Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Đặc điểm sinh học và ảnh hưởng của axit Salicylic tới một số chỉ tiêu sinh lý của cây hoa cúc trồng tại Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.09 KB, 18 trang )

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cây hoa Cúc (Chrysanthemum morifolium) là một trong những loại hoa cắt
cành phổ biến nhất trên thế giới và là một loại hoa đẹp với nhiều màu sắc khác nhau.
Đối với các nước trên thế giới cũng như Việt Nam thì hoa cúc ln là loại hoa được
lựa chọn nhiều. Hiện trên thế giới có 1500 giống hoa cúc. Hoa của cây cúc là một khối
bao gồm nhiều hoa đơn chụm vào nhau trông giống như một hoa đơn nở. Một khối lá
bắc (bract) màu xanh chen chúc bao quanh hoa đầu. Hoa đầu lại có vịng hoa phía
ngồi(chiếc hoa tỏa tia bằng hoa hình mơi), phân biệt với mắt lồi phía bên trong hoa về
hình dạng và màu sắc.
Hoa cúc nói chung và hoa cúc kim cương nói riêng khơng hề đơn giản bởi
được mệnh danh là nữ hồng hoa cúc, khơng đơn giản chỉ là vẻ đẹp của nó, và cịn vì
sự kiêu sa khó chịu của nó. Muốn chìu được Kim Cương, muốn trồng được Kim
Cương đẹp nhất, trong một khoản thời gian tốt nhất thì người dân phải nắm rõ nhiều
đặc tính riêng của hoa. Chúng rất khó tính chỉ cần sơ ý cây có thể chết rất nhanh. Vì
thế ngay từ khâu chọn giống, bảo quản giống cho đến khi tiến hành trồng cần hết sức
thận trọng. Giống phải đảm bảo tốt, cành mập, lá xanh, bầu cây không bị vỡ, nếu vỡ rễ
sẽ bị tổn thương ảnh hưởng tới sự phát triển của cây con sau này [4].
Salicylic acid (SA) là phytohormone được biết đến với vai trò đa dạng ở thực
vật. SA đóng vai trị điều tiết rất quan trọng đối với các q trình sinh lí, hóa sinh trong
suốt vịng chu kì sống của thực vật. Bên cạnh đó, phytohormone này giữ vai trị quan
trọng trong đáp ứng các stress vơ sinh như hạn, nóng, lạnh, mặn, kim loại nặng và áp
suất thẩm thấu ở thực vật [1].
Axit salicylic (SA) có tác động lớn đến thực vật, với vai trò của một hormone
đa tác động . Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có thể sử dụng axit salicylic để kéo dài
thời gian sống của hoa cắt cành. Ở cây cẩm chướng, khi xử lí SA ở ba nồng độ 1, 1,5
và 2 mM đều làm giảm hàm lượng MDA trong mô, giảm số lượng vi khuẩn trong dung
dịch đồng thời kéo dài thời gian sống của hoa . Tương tự, khi xử lí SA ở nồng độ 100
M đã làm tăng các hàm lượng diệp lục trong lá, hàm lượng proline cũng như tăng
hoạt độ catalase và peroxidase của cành hoa cắt so với đối chứng, chứng tỏ rằng hoạt
động sinh lí của cành hoa cắt có xử lí SA mạnh hơn so với của cành hoa khơng được
xử lí.



1


Axit salicylic ở nồng độ 1 mM làm giảm nồng độ MDA, giảm sự thốt ion và
hoạt tính lipoxygenase nhưng làm tăng hoạt độ các enzyme chống oxy hóa như
catalase, peroxidase, giảm hàm lượng H2O2 , đồng thời, kéo dài đời sống hoa, làm
chậm thời gian rụng cánh. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc xử lí SA ngoại sinh đã
cải thiện khả năng chống chịu với các điều kiện bất lợi của môi trường [4]. Ở mức độ
sinh lí, xử lí SA ngoại sinh giúp duy trì hàm lượng sắc tố quang hợp như ở cây hoa
Cúc dưới tác động của điều kiện bất lợi. Ngoài ra, xử lí SA có thể giữ vai trị bảo vệ hệ
thống quang hợp. SA ngoại sinh ở nồng độ thích hợp cịn có hiệu ứng tăng sinh các
hợp chất có vai trò điều hòa áp suất thẩm thấu, bảo vệ phân tử hoặc chống oxy hóa như
proline, anthocyanin khi cây bị đặt dưới điều kiện hạn. Tác động của các
phytohormone lên các đặc điểm sinh lí của cành hoa sau khi được nghiên cứu ở nhiều
loài khác nhau như hồng, cúc, đồng tiền … Gần đây, axit salicylic, một loại
phytohormon đa tác động đã được chứng minh có tác động kéo dài thời gian tồn tại
của hoa [2]. Tuy nhiên, cơ sở sinh lý, hóa sinh trong tác động của axit salicylic đến sự
kéo dài thời gian sống của hoa mới được quan tâm gần đây. Việc làm sáng tỏ cơ chế
sinh lí của axit salicylic (một loại phytohormon đa tác động) đến sự kéo dài thời gian
sống của hoa cúc là hết sức cần thiết. Hiện nay đã có một số nghiên cứu ảnh hưởng
của axit Salicylic tới một số chất sinh lý của cây hoa cúc và nghiên cứu đặc điểm sinh
học của nó. Tuy nhiên hiệu suất chưa cao.
Xuất phát từ đó, tơi tiến hành đề tài: “Đặc điểm sinh học và ảnh hưởng của axit
Salicylic tới một số chỉ tiêu sinh lý của cây hoa cúc trồng tại Phú Thọ” đã được lựa
chọn thực hiện.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VỀ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Sơ lược về cây hoa Cúc
Cây hoa cúc (Chrysanthemum morifolium) thuộc chi Chrysanthemum, họ
Asteraceae, là một trong những loại cây trồng làm cảnh lâu đời và quan trọng trên thế

giới, có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nhật Bản,.... Nó là loại hoa thương phẩm rất được
ưa chuộng ở phương Đông và phương Tây, khơng chỉ vì sự đa dạng về màu sắc và
hình dáng mà cịn vì dễ nhân giống, dễ điều khiển sự ra hoa theo ý muốn và giữ được
tươi lâu [11]. Chính vì vậy, cây cúc trở thành loại hoa cắt cành thương phẩm 15 phổ
biến trên thế giới, đứng thứ hai sau cây hoa hồng. Giá trị thương mại của

