước vẫn giữ phần vốn góp nhất định thậm chí là chi phối trong doanh nghiệp sau
cổ phần hóa. Theo luật doanh nghiệp 2005, sau khi cổ phần hóa, nhà nước vẫn nắm
giữ trên 50% tổng vốn góp thì doanh nghiệp vẫn là doanh nghiệp nhà nước và nhà
nước vẫn nắm giữ vai trò chi phối, quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, với luật doanh
nghiệp mới 2014, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hồn tồn là cơng ty cổ phần,
khơng cịn là doanh nghiệp nhà nước, mọi hoạt động điều hành, quản lý, ra quyết
định đều phải tuân theo các quy định của luật doanh nghiệp về cơng ty cổ phần. Tuy
nhiên, hình thái sở hữu nhà nước vẫn tồn tại. Nó chỉ khơng cịn nắm giữ vai trị chi
phối, vị trí quyết định trong doanh nghiệp mà thơi. Cổ phần hóa khơng xóa bỏ sở
hữu nhà nhà nước mà chỉ giảm mức độ sở hữu nhà nước.

Về bản chất thương mại: Cổ phần hóa là việc mua bán cổ phiếu. Người bán
là doanh nghiệp mong muốn thu thêm tiền để tăng vốn chủ sở hữu. Họ buộc phải
chia nhỏ quyền lực của mình và san sẻ nó cho các chủ sở hữu khác. Người mua cổ
phần hướng đến việc hưởng lợi tức từ cổ phần mình đầu tư vào. Khi nắm giữ tỷ lệ
cổ phần nhất định, người mua cổ phần được gia tăng quyền lợi của mình khi tham
gia vào hoạt động quản lý, biểu quyết các vấn đề của doanh nghiệp.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những điểm khác với
tính quy luật chung của các nước, bởi:
- Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành
trong q trình thực hiện cơng hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này
khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển khi doanh
nghiệp nhà nước là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá
tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.
- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong
cơ chế bao cấp và kế hoạch của nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường,

19


khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát
triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh.
- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức
và hoạt động theo yêu vầu và kế hoạch của nhà nước, khác với các doanh nghiệp
thực hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của
bản thân và tuân theo quy luật thị trường.
- Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà
nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác
với lý do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai

đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội trong và ngoài doanh

nghiệp để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.
Như vậy, chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là một trong
những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết những tồn tại về tình trạng sản xuất, kinh
doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước – vấn đề đang gây trở ngại cho
tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước nước ta có những đặc thù, khác biệt nhất định về đối tượng
cổ phần hóa, chính sách, quy trình cổ phần hóa, vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp,
xử lý các khoản nợ tồn đọng,... sẽ được đề cập ở phần nội dung sau.

1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu tất yếu khi nước ta bước
vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu này xuất phát
từ nhiều nguyên nhân mà quan trọng nhất là từ những hạn chế trong hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước và lợi ích mà cổ phần hóa đem lại.
Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước hiện nay
Doanh nghiệp nhà nước được thành lập ngay sau khi miền Bắc được giải phóng.
Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã góp phần tích cự vào sự nghiệp giải phóng
miền Nam. Tuy nhiên, sau khi đất nước thống nhất, cơ chế bao cấp, nền kinh tế tự cung
tự cấp đã triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh. Mục đích của việc thành lập doanh
nghiệp nhà nước nhằm tạo ra tích lũy cho ngân sách nhà nước, tạo việc

20


làm cho người lao động nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nước không đáp
ứng được mục tiêu này.
Sự yếu kém trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ nhiều
nguyên nhân:
- Do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài. Cơ chế kinh tế
này coi kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, xem nhẹ quy luật kinh

tế thị trường nên hạch tốn doanh nghiệp mang tính hình thức, đội ngũ cán bộ quản
lý quan liêu, nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
không hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu cảu thị trường và thực tế, thái độ lao
động của doanh nghiệp nhà nước mang tính ỷ lại, năng suất lao động thấp.
- Do sự yếu kém của đội ngũ cơng nhân, cán bộ quản lý và trình độ cơng nghệ.
Công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao nên không thể

cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp khơng có tích lũy nội bộ.
- Trình độ quản lý vĩ mô nền kinh tế và doanh nghiệp cịn nhiều yếu kém. Hệ
thống chính sách pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, hiệu lực thấp gây khó khăn cho
doanh nghiệp. Pháp luật còn nhiều kẽ hở gây nên tình trạng kém hiệu quả trong
quản lý tài chính, kế tốn, kiểm tốn, thanh tra. Nhà nước khơng nắm được thực
trạng hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước không xác định rõ
quyền lợi, trách nhiệm của người lao động, người lao động khơng có trách nhiệm,
khơng quan tâm đến quản lý sử dụng tài sản doanh nghiệp, tham nhũng, tiêu cực
phổ biến trong doanh nghiệp.
Mặc dù được sắp xếp, đổi mới nhưng đến nay, đầu tư của các doanh nghiệp nhà
nước vẫn cịn dàn trải, nhiều tập đồn, tổng cơng ty đầu tư ra ngồi ngành vào bất động
sản, ngân hàng, tài chính, thị trường chứng khốn, đầu tư chéo vào các lĩnh vực khác
hàng chục tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2013 theo chỉ đạo của Chính phủ các doanh
nghiệp nhà nước đã thối vốn ngồi được 4.180 tỷ đồng nhưng mới đạt được 19% trong
tổng vốn đã đầu tư ngồi ngành là 22.000 tỷ đồng. Vì vậy, việc thoái vốn trong những
năm tới của các doanh nghiệp nhà nước cần sự cố gắng rất lớn mới có thể hồn thành
mục tiêu đề ra. Khi thị trường bất động sản bị đóng băng, thị trường chứng khốn giảm
sút mạnh, tình hình trong nước và quốc tế gặp khó khăn đã khiến

21


cho tình trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước giảm sút, nợ đọng,

nợ xấu tăng lên đột biến. Tính đến cuối năm 2012, nợ phải trả của các doanh nghiệp
nhà nước tăng nhanh với hơn 1,3 triệu tỷ đồng (chiếm 56% tổng nguồn vốn), lớn
hơn 1,46 lần vốn chủ sở hữu và chiếm 70% nợ xấu của các ngân hàng thương mại,
nợ phải thu của các doanh nghiệp nhà nước cũng tăng lên: 275.975 tỷ đồng trong
đó, nợ khó địi là 13.490 tỷ đồng.
Doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ một nguồn lực rất lớn của nền kinh tế
(chiếm 33,5% vốn sản xuất kinh doanh, 50% vốn đầu tư từ nhà nhà nước, 60% vốn
tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% vốn ODA,...) nhưng hơn 50% doanh
nghiệp nhà nước vẫn thuộc loại vừa và nhỏ, trình độ cơng nghệ, năng suất lao động
và hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp nhà nước cịn thấp. Tỷ
suất lợi nhuận bình qn của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2005-2011 chỉ
đạt 5,8%, trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong cùng giai
đoạn đạt 9,5%, gấp 1,6 lần so với doanh nghiệp nhà nước.
Tình trạng độc quyền trong kinh doanh đã khiến cho hoạt động của nhiều
doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp, thiếu động lực cạnh tranh, giá cả lên
xuống không phù hợp với cơ chế thị trường gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Mơ
hình quản lý các tập đồn, tổng cơng ty nhà nước vẫn cịn nhiều hạn chế, lúng túng,
chưa rõ ràng trong việc phân công, phân cấp và tổ chức thực hiện giữa chức năng
sản xuất kinh doanh và hoạt động cơng ích phi lợi nhuận. Năng lực quản trị doanh
nghiệp chưa được nâng cao và chậm được đổi mới. Cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan quản lý nhà nước trong việc quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp còn
nhiều bất cập, chồng chéo; việc thanh tra, kiểm tra và cơ chế dân chủ, công khai,
minh bạch trong quản trị đối với doanh nghiệp nhà nước bị bng lỏng, tình trạng
tham nhũng, lãng phí chậm được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời đã gây thất
thốt hàng nghìn tỷ đồng của nhà nước điển hình là các vụ tham nhũng tại Tập đồn
Cơng nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin), Tổng công ty hàng hải Việt Nam
(Vinalines), Công ty cho th tài chính II,...
Với những hạn chế đó của doanh nghiệp nhà nước, việc tái cấu trúc doanh
nghiệp nhà nước nói chung và việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nói riêng là


22


một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay.
Vai trò của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy vai trị to lớn của q trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước. Kết quả cổ phần hóa của các nước trên thế giới đã tiến hành
cổ phần hóa đã khẳng định chắc chắn điều đó.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước xử lý quan hệ sản xuất để phát triển lực
lượng sản xuất, tạo mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cổ phần
hóa cải tạo lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất mới phát triển, giải quyết
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đem lại sự đổi mới tư duy, hiệu
quả sử dụng phương tiện sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động.

