Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

MÔN LUẬT THƯƠNG mại QUỐC tế TRỌNG tài THƯƠNG mại và điều KIỆN để GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG tài THƯƠNG mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.76 KB, 14 trang )

7hTỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRƯỜNG ĐẠI HỌC TƠN ĐỨC
THẮNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÁO CÁO NHĨM MƠN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Giảng viên hướng dẫn: Lê Trần Quốc Công
Lớp Luật thương mại quốc tế (Ca 4 Thứ 3)
Nhóm : 7
Danh sách sinh viên thực hiện:
Phan Nguyễn Cẩm Tiên-71902046
Nguyễn Thị Quỳnh Như-71902037
Hoàng Thị Thảo-71902042
Đặng Thị Mai Hương-71902027
Trần Thị Kim Ngân-71900962
Nguyễn Trần Diễm Quỳnh-71901061

Lê Nguyễn Tường Vi-71901247
Phùng Thị Như Quỳnh-71901063
Phạm Anh Thư-71902044
Nguyễn Văn Nhã-71900978
TP HCM, THÁNG 4, NĂM 2021
1


MỤC LỤC
1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI...............................................


1.1. Khái niệm.............................................................................................................................

1.2. Đặc điểm...............................................................................................................................

1.3. Hình thức.............................................................................................................................

1.4. Những điều đổi mới của Luật Trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh Trọng tài t
2.

Ý NGHĨA SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.........................

3. VAI TRÒ CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI SO VỚI TÒA ÁN VÀ Ý NGHĨA CỦA LUẬT TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI................................................................................................................................................................... 9
3.1 Ưu điểm.................................................................................................................................................................... 9
3.2 Nhược điểm.............................................................................................................................................................. 9
3.3 Ý nghĩa của luật trọng tài thương mại.................................................................................................................. 9
4. ĐIỀU KIỆN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.......................................... 10
4.1 Phải có thỏa thuận trọng tài................................................................................................................................. 10
4.2 Tranh chấp phát sinh thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài................................................................... 10
4.3 Thỏa thuận trọng tài không vô hiệu.................................................................................................................... 10
4.4 Thỏa thuận trọng tài không thuộc các trường hợp không thực hiện được..................................................... 10
4.5 Điều kiện về hiệu lực đối với chủ thể là cá nhân:............................................................................................... 11
4.6 Điều kiện về hiệu lực đối với chủ thể là tổ chức:............................................................................................... 11
5.

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI................................................ 12

TÀI LIỆU THAM KHẢO (Tham khảo thông qua các đường link sau).................................................................... 14

2



1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1.

Khái niệm
Theo khoản 1 điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì “Trọng tài thương mại là phương thức
giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”.
Như vậy ta có thể hiểu Trọng tài thương mại là hình thức tài phán mà quyền lực của nó được tạo nên bởi
chính các bên trong quan hệ tranh chấp thương mại. Tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, pháp luật
quy định nguyên tắc loại trừ thẩm quyền của tòa án khi các bên đã lựa chọn trọng

tài.
1.2.

Đặc điểm

Thứ nhất, việc tự do lựa chọn trọng tài viên: đối với những tranh chấp có tính chun mơn
cao, các bên có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ chun môn đúng với lĩnh vực tranh chấp.
Thứ hai, thời gian nhanh chóng, linh hoạt, thủ tục giải quyết tranh chấp tại trọng tài nhanh hơn
kiện tụng tại tòa án.
Thứ ba, phán quyết trọng tài được công nhận rộng rãi: cho đến nay đã có nhiều Cơng
ước quốc tế về trọng tài thương mại được ký kết và phê chuẩn bởi nhiều quốc gia như
Công ước New York 1958, Công ước Washington 1965, Công ước Liên Mỹ về trọng tài
thương mại quốc tế; do đó, các phán quyết của trọng tài được công nhận rộng rãi hơn
và dễ thực thi hơn so với các phán quyết ở tịa án.
Thứ tư, tính chung thẩm: nhìn chung, phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm,
các bên tham gia tranh chấp khơng có quyền kháng cáo đối với phán quyết của trọng
tài (tuy nhiên, tịa án vẫn có quyền hạn nhất định đối với việc ra quyết định hủy phán
quyết trọng tài hoặc tuyên bố phán quyết của trọng tài vô hiệu).

Thứ năm, tính bảo mật: nội dung tranh chấp được giữ bí mật, phán quyết của trọng tài không
được công bố rộng rãi. Điều này rất có lợi khi cơng ty muốn giữ uy tín của mình.

Vậy nên các cá nhân, tổ chức thường lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại để tiết kiệm thời gian và bảo mật thơng tin
1.3.