2


cây hoa cúc vào khoảng 145 triệu USD tại Mỹ năm 2009. Cúc là cây có giá trị
kinh tế cao, do đó nó được trồng hầu hết ở các vùng trên thế giới [14].
2.1.1. Phân loại
Giới: Plantae
Ngành: Angiospermatophyta
Lớp: Dicotyledoneae
Bộ: Asterales
Họ: Asteraceae
Chi: Chrysanthemum
Loài: Chrysanthemum morifolium
2.1.2. Giá trị kinh tế
Với sự đa dạng, phong phú về màu sắc và hình dạng hoa, cúc rất thích
hợp và thực sự đang được ưa chuộng như một loại cây cảnh có giá trị về vật chất lẫn
tinh thần. Cúc khơng cần phải chăm sóc nhiều, thậm chí có thể chịu được một vài điều
kiện khắc nghiệt và mang đến cảnh quan đẹp mắt, dễ chịu. Cúc có thể được trồng
trong chậu nhỏ, to hay được trồng thành cụm lớn ngoài vườn rồi lấy hoa để trang trí.
Do vậy, ngày càng nhiều những thí nghiệm nhằm cải tiến chất lượng của cây hoa cúc
được tiến hành, làm cho nó ngày một đa dạng về màu sắc và hình dạng, cũng như tăng
khả năng chống chịu nấm bệnh và thích nghi tốt với mơi trường. Có thể nói, cúc đã và
đang mang lại nguồn lợi rất lớn cho các nhà kinh doanh [16].
Ngoài giá trị như một cây cảnh, cúc còn là một loại dược liệu rất tốt. Ở Việt

Nam, từ xa xưa, người dân đã biết dùng cánh hoa cúc tươi hoặc phơi khô để pha trà
hay đơn giản là nấu nước uống. Một số bài thuốc đơng y cịn sử dụng cúc như một vị
thuốc có tác dụng sơ phong tiết nhiệt, làm nhẹ đầu mắt, cảm cúm, hiệu quả kháng 16
viêm và cải thiện hệ miễn dịch của hoa cúc có thể rút ngắn thời gian bệnh và làm giảm
các triệu chứng ho, sốt, nhức đầu, nghẹt mũi...
2.1.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ giống cây hoa cúc
Hoa cúc có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước châu Âu Theo
Zenhua, Shouhe hoa cúc được trồng ở Trung Quốc cách đây 3000 năm, có nguồn gốc
từ một số lồi hoang dại thuộc loại cúc (Dendranthema), trải qua quá trình trồng trọt,
lai tạo và chọn lọc từ những biến dị để trở thành những giống cúc ngày nay. Các nhà
khảo cổ học Trung Quốc đã chứng minh rằng từ đời Khổng Tử người ta đã dùng hoa

3


cúc trong các lễ mừng thắng lợi và cây hoa cúc đã đi vào các tác phẩm hội họa, điêu
khắc từ đó. Hoa cúc đã xuất sang Nhật (59,28%), Úc (3,29%), Trung Quốc(1,62%).
Xuất sang Hàn Quốc, Bỉ, Thái Lan, Philippin, Singapore, Pakistan, Nga, Campuchia,...
chỉ với lượng nhỏ. Hoạt động xuất khẩu chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi và các cơng ty trong nước có khả năng khai thác thị trường tốt như
Đà Lạt Hasfarm, Bonnie Farm, Apolo, Innova,... Từ những năm 1930, việc trồng hoa
cúc được coi trọng, được bảo hộ và đề cao, đến những năm 1980, hoa cúc được phát
triển mạnh. Năm 1982, Trung Quốc đã tổ chức triển lãm hoa cúc đầu tiên ở Thượng
Hải với hơn một nghìn giống cúc, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong việc
trồng hoa cúc [17]. Các năm sau đó các nhà khoa học Trung Quốc đã thu thập mô tả
chụp ảnh hàng nghìn màu giống và liếp tục tổ chức các cuộc triển lãm hoa cúc. Ở Nhật
Bản, cây hoa cúc được di thực từ Trung Quốc sang, nó được đánh giá rất cao và được
mệnh danh là “Hoàng thất quốc hoa”. Năm 1889 Edsmit đã bắt đầu lai tạo thành công
nhiều loại cúc và ông đặt tên cho hơn 100 giống cúc của các thế hệ sau đó, một số
khác ngày nay vẫn cịn duy trì và được trồng đến ngày nay. Năm 1843, nhà thực vật

học người Anh Fortune mang từ Trung Quốc giống cúc Chusan Daisy lai tạo ra các
loại hình cầu và hình tán xạ ngày nay. Năm 1789 nước Pháp nhập từ Trung Quốc 3
loại cúc đại đóa, đến năm 1927. Bemct đã thành cơng trong việc lai tạo ra giống cúc
mới dẫn đến một sự cải tiến rất mạnh mẽ về giống cúc ởchâu Âu [19]. Ở Mỹ, từ đầu
thế kỷ18 hoa cúc đã được trong nhiều, đến năm 1860 hoa cúc trở thành hàng hoá và
được trồng trong nhà lưới. Ở Việt nam hoa cúc được nhập vào từ thế kỷ 15, người Việt
Nam coi hoa cúc là biểu tương của sự thanh cao, là một trong những loài hoa mộc
được xếp vào hàng tứ quý “tùng, cúc, trúc, mai” hoặc “mai, lan, cúc, đào”. Hoa cúc
còn được liệt kê vào loại hoa cao quý “hoa hướng quần phương xuất nhập đầu” nghĩa
là so với mn lồi hoa thì hoa cúc đứng đầu [18].
2.1.4. Sơ lược về sự phát triển cây hoa Cúc trên thế giới
Sản xuất hoa đã mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế các nước trồng hoa trên
thế giới. Diện tích trồng hoa trên thế giới ngày càng mở rộng và không ngừng tăng lên.
Trong những năm gần đây, ngành sản xuất hoa cắt và cây cảnh không ngừng phát triển
và mở rộng ở nhiều nước trên thế giới, như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan, Hà Lan, Mỹ, Pháp, Đức, Anh, Úc, Niu- Di- lân, Kê- ni-a, Ê-cu-a-do,
Cô-lôm-bi-a, Ixraen [15]… Hiện nay, ngành sản xuất hoa cúc trên thế giới đang phát