Cổ phần hóa góp phần tích cực thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nguồn vốn thu được từ cổ phần hóa góp phần vào đổi mới công nghệ, đào
tạo, nâng cao chất lượng lao động thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát huy và tận dụng những ưu điểm của lực lượng sản xuất, cải thiện quan hệ sản
xuất. Cổ phần hóa là địn bẩy để các doanh nghiệp tích cực cạnh tranh, chiếm lĩnh
thị trường để tìm kiếm lợi nhuận.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước góp phần làm thay đổi tư duy xã hội
chủ nghĩa theo chế độ bao cấp lỗi thời lạc hậu, thay vào đó là tư duy năng động,
nhạy bén trước tình hình biến đổi của kinh tế thế giới. Chế độ kinh tế một chủ sở
hữu là nhà nước thực hiện chính sách bao cấp đã lỗi thời, bộc lộ những hạn chế
trong kìm hãm sự phát triển của kinh tế xã hội. Thay đổi nền kinh tế quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa dạng loại hình
kinh tế, đa dạng sở hữu thúc đẩy q trình tìm kiếm lợi nhuận trước những thách
thức khó khăn của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang cơng nghiệp dịch
vụ, đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương, chính sách

đúng đắn của Đảng và nhà nước.
Cổ phần hóa góp phần làm chuyển dịch các thành phần kinh tế. Trước cổ phần
hóa, doanh nghiệp hồn tồn thuộc thành phần kinh tế nhà nước, nhà nước nắm giữ vốn
và quyết định mọi hoạt động sống còn của doanh nghiệp. Sau cổ phần hóa, với
23


sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế từ việc nắm giữ cổ phần trong doanh
nghiệp, tỷ lệ sở hữu cổ phần sẽ quyết định doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh
tế nào. Nếu sở hữu của tập thể người lao động chi phối thì doanh nghiệp thuộc
thành phần kinh tế tập thể. Nếu sở hữu nhà nước chi phối thì doanh nghiệp thuộc
thành phần kinh tế nhà nước. Trường hợp sở hữu tư bản tư nhân chi phối thì doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Như vậy, cổ phần hóa đã làm thành
phần kinh tế nhà nước giảm đi về mặt quy mô, thay vào đó là sự gia tăng quy mơ
của các thành phần kinh tế khác, góp phần vào sự chuyển dịch thành phần kinh tế.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm đa dạng hóa sở hữu vốn nhà nước,
xác định được rõ phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và vốn của các nhà đầu tư
khác, từ đó gắn được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà đầu tư với hiệu
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời vốn, tài sản nhà nước trong
các doanh nghiệp cổ phần hóa được đánh giá lại theo quy định, làm minh bạch được
tài chính doanh nghiệp, làm rõ được công nợ, xử lý được nhiều tồn đọng về vốn, tài
sản, đất đai để từ đó có phương án sử dụng hợp lý hơn.
Cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty, tăng
cường huy động vốn đầu tư từ xã hội, cải tiến khoa học kỹ thuật cơng nghệ, xóa bỏ
tư tưởng nhà nước bao cấp của công nhân viên, tạo ý thức làm việc tốt hơn cho cơng
nhân viên trong cơng ty, xóa bỏ cơ chế quản lý cứng nhắc, yếu kém và khắc phục
tình trạng lãi giả, lỗ thật cịn đang tồn tại trong doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa
là cơ hội để doanh nghiệp tự chủ kinh doanh, bố trí lại cơ cấu tổ chức trong công ty,
tinh giảm biên chế và có cơ hội để phát triển kinh doanh, tìm kiếm khách hàng mới
và nâng cao năng suất lao động. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ giải quyết

được mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, góp phần xã hội hóa
lực lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi cổ phần hóa, người lao
động sẽ gắn bó, có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự
của doanh nghiệp và được hưởng thù lao và lợi nhuận dựa trên chính sức lực mà
mình bỏ ra. Phương thức quản lý được thay đổi sẽ tạo nên sự năng động, tự chủ hơn
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Cổ phần hóa là một yếu tố thúc đẩy sự hành thành và phát triển thị trường chứng
khoán, tạo nên một lĩnh vực hoạt động kinh tế năng động, đưa nền kinh tế Việt
24


Nam hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Các đợt chào bán cổ phần sẽ góp
phần làm thông tin công ty được công khai tạo sự cạnh tranh, phát triển hướng tới
mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Cổ phần hóa là giải pháp quan trọng nhằm huy động
các nguồn lực trong và ngoài nước. Việc huy động các nguồn lực đặc biệt là nguồn
vốn của các cá nhân, tổ chức giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh
doanh, đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong và ngoài nước, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Ưu điểm của công ty cổ phần
Ngay từ tên gọi ”cổ phần hóa”, q trình này đã gắn với kết quả chuyển đổi
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Vậy tại sao hình thức cơng ty cổ
phần lại được lựa chọn làm mục tiêu chuyển đổi mà khơng phải một hình thức cơng
ty khác như cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, ...? Phân tích những
ưu điểm của cơng ty cổ phần ta sẽ trả lời được câu hỏi trên.
Công ty cổ phần được định nghĩa theo luật doanh nghiệp 2014 như sau:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đơng có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và
không hạn chế số lượng tối đa;

- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đơng có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật doanh
nghiệp.
Cơng ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp.
Cơng ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn [29,
85].

25


×