Hình thức
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực.

a) Trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để
giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài vụ việc sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết
xong vụ tranh chấp. Đây là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất và được sử dụng rộng rãi ở
các nước trên thế giới. Tuy nhiên quy định của pháp luâ tr các nước về hình thức trọng tài này
csng ở mức đô rsâu, rôngr khác nhau.
Bản chất của trọng tài vụ viêcr được thể hiênr qua các đă cr trưng cơ bản sau:
Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động
khi giải quyết xong tranh chấp. Theo đó, trọng tài chỉ được thành lâ rp theo thỏa thuânr
của các bên tranh chấp để giải quyết vụ viê cr tranh chấp cụ thể giữa các bên. Khi giải
quyết xong tranh chấp, trọng tài tự chấm dứt hoạt đô ngr.
Trọng tài vụ việc khơng có trụ sở thường trực, khơng có bộ máy điều hành và khơng có danh
sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được chỉ định có thể là người
có tên hoặc ngồi danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
Trọng tài vụ việc khơng có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy tắc tố tụng để giải
quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng. Thông thường, các bên
3


tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố tụng phổ biến nào, thường

là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế.
Trọng tài vụ viêcr lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh trọng tài thương mại năm
2003. Trước khi ban hành Pháp lênhr trọng tài thương mại, hình thức trọng tài vụ viê cr
mới chỉ được ghi nhânr là môtr phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ viê
rc. Sau khi ban hành Pháp lênhr trọng tài thương mại thì diênr mạo của trọng tài vụ viê
cr ở Viêtr Nam được khắc họa rw nxt.
Trọng tài vụ viêcr có mơtr số ưu thế hơn trọng tài thường trực như: giải quyết nhanh
chóng vụ viêcr tranh chấp, ít tốn kxm; các bên có quyền lựa chọn bất kì trọng tài viên
nào trong danh sách trọng tài viên của bất kì trung tâm trọng tài nào….
b) Trọng tài thường trực
Ở Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài. Trung
tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và
có trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có mơtr số đăcr trưng cơ bản sau:
Các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, khơng nằm trong hệ thống cơ quan
nhà nước; nhưng đồng thời vẫn nhận sự hỗ trợ của nhà nước. Các trung tâm trọng tài
được thành lâpr theo sáng kiến của trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phxp, chứ khơng phải được thành lâpr bởi nhà nước. Các trung tâm
trọng tài khơng nằm trong hê rthống cơ quan quản lí nhà nước, csng không thuô rc hê
rthống cơ quan xxt xử nhà nước. Hoạt đôngr của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự
trang trải mà không được cấp kinh phí hoạt đơngr từ ngân sách nhà nước.
Trọng tài viên duy nhất hoăcr hôir đồng trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước
mà nhân danh người thứ ba đô cr lâpr ra phán quyết.
Là tổ chức phi chính phủ nhưng các trung tâm trọng tài vẫn luôn đă rt dưới sự quản lí và
hỗ trợ của Nhà nước. Nhà nước quản lí đối với các trung tâm trọng tài thông qua viê cr
bạn hành các văn bản pháp luâtr tạo cơ sở pháp lí cho viêcr tổ chức và hoạt đơ ngr của
trung tâm trọng tài. Ngồi ra, nhà nước cịn quản lí thơng qua hoạt đơ ngr quản lí hê r
thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong viê cr cấp, thay đổi, bổ sung hay thu
hồi giấy phxp thành lâp,r đăng kí hoạt đơngr của các trung tâm trọng tài.
Các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau. Mỗi trung tâm

trọng tài là môtr pháp nhân, tồn tại đơcr lâpr và bình đ|ng với các trung tâm trọng tài
khác. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới.
Tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của trung tâm trọng
tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm. Ban điều hành gồm có chủ tịch,
một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do
chủ tịch trung tâm trọng tài cử. Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể
tham giai vào việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng. Mỗi
trung tâm trọng tài tự xác định về lĩnh vực hoạt đơ rng của mình tùy theo khả năng chuyên môn
của đội ngs trọng tài viên và phải ghi rw trong điều lê r của trung tâm trọng tài. Trong q trình
hoạt đơ ng,r trung tâm trọng tài có quyền mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên
cơ sở sự chấp thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng được xây dựng
căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với quy định
4


của pháp luật về trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài
hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này.
Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên cơ sở là một
số bản quy tắc trong tài hay một số công ước quốc tế có liên quan csng như bản quy tắc
tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín.
Hoạt động xxt xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của
trung tâm. Mỗi trung tâm trọng tài đều có danh sách riêng về trọng tài viên của trung
tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp chỉ được
giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy, hoạt động xxt xử của
trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm.
1.4.
Những điều đổi mới của Luật Trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh Trọng tài
thương mại 2003