4


triển mạnh và mang tính thương mại cao. Sản xuất hoa đã mang lại lợi ích kinh tế to
lớn cho nền kinh tế các nước trồng hoa trên thế giới nhất là đối với các nước đang phát
triển. Hoa cúc được trồng nhiều nhất ở các nước Nhật Bản, Pháp, Mỹ, Trung Quốc và
được ưa chuộng bởi sự đa dạng, phong phú về màu sắc, kiểu dáng, kích cỡ hoa, hương
thơm kín đáo của hoa.
Sản xuất hoa của thế giới sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, nhất là các nước châu
Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh. Hướng sản xuất hoa là tăng năng suất hoa, giảm chi
phí lao động, giảm giá thành hoa. Mục tiêu của sản xuất hoa cần hướng tới là giống
hoa đẹp, tươi chất lượng cao và giá thành thấp. Trong các loài hoa thông dụng, cây hoa

cúc thuộc loại cây hoa lâu đời, được ưa chuộng và trồng rộng rãi nhất trên thếgiới. Hoa
cúc là một trong 5 loại hoa cắt cành phổ biến nhất trên thế giới. Cây hoa cúc thu hút
người tiêu dùng đặc biệt ở màu sắc phong phú: trắng, vàng, xanh, đỏ, tím, hồng, da
cam… Khơng những vậy, hình dáng và kích cỡ hoa cũng rất đa dạng cùng với khả
năng có thể điều khiển cho ra hoa tạo nguồn hàng hóa quanh năm đã khiến cho hoa
cúc trở thành loài hoa được tiêu thụ đứng thứ hai trên thị trường thế giới (sau hoa
hồng). Cách đây hàng thế kỉ người dân Trung Quốc, Nhật Bản đã trồng những giống
cúc trong vườn của họ [19]. Ở Nhật Bản cúc được coi là Quốc hoa, thậm chí ở các nhà
hàng người ta có thể trang trí một bữa ăn với toàn hoa cúc. Tiếp sau Nhật Bản những
nước trồng nhiều hoa cúc là: Hà Lan, Côlômbia, Trung Quốc. Hà Lan là một trong
những nước lớn nhất thế giới về xuất khẩu hoa, cây cảnh nói chung và xuất khẩu cúc
nói riêng. Diện tích trồng cúc của Hà Lan chiếm 30% tổng diện tích trồng hoa tươi.
Năng suất hoa tươi từ năm 1990 – 1995 tăng trung bình từ10 – 15%/1ha. Hàng năm
Hà Lan đã sản xuất hàng trăm triệu cành hoa cắt và hoa chậu phục vụ cho thị trường
tiêu thụ rộng lớn gồm trên 80 nước trên thếgiới. Năm 1998, Hà Lan sản xuất 866 triệu
cành và năm 1999, sản xuất 1046 triệu cành hoa cúc cắt. Ở Nhật Bản cúc được coi là
Quốc hoa, thậm chí ở các nhà hàng người ta có thể trang trí một bữa ăn với toàn hoa
cúc. Tiếp sau Nhật Bản những nước trồng nhiều hoa cúc là: Hà Lan, Côlômbia, Trung
Quốc. Hà Lan là một trong những nước lớn nhất thế giới về xuất khẩu hoa, cây cảnh
nói chung và xuất khẩu cúc nói riêng. Diện tích trồng cúc của Hà Lan chiếm 30% tổng
diện tích trồng hoa tươi. Năng suất hoa tươi từ năm 1990 – 1995 tăng trung bình từ10
– 15%/1ha. Hàng năm Hà Lan đã sản xuất hàng trăm triệu cành hoa cắt và hoa chậu
phục vụ cho thị trường tiêu thụ rộng lớn gồm trên 80 nước trên thếgiới. Năm 1998, Hà

5


Lan sản xuất 866 triệu cành và năm 1999, sản xuất 1046 triệu cành hoa cúc cắt. Một
trong những nguyên nhân quan trọng góp phần tạo ra sự thành cơng của Hà Lan là sử
dụng phương pháp nhân giống invitro để sản xuất cây con. Sau Hà Lan là Colombia –

năm 1990 thu được 150 triệu USD từ việc xuất khẩu hoa cúc, đến năm 1992 đã lên đến
200 triệu USD [4].
Nhật Bản có nhu cầu sử dụng hoa cúc rất lớn. Diện tích trồng hoa cúc chiếm 2/3
tổng diện tích trồng hoa. Năm 1991 diện tích trồng hoa cúc ở Nhật Bản và 614 ha
ngoài trời và 1150 ha nhà kính. Tuy vậy hàng năm Nhật Bản vẫn phải nhập một lượng
lớn hoa cúc từ Hà Lan và một số nước khác trên thếgiới. Năm 1996 Nhật Bản đã chọn
Việt Nam là một trong số những nước sẽ xuất khẩu hoa cúc cho Nhật Bản. Một số
nước khác như Thái Lan, cúc đã được trồng quanh năm với số lượng cành cắt hàng
năm là 50.841.500. Trung Quốc cũng là nơi có nguồn hoa cúc phong phú, việc xuất
khẩu hoa cúc được chú trọng ở màu sắc hoa và hình dạng hoa. Đây cũng là nước có kỹ
thuật tiên tiến trong việc sản xuất hoa cúc khô [22].
Hiện nay, Trung Quốc là nước có diện tích trồng hoa, cây cảnh lớn nhất thế giới
với diện tích là 122.600 ha, nước có diện tích trồng hoa, cây cảnh lớn thứ hai là Ấn
Độ: 65.000 ha. Mỹ là nước đứng thứ 3, với khoảng 23.300 ha [4].
Theo báo cáo năm 2005 của FAO, giá trị sản lượng hoa, cây cảnh của toàn thế
giới năm 1995 đạt 45 tỷ USD, đến năm 2004 tăng lên 56 tỷ USD (tốc độ tăng bình
quân năm là 20%). Trên thế giới có 3 thị trường tiêu thụ hoa chính là Mỹ, các nước
châu Âu và Nhật Bản. Hàng năm, giá trị xuất khẩu hoa cắt trên thế giới khoảng 25
tỷ USD, đứng đầu trong 4 nước xuất khẩu hoa trên thế giới là Hà Lan 1.590 triệu USD,
Cô-lôm-bi-a 430 triệu USD, Kê-ny-a 70 triệu USD và Ixraen 135 triệu USD [5].
Hà Lan là một trong những nước lớn nhất thế giới về xuất khẩu hoa, cây cảnh
nói chung và xuất khẩu cúc nói riêng. Diện tích trồng cúc của Hà Lan chiếm 30% tổng
diện tích trồng hoa tươi. Hàng năm, Hà Lan đã sản xuất hàng trăm triệu hoa cúc cắt
cành và hoa chậu phục vụ cho thị trường tiêu thụ rộng lớn gồm trên 80 nước trên thế
giới. Tiếp sau là các nước: Nhật Bản, Cơlơmbia, Trung Quốc… Năm 2006, có 4 nước
sản xuất hoa cúc trên thế giới đạt sản lượng cao nhất là Hà Lan đứng đầu với sản
lượng 1,5 tỷ cành, Côlômbia là 900 triệu cành, Mê-hi-cô và I-ta-li-a đạt 300 triệu cành
[20].

6



Nhật Bản hiện đang dẫn đầu tại châu Á về sản xuất và tiêu thụ hoa cúc, hàng
năm Nhật Bản tiêu thụ khoảng gần 4.000 triệu Euro để phục vụ nhu cầu hoa trong
nước [21]. Người dân Nhật Bản ưa thích hoa cúc và cúc trở thành là lồi hoa quan
trọng nhất tại Nhật Bản chiếm tới 36% sản phẩm nông nghiệp, mỗi năm Nhật Bản sản
xuất khoảng hơn hai trăm triệu cành hoa phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Diện tích trồng hoa cúc chiếm 2/3 tổng diện tích trồng hoa. Năm 2008 diện tích trồng
hoa ở Nhật Bản là 16.800 ha, giá trị sản lượng đạt 2.599 triệu USD [9]. Tuy vậy Nhật
Bản vẫn phải nhập một lượng lớn hoa cúc từ Hà Lan và một số nước khác trên thế giới
như Trung Quốc, Đài Loan, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Cô-lôm-bi-a… Ở Malaixia, cúc
chiếm 23% tổng sản lượng hoa. Ngoài lan ra, 3 loại hoa quan trọng nhất là hồng, cúc
và cẩm chướng chiếm 91,1% tổng sản lượng hoa ôn đới (Lim Heng Jong, 1998). Một
số nước khác như Thái Lan, cúc đã được trồng quanh năm với sản lượng cành cắt hàng
năm là 50.841.500 cành và đạt năng suất 101.700/Rai (1ha= 6,25Rai) [13]. Ở Trung
Quốc, cúc là 1 trong 10 loài hoa cắt quan trọng sau hồng và cẩm chướng chiếm
khoảng 20% tổng số hoa cắt trên thị trường bán buôn ở Bắc Kinh và Côn Minh. Vùng
sản xuất hoa cúc chính là Quảng Đơng, Thượng Hải, Bắc Kinh bao gồm các giống ra
hoa mùa Hè, Thu, Đông sớm và Xuân muộn với loại cúc đơn, màu được ưa chuộng
nhất là vàng, trắng, đỏ [8]. Hàng năm, kim ngạch xuất nhập khẩu hoa cúc trên thế giới
ước đạt tới 1,5 tỷ USD.
Số liệu trên cho thấy một số nước vừa xuất khẩu đồng thời nhập khẩu hoa cúc.
Sở dĩ có điều này là do đặc điểm của giống phản ứng chặt chẽ với điều kiện ngoại
cảnh và điều kiện khí hậu thời tiết của các nước khác nhau nên chủng loại hoa cúc
trồng cung cấp cho thị trường khác nhau. Vì vậy mà có những giống hoa cúc nếu trồng
trái vụ chi phí điều khiển điều kiện ngoại cảnh làm cho giá thành sẽ cao hơn so với
nhập khẩu hoa cúc từ nước khác về [7].
Đây là một điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất hoa cúc ở Việt Nam
khi trong điều kiện khí hậu Việt Nam cây hoa cúc sinh trưởng phát triển tốt, cho năng
suất, chất lượng ổn định.

2.1.5. Sơ lược về sự phát triển cây hoa Cúc ở Việt Nam
Hoa cúc được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ15, đến đầu thế kỷ19 đã hình
thành một sốvùng chuyên nhỏ cung cấp cho nhân dân. Một phần để chơi, một phần
phục vụ việc cúng lễ và một phần dùng làm dược liệu. Nếu xét về cơ cấu chủng loại tất