Thứ nhất, mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại. Luật
Trọng tài thương mại (TTTM) đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh TTTM về thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi
thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của
các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của
Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM và phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của
các nước trên thế giới.
Thứ hai, khắc phục sự không rw ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về
các tình huống có thể làm vơ hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 Luật TTTM giới hạn 6
tình huống theo đó thoả thuận trọng tài vơ hiệu. Đặc biệt, cịn có quy định trường hợp
thỏa thuận trọng tài khơng rw ràng thì bên khởi kiện (ngun đơn) có quyền được tự do
lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng thỏa thuận trọng
tài bị vơ hiệu hoặc tình trạng khơng có cơ quan nào giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là
người nước ngồi csng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên
tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế
trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, cho phxp các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù
hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính
hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.
Thứ năm, cho phxp các tổ chức trọng tài nước ngồi được mở chi nhánh, văn phịng
đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên (Chương XII với 07 Điều).
Thứ sáu, nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phxp Hội đồng Trọng tài
được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời (Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định này nhằm giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có
hiệu quả hơn.
Thứ bảy, hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tịa án tun hủy bởi quy định khơng
phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về quyền của một bên được gửi đơn lên Toà án yêu

cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng tài”, bởi vì các quy định
này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro và
5


làm mất đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài mà pháp luật của hầu hết các
nước đều công nhận.
Thứ tám, Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng là
nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng của các nước
phát triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên nhận thấy những
quy định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố
tụng trọng tài và khơng phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền
phản đối tại Trọng tài hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn chặn một cách có hiệu
quả các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.
Thứ chín, thể hiện rw nxt mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong tồn bộ q trình giải
quyết vụ tranh chấp của các bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối
quan hệ pháp lý quan trọng này: xác định rw Tịa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài
và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập
chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu;
xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài;
bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay
đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm
quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM,
tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài csng như các bên tranh chấp tránh được lúng
túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có
hiệu quả.

Thứ mười, quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xxt đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài. Khác với Pháp lệnh TTTM, thủ tục tòa án xxt đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài theo Luật TTTM chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật quy định một

Hội đồng gồm 03 thẩm phán xem xxt đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và quyết
định của Hội đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay (Điều 71)

6


2. Ý NGHĨA SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu được xxt xử thơng qua hệ thống Tồ
án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rw ràng là trong khi số vụ tranh chấp được
giải quyết bằng con đường Trọng tài thương mại còn rất khiêm tốn thì hệ thống Tồ án đã trở nên q
tải, dẫn đến tăng số lượng vụ án tồn đọng, không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM) đã ra đời và có
nhiều quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại. Cụ thể:
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài: trọng tài là cơ quan tài phán phi chính phủ có quyền lực
bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm do đó trọng tài khơng
mang trong mình quyền lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp, phán quyết của trọng tài khơng mang
tính quyền lực nhà nước, khơng đại diện cho ý chí của Nhà nước mà đại diện cho ý chí của các bên
tranh chấp. Điều này đã đặt ra cho TTTM những khó khăn khi khơng có sự đồng thuận, hợp tác thiện
chí của cả hai bên tranh chấp trong q trình tố tụng csng như việc thi hành phán quyết trọng tài. Khi
những khó khăn này vượt ra khỏi sự kiểm soát của trọng tài và cần đến sự giúp đỡ của Tịa án và các
cơ quan tư pháp khác. Vì vậy sự hỗ trợ của Tịa án có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tránh bế tắc cho
hoạt động trọng tài, để trọng tài có thể giải quyết tốt các tranh chấp mà các bên đã tin tưởng giao phó.
Ví dụ như: trong quá trình thành lập Hội đồng trọng tài, có trường hợp bị đơn khơng chọn được trọn
tài viên cho mình, hay các bên khơng chọn được trọng tài viên duy nhất; nếu có một bên tranh chấp
tẩu tán tài sản, làm thất thoát khối tài sản của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với bên kia
thì trọn tài csng khơng thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các hành vi đó,…Điều đó
đặt ra vấn đề cần phải có sự hỗ trợ của Tòa án cho hoạt động của trọng tài để khắc phục những điểm
yếu và phát huy những điểm mạnh của trọng tài. Có như vậy mới đảm bảo cho quá trình giải quyết
tranh chấp tại trọng tài được thông suốt và hiệu quả.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Việt Nam: Các tranh chấp phát sinh