7


cả các loại hoa thì trước những năm 1997 diện tích hoa hồng nhiều nhất chiếm 31%
nhưng từ 1998 trở lại đây diện tích hoa cúc đã vượt lên chiếm 42%, trong đó hoa hồng
chỉ cịn 29,4%. Riêng ở Hà Nội tổng sản lượng hoa cúc năm 1999 đạt 41,3 tỷ đồng,
xuất khẩu sang Trung Quốc 3,6 tỷ đồng, tốc độ tăng hàng năm khoảng 10%. Hiện nay
hoa cúc được trồng khắp nước ta, nó có mặt ở mọi nơi từ núi cao đến đồng bằng, từ
nông thôn đến thành thị nhưng chủ yếu tập trung ở các vùng hoa truyền thống của
thành phố, khu công nghiệp, khu du lịch, nghỉ mát như Ngọc Hà, Quảng An, Nhật Tân
(Hà Nội), Đằng Hải, Đằng Lâm (Hải Phịng), Hồnh Bồ, HạLong (Quảng Ninh), Triệu
Sơn, thành phố Thanh Hố (Thanh Hố), Gị Vấp, Hoặc Mơn (thành phố Hồ Chí
Minh), thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng) với tổng diện tích trồng hoa khoảng 2000 ha.
Riêng Hà Nội và Đà Lạt là những nơi lý tưởng cho việc sinh trưởng và phát triển của
hầu hết các giống cúc được nhập từ nước ngoài vào. Theo số liệu của Tổng cục thống
kê năm 2003 cả nước có 9.430 ha hoa và cây cảnh các loại sản lượng 482,6 tỷ đồng,
trong đó hoa cúc là 1.484 ha cho sản lượng 129,49 tỷ đồng và được phân bố nhiều tỉnh
trong nước. Ở Hải Phòng, cúc là cây quan trọng thứ hai trong cơ cấu sản xuất hoa tươi
cùng với layơn, cúc sẽ là mặt hàng xuất khẩu trong những năm tới. Hiện nay ởViệt
Nam đang có một số cơng ty nước ngồi vào th đất lập doanh nghiệp hoặc liên
doanh hợp tác sản xuất hoa. Chỉ tính riêng tỉnh Lâm Đồng đã có 4 cơng ty của các
nước như Nhật Bản, Thái Lan ở Bảo Lộc, Đài Loan ở Di Linh, Chánh Đài Lâm ở Đức
Trọng và Hasfarm ở Đà Lạt, trong đó họ rất chú ý đến sản xuất cúc. Đây là tín hiệu
đáng mừng cho sự phát triển ngành sản xuất hoa Việt Nam nói chung, song cũng đáng
lo cho các nhà sản xuất hoa nội địa. Ở các tỉnh phía Nam thì Đà Lạt là nơi có diện tích

trồng cúc lớn nhất, Đà Lạt là nơi lý tưởng cho sinh trưởng và phát triển của các giống
hoa cúc nên một số cơng ty nước ngồi đã lập công ty hoặc liên doanh sản xuất ở đây
như Chánh Đài Lâm, Hasfam, chỉ riêng công ty Hasfam (100% vốn đầu tư nước
ngoài) chuyên sản xuất hoa cúc cắt, đặc biệt là hoa cúc chùm đã cung cấp 60% sản
lượng hoa cho thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Bắc [6]. Trước năm 1992
việc sản xuất và tiêu thụ hoa cúc ở Việt Nam còn ít, nhưng đến năm 1993 – 1994 với
sự xuất hiện của giống cúc nhập nội CN93 đã mở ra một giai đoạn mới trong kinh
doanh và sản xuất hoa. Cúc CN93 đã bổ sung vào cơ cấu những giống hoa mùa hè vốn
cịn rất ít ở nước ta và hiện giờ giống cúc này đã trở thành giống chiếm ưu thế trên thị
trường. Hiện nay trong sản xuất, cúc có thể trồng quanh năm thay vì trước đây cho

8


trồng được vào vụ thu đông đã đáp ứng nhu cầu về hoa cúc của người tiêu dùng. Hoa
cúc là loại hoa có giá thành thấp hơn các loại hoa khác (400 – 800 đồng/cành) nên
ngồi các vùng đơ thị thì ở những vùng nơng thơn miền núi hoa cúc được tiêu thụ với
mức độ khá (chỉ đứng thứ hai sau hoa hồng) đặc biệt vào ngày lễ tết truyền thống,
ngày rằm. Về thị trường tiêu thụ thì thành phố Hồ Chí Minh là thị trường tiêu thụ hoa
cắt lớn nhất Việt Nam, nhu cầu tiêu dùng hàng ngày từ 40 – 50 ngàn cành/ngày,… tiếp
đó là Hà Nội có nhu cầu tiêu thụ từ 25 – 30 ngàn cành/ngày. Trong số các lồi hoa cắt
tiêu dùng hàng ngày thì hoa cúc chiếm từ 25 – 30% về số lượng và từ 17 – 20% về giá
trị [10].
2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của axit Salicylic tới một số chất sinh lý của thực vật
Axit salicylic (SA) có tác động lớn đến thực vật, với vai trò của một hormone
đa tác động (Hayat, Ali, & Ahmad, 2007; Popova, Pancheva, & Uzunova, 1997).
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có thể sử dụng axit salicylic để kéo dài thời gian sống
của hoa cắt cành. Ở cây cẩm chướng, khi xử lí SA ở ba nồng độ 1, 1,5 và 2 mM đều
làm giảm hàm lượng MDA trong mô, giảm số lượng vi khuẩn trong dung dịch đồng
thời kéo dài thời gian sống của hoa (Mohsen Kazemi & Ameri, 2012). Tương tự, khi

xử lí SA ở nồng độ 100 µM đã làm tăng các hàm lượng diệp lục trong lá, hàm lượng
proline cũng như tăng hoạt độ catalase và peroxidase của cành hoa cắt so với đối
chứng, chứng tỏ rằng hoạt động sinh lí của cành hoa cắt có xử lí SA mạnh hơn so với
của cành hoa khơng được xử lí (Ramtin, Kalatejari, Naderi, & Matinizadeh, 2016). Ở
hoa đồng tiền cắt cành, xử lí SA 100 ppm làm giảm hàm lượng MDA, giảm số lượng
vi khuẩn đồng thời làm tăng thời gian sống của hoa lên cao hơn so với đối chứng
(Mehdikhah, Onsinejad, Ilkaee, & Kaviani, 2016). Axit salicylic ở nồng độ 1 mM làm
giảm nồng độ MDA, giảm sự thoát ion và hoạt tính lipoxygenase nhưng làm tăng hoạt
độ các enzyme chống oxy hóa như catalase, peroxidase, giảm hàm lượng H 2O2, đồng
thời, kéo dài đời sống hoa, làm chậm thời gian rụng cánh (Ataii, Naderi, & KhandanMirkohi, 2015). Khi xử lí SA ở các nồng độ 100, 200 và 300 mg/l đều làm kéo dài thời
gian sống của cả năm giống hoa Alstroemeria peruviana, Gerbera jamesonii, Lilium
asiaticum, Rosa hybrida và Polianthes tuberose, trong đó hiệu quả cao nhất được quan
sát ở nồng độ 300 mg/l (Bayat & Aminifard, 2017). Khi xử lí SA 1,5 mM lên cành hoa
hồng trước khi cắt đã giúp kéo dài thời gian sống của hoa hồng, đồng thời làm giảm sự
oxi hóa lipid, trong khi đó, xử lí cành hồng sau cắt bằng cách phun SA 15 mM hoặc

9


ngâm trong dung dịch có 1,5 mM đã làm giảm sự mất nước, tăng hoạt tính chống oxi
hóa và kéo dài đời sống của hoa so với đối chứng. Cả hai cách xử lí SA trước và sau
khi cắt cành đều đều làm tăng hoạt tính catalase và peroxidase, giảm sự oxi hóa lipid
(M. Kazemi, Abdossi, Kalateh Jari, & Ladan Moghadam, 2017) [16]
3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu
- Nghiên cứu được đặc điểm sinh học của cây hoa cúc trồng tại Phú Thọ
- Đánh giá được những ảnh hưởng của acid Salicylic tới một số chất sinh lý của
cây hoa cúc
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm sinh học (thân, lá, hoa) của cây hoa cúc giống kim

cương trồng tại Phú Thọ
- Đánh giá ảnh hưởng của acid Salicylic tới một số chất sinh lý của cây hoa cúc
giống kim cương.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Cây hoa cúc giống kim cương.
4.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các đặc điểm sinh học (thân, lá, hoa) của cây hoa cúc giống kim cương trồng
tại Phú Thọ.
- Các chỉ tiêu sinh lí, hóa sinh của cây hoa cúc dưới ảnh hưởng của axit
Salicylic.
4.2. Nội dung nghiên cứu
4.2.1. Nghiên cứu các đặc điểm sinh học (thân, lá, hoa) của cây hoa cúc giống kim
cương trồng tại Phú Thọ
4.2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của axit Salicylic tới các chỉ tiêu sinh lí, hóa sinh của
cây hoa cúc
5. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Cách tiếp cận

10


Nghiên cứu đặc điểm sinh học của cây hoa cúc trồng tại Phú Thọ, so sánh với
đặc điểm được mô tả trong các tài liệu khoa học về giống hoa này. Đồng thời, đánh giá
ảnh hưởng của axit salicylic tới các chỉ tiêu sinh lí, hóa sinh của hoa cúc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập và kế thừa số liệu
Các vấn đề về học thuật được thu thập từ sách, báo, tạp chí, báo cáo khoa học
có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

5.2.2. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm hình thái và đánh giá một số chỉ tiêu sinh
trưởng
- Đặc điểm thực vật điển hình: lá, thân, hoa. Mẫu vật nghiên cứu phân loại là
rễ, thân, lá, hoa của cây hoa cúc được thu thập và xử lý theo đúng quy trình kỹ thuật.
5.2.3. Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng của axit salicylic đến các chỉ tiêu sinh
lí, hóa sinh của cây hoa cúc
* Bố trí thí nghiệm:
- Ảnh hưởng của axit salicylic đến các chỉ tiêu sinh lí, hóa sinh của cây hoa cúc:
+ TN1: Ảnh hưởng của axit salicylic (xử lí trước cắt cành) đến các chỉ tiêu sinh
lí của cây hoa cúc:
Cơng thức
SC1
SC2
SC3
SC4
SC5
Nồng độ SA (mM)
0
0,5
1,0
1,5
2,0
Mỗi cơng thức thí nghiệm gồm ba lần lặp lại, mỗi lần gồm 10 cành hoa. SA ở
nồng độ thí nghiệm được phun lên bề mặt lá, sử dụng 200 ml dung dịch cho mỗi lần
nhắc lại. Các chỉ tiêu được phân tích sau 5; 10 và 15 ngày sau xử lí. Theo dõi các chỉ
tiêu sinh lí như hàm lượng sắc tố quang hợp, huỳnh quang diệp lục, anthocyanin, hoạt
độ catalase, hàm lượng prolin, thời gian sống của cành hoa ở các cơng thức thí
nghiệm.
+ TN2: Ảnh hưởng của axit salicylic (xử lí sau cắt cành) đến các chỉ tiêu sinh lí
của hoa cúc cắt cành:

Cơng thức
SC6
SC7
SC8
SC9
SC10
Nồng độ SA (mM)
0
0,5
1,0
1,5
2,0
Mỗi cơng thức thí nghiệm gồm ba lần lặp lại, mỗi lần gồm 10 cành hoa. SA ở
nồng độ thí nghiệm được phun lên bề mặt lá, sử dụng 200 ml dung dịch cho mỗi lần
nhắc lại. Các chỉ tiêu được phân tích sau 5; 10 và 15 ngày sau xử lí. Theo dõi các chỉ
tiêu sinh lí như hàm lượng sắc tố quang hợp, huỳnh quang diệp lục, anthocyanin, hoạt

11


độ catalase, hàm lượng prolin, thời gian sống của cành hoa ở các cơng thức thí
nghiệm.
* Phương pháp phân tích các chỉ tiêu sinh lí, hóa sinh
- Phương pháp xác định thời gian sống của hoa: Thời gian sống của hoa được
tính từ khi cắt cành đến ngày mà 50% cánh hoa nở bị héo.
- Xác định đặc điểm sinh lí, hóa sinh, phân tử:
+ Xác định khối lượng tươi, khối lượng khô: mẫu được xác định khối lượng
tươi bằng cân kĩ thuật (d = 0,0001). Khối lượng khô được xác định bằng cân kĩ thuật
sau khi đã sấy mẫu ở 80oC trong 24 giờ đến khối lượng không đổi.
+ Xác định hàm lượng prolin trong mô thực vật (Mã, Hồng, & Phong, 2013).

Dựa trên phản ứng giữa prolin và dung dịch ninhydrin trong axit tạo hợp
chất màu vàng, hấp thụ bước sóng đặc trưng 520nm.
Cân 0,2g mẫu lá nghiền kĩ, thêm 2ml dung dịch axit sulphosalicylic 3%
ly tâm 7000 vòng/phút trong thời gian 20 phút, lọc lấy dịch lọc.Lấy 1ml dịch chiết cho
vào bình, thêm 1ml axit acetic và 1ml dung dịch ninhydrin, ủ trong nước nóng 100oC
trong thời gian 1 giờ sau đó ủ nước đá 5 phút.Bổ sung vào bình phản ứng 2ml toluen,
lắc đều (15 – 20 giây). Đợi ở nhiệt độ phòng cho tới phản ứng có màu. Lấy phần dịch
màu hồng ở trên đem đo OD520nm bằng máy đo quang phổ.
Hàm lượng prolin được xác định dựa vào đường chuẩn prolin và tính tốn theo cơng
thức:
X(µg/ml)xV(ml)xdf
W(g)
Trong đó: X – giá trị OD520 của mẫu; V - thể tích dịch chiết (= số ml
Prolin (µg/g)=

toluen); df – hệ số pha loãng (trường hợp này là 5); w – khối lượng mẫu.
+ Định lượng diệp lục, anthocyanin bằng phương pháp quang phổ (Mã et al.,
2013).
Hàm lượng sắc tố quang hợp được đo bằng máy quang phổ hấp phụ UV-VIS
GENESYS 10UV(Thermo Electron Corporation, Mỹ).
Cân 0,2 g lá cây đem nghiền trong cối xứ với 5 ml axeton 80%. Sau khi lá đã
được nghiền nhuyễn, thêm 5 ml axeton 80% vào tiếp tục nghiền. Sau đó đổ dung dịch
nghiền được sang ống đong, cho thêm axeton 80% vào tráng cối, rồi lại đổ vào ống
đong đó làm sao cho đạt được đủ10 ml.

12


Sau đó chuyển dung dịch từ ống đong sang ống li tâm để li tâm với tốc độ
4000vòng/phút trong thời gian 5 phút. Sau khi li tâm, chuyển dung dịch nổi sang ống

nghiệm đo OD của dịch chiết ở các bước sóng 663nm, 647nm và 470nm trên máy
quang phổ hấp phụ UV-VIS GENESYS 10UV(Thermo Electron Corporation, Mỹ).
Nồng độ sắc tố quang hợp được tính theo cơng thức (Mac – Kinney, 1941):
Ca
Cb

= 12,7xE663 – 2,69xE647
= 22,9xE647 – 4,68xE663

Ca+b = 8,02xE663 + 20,3xE647
Cx+c =

(1000xE470 - 1,82xCa - 85,02xCb)/198

Trong đó: Ca, Cb, Ca+b, Cx+clà các trị số đo nồng độ (mg/l) tương ứng của các
Chl a, Chl b, Chl a+b và Car.
Hàm lượng sắc tố (mg/g lá tươi) được tính theo cơng thức sau:
CxV
Px1000
Trong đó: A: Hàm lượng sắc tố (mg/g lá tươi).
A(mg/g lá tươi) =

C: Nồng độ sắc tố (mg/l)
V: Thể tích dịch chiết (ml)
P: Khối lượng mẫu tươi (g)
+ Xác định huỳnh quang diệp lục bằng máy đo huỳnh quang Chlorophyll
Fluorometer OS-30 (Mã et al., 2013).
Huỳnh quang chlorophyll được đo trực tiếp từ lá của ít nhất năm cây khác nhau,
mỗi cây đo một lá bằng máy OS30p+ (OPTI-SCIENES, Mỹ) theo phương pháp được
mô tả bởi Nguyễn Văn Mã và nnk (Mã et al., 2013).

Máy đo xác định các chỉ tiêu:
F0: Huỳnh quang tối thiểu.
Fm: Huỳnh quang cực đại.
Fvm (Fv/Fm):Hiệu suất huỳnh quang biến đổi
+ Xác định hoạt độ catalase theo phương pháp chuẩn độ
Cân 0,2g mẫu, nghiền trong cối sứ thêm vài giọt đệm pH7 và một ít CaCO3 để
trung hòa dịch chiết (đến khi ngừng tạo bọt CO2). Chuyển định lượng toàn bộ mẫu đã
nghiền nhỏ vào ống đong 100ml thêm đệm và dẫn đến vạch 40ml, lắc đều. Sau đó đem
lọc qua bơng và giấy lọc, thu dịch trong để xác định hoạt độ catalase.

13


Lấy 2 bình nón dung tích 100ml.
- Bình 1 (TN): Cho 10 ml dung dịch H2O2 0,1%, 10ml dịch chiết enzyme, ủ ở
30oC trong 30 phút thêm 3ml H2SO4 10% chuẩn độ bằng dung dịch KMnO4 0,1N
cho đến khi xuất hiện màu hồng bền.
- Bình 2 (ĐC): Cho 10 ml dịch chiếtenzyme vào bình, đặt vào nồi cách thủy
đang sơi trong 5 phút để kìm hãm enzyme. Thêm vào bình 10ml H2O2 0,1%, giữ 30
phút ở 30oC, thêm 5ml H2SO4 10% và chuẩn độ như bình TN.
Số mg H2O2 bị phân giải dưới tác dụng của enzyme tính theo cơng thức:
X = [(A-B)x1,7xV1]/(V2xa)
Trong đó: A – Số ml KMnO4 0,1N đã dùng để chuẩn độ H2O2 của bình ĐC.
B – Số ml KMnO4 0,1N đã dùng đễ chuẩn độ H2O2 trong bình TN.
V1 – Tổng thể tích dịch chiết enzyme (=100ml).
V2 – ml dung dịch enzyme lấy để phân tích (10ml).
a – Số gam mẫu lấy để nghiên cứu.
Số đơn vị catalase trong 1 gam mẫu (µmol) H 2O2 bị phân giải sau 1 phút = X/
(30x00,34)
30 – Thời gian enzyme tác dụng (phút).

0,034 - µmol H2O2 (mg)
6. BỐ CỤC DỰ KIẾN CỦA LUẬN VĂN
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu
Chương 1: Tổng quan tài liệu
Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả và thảo luận
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
7. TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Các nội dung, công việc thực hiện

Sản phẩm

STT
1

- Viết đề cương nghiên cứu khoa học

- Đề cương luận văn

- Chuẩn bị vật liệu cho quá trình

14

Thời gian
(bắt đầu-kết
thúc)
6/2019 -7/2019



nghiên cứu
Nội dung 1: Nghiên cứu đặc điểm
2

hình thái của cây cúc trồng tại Phú

- Đặc điểm hình thái
của cây cúc

07/2019 -05/2020

Thọ
Nội dung 2: Nghiên cứu ảnh hưởng - Số liệu về ảnh
của axit salicylic đến các chỉ tiêu sinh hưởng
3

lí của cây hoa cúc

của

axit

salicylic tới các chỉ 07/2019 -05/2020
tiêu sinh lí của cây

4

- Xử lý số liệu


hoa cúc kim cương
- Bộ số liệu đã qua xử

- Viết báo cáo luận văn

lý thống kê

05/2020

- Báo cáo luận văn
5

- Báo cáo luận văn

06/2020

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng việt
1. Cao Phi Bằng, Vũ Xuân Dương, Đặng Trọng Lương. Tác động của salicylic acid tới
một số chỉ tiêu sinh lí của cây Riềng bản địa Bắc Kạn (Alpinia coriandriodora D.
Fang) ở điều kiện thiếu nước
2. Cao Phi Bằng, Lê Thị Mận, Chu Thị Bích Ngọc, Phùng Thị Lan Hương. Nghiên cứu
sử dụng axit salicylic tao dung dịch bảo quản hoa cúc (Chrysamthemum sp.) cắt cành.
3. Nguyễn Văn Tấp, 2008. Sự phát triển cây hoa Cúc trên thế giới .
4. Nguyễn Quang Thạch, Đặng Văn Đông (2002), Cây hoa cúc và kỹ thuật trồng, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.

5. Đặng Văn Đông (2005). Nghiên cứu về chọn tạo và nhân giống hoa cúc ở Việt Nam
6. Nguyễn Thị Diệu Hương, Dương Tấn Nhựt (2004). Khi nghiên cứu hồn thiện quy
trình nhân nhanh giống cây hoa cúc
7. Mã, N. V., Hồng, L. V., & Phong, Ô. X. (2013). Phương pháp nghiên cứu Sinh lý
học thực vật. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Kim Lý, 2001. Kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa cúc
Tài liệu tiếng anh
9. Ataii, D., Naderi, R., & Khandan-Mirkohi, A. (2015). Delaying of Postharvest
Senescence of Lisianthus Cut Flowers by Salicylic Acid Treatment. Journal of
Ornamental Plants, 5(2), 67-74.
10. Ramtin, A., Kalatejari, S., Naderi, R., & Matinizadeh, M. (2016). Effect of
benzyladenine and salicylic acid on
biochemical traits of two cultivars of carnation. Journal of Experimental Biology and
Agricultural Sciences, 4(4),
427-434.
11. Teixeira da Silva, J. A., Shinoyama, H., Aida, R., Matsushita, Y., Raj, S. K., &
Chen, F. (2013). Chrysanthemum Biotechnology: Quo vadis? Critical Reviews in Plant
Sciences, 32(1), 21-52.
doi:10.1080/07352689.2012.696461
12. Murray và Robyn, 1997. Use invitro breeding method to produce seedlings

16


13. Ataii, D., Naderi, R., & Khandan-Mirkohi, A. (2015). Delaying of Postharvest
Senescence of Lisianthus Cut Flowers by Salicylic Acid Treatment. Journal of
Ornamental Plants, 5(2), 67-74.
14. Bayat, H., & Aminifard, M. H. (2017). Salicylic Acid Treatment Extends the Vase
Life of Five Commercial Cut Flowers. Electronic Journal of Biology, 13(1).
15. Hayat, S., Ali, B., & Ahmad, A. (2007). Salicylic acid: biosynthesis, metabolism

and physiological role in plants. In Salicylic acid: A plant hormone (pp. 1-14):
Springer.
16. Kazemi, M., Abdossi, V., Kalateh Jari, S., & Ladan Moghadam, A. R. (2017).
Effect of pre- and postharvest salicylic acid treatment on physio-chemical attributes in
relation to the vase life of cut rose flowers. The Journal of Horticultural Science and
Biotechnology, 1-10. doi:10.1080/14620316.2017.1344571
17. Kazemi, M., & Ameri, A. (2012). Response of vase-life carnation cut flower to
salicylic acid, silver nanoparticles, glutamine and essential oil. Asian J Animal Sci,
6(3), 122-131.
18. Mehdikhah, M., Onsinejad, R., Ilkaee, M. N., & Kaviani, B. (2016). Effect of
Salicylic Acid, Citric Acid and Ascorbic Acid on Post-harvest Quality and Vase Life of
Gerbera (Gerbera jamesonii) Cut Flowers. Journal of Ornamental Plants, 6(3), 181191.
19. Popova, L., Pancheva, T., & Uzunova, A. (1997). Salicylic acid: properties,
biosynthesis and physiological role. Bulg. J. Plant Physiol, 23(1-2), 85-93.
20. Ramtin, A., Kalatejari, S., Naderi, R., & Matinizadeh, M. (2016). Effect of
benzyladenine and salicylic acid on biochemical traits of two cultivars of carnation.
Journal of Experimental Biology and Agricultural Sciences, 4(4), 427-434
21. Teixeira da Silva J.A. (2004), Ornamental Chrysanthemums: improvement by
biotechnology - Review of plant biotechnology and applied genetics, Plant
Cell, Tissue and Organ Culture, 79, pp. 1-18.
22. United States Department of Agriculture (2010), Floriculture crops 2009
summary, National Agricultural Statistics Service, USA.

17


18




×