trong thực tiễn kinh doanh ở Việt Nam ngày một nhiều hơn và đa dạng về chủng loại, phức tạp về
tính chất. Điều này địi hỏi phải có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả để đáp ứng các
yêu cầu khác nhau của chủ thể kinh doanh. Tại Việt Nam, trọng tài thương mại đã có lịch sử tồn tại
khá lâu dài, tuy nhiên chưa phải là hình thức được các nhà kinh doanh ưa chuộng, căn bản là do thiếu
sự hỗ trợ từ phía các cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan Tịa án nói riêng. Thực tiễn này địi hỏi
các cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan Tịa án nói riêng phải có sự hỗ trợ nhất định đối với trọng
tài. Chính sự hỗ trợ đó sẽ làm cho hoạt động trọng tài được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của
Nhà nước, đồng thời không làm mất đi ưu thế của hình thức giải quyết tranh chấp tôn trọng tối đa
quyền tự định đoạt của các đương sự.
Thứ ba, xuất phát từ tình trạng quá nhiều án tồn đọng tại các Tòa kinh tế: Cùng với sự phát triển sôi
động của các quan hệ kinh tế, các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại được
đưa đến Tòa kinh tế ngày càng nhiều, đã tạo ra tình trạng “quá tải”, án tồn đọng tại các Tòa kinh tế,
đặc biệt là ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu quản lý Nhà nước đối với hoạt động trọng tài: Nhà nước nói chung và
các cơ quan Nhà nước nói riêng có thẩm quyền quản lý hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội,
trong đó có trọng tài. Nhà nước thơng qua việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về trọng tài
đã thể hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động của trọng tài, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý
cho hoạt động của trọng tài.
Như vậy mối quan hệ đặc trưng giữa Toà án và Trọng tài là mối quan hệ hỗ trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ
trợ và giám sát của Tồ án mà trọng tài tuy là tổ chức tài phán phi chính phủ nhưng vẫn hoạt động được một
cách có hiệu quả. Việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Toà án nhân dân trong hỗ trợ, giám
7


sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của TTTM là một sự tiếp sức cho TTTM, thể hiện quan
điểm của nhà nước trong việc đa dạng hoá phương thức giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận
lợi tối đa cho các chủ thể kinh doanh được sự bảo hộ của nhà nước về mặt pháp lý trong quá trình
thực hiện giao dịch thương mại.

8



3. VAI TRÒ CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI SO VỚI TÒA ÁN VÀ Ý NGHĨA CỦA LUẬT

TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
3.1 Ưu điểm
Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, thuận lợi cho các bên
tham gia.
Trọng tài thương mại đảm bảo tối đa quyền tự do thỏa thuận của các bên, tiết kiệm thời gian
và chi phí cho các bên, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Đảm bảo được bí mật trong q trình giải quyết tranh chấp.
Mang tính thân thiện tạo khả năng tiếp tục duy trì mối quan hệ của các
bên. Là cơ chế giải quyết tranh chấp trung lập cho các bên.
Các phán quyết của trọng tài có thể được cơng nhận và cho thi hành ở nước
ngồi. Trọng tài mang tính chun môn cao.
Trọng tài không đại diện cho quyền lực Nhà nước nên thích hợp để giải quyết tranh chấp giữa
các bên có quốc tịch khác nhau.
3.2 Nhược điểm
Phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm là một ưu thế lớn nhưng nó csng là hạn chế
khơng cho các bên kháng cáo, kháng nghị.
Chi phí trong việc giải quyết trọng tài thường được ấn định trước và thường cao hơn rất nhiều so
với các phương thức giải quyết tranh chấp khác.
=> Xxt về mặt tổng thể, những ưu điểm của thỏa thuận trọng tài vẫn vượt trội, đây là lý do mà
phương thức giải quyết tranh chấp này được lựa chọn nhiều hơn trong quan hệ thương mại
quốc tế.
3.3 Ý nghĩa của luật trọng tài thương mại
Luật trọng tài thương mại là một bước tiến lớn của Việt Nam trong việc phát triển hoạt
động trọng tài. Luật trọng tài thương mại là khung pháp lý quan trọng trong việc phát triển
trọng tài. Thực tế, nhờ luật trọng tài thương mại mà đã có sự phát triển về số lượng như số
lượng Trung tâm trọng tài nhiều hơn nên doanh nghiệp có nhiều lựa chọn hơn, số vụ tranh

chấp được giải quyết tại trọng tài nhiều hơn so với trước đây, số lượng Trọng tài viên csng
tăng lên nên tăng khả năng lựa chọn cho các bên trong tranh chấp. Nhờ Luật trọng tài thương
mại mà có gia tăng về chất lượng của hoạt động trọng tài như chất lượng các phán quyết trọng
tài ngày được nâng cao, doanh nghiệp ngày càng tin tưởng hệ thống trọng tài của Việt Nam.

9


4. ĐIỀU KIỆN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
4.1 Phải có thỏa thuận trọng tài
Đây là điều kiện tiên quyết khi xem xxt khả năng tranh chấp được trọng tài thương mại
giải quyết. Luật trọng tài thương mại 2010 quy định thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước
hoặc sau khi có tranh chấp xảy ra nhưng phải được xác lập bằng văn bản, dưới dạng điều
khoản trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
Các hình thức thỏa thuận csng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và
các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
Thỏa thuận được luật sư, cơng chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chxp lại bằng văn
bản theo yêu cầu của các bên;
Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như
hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do
một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
*Lưu ý: Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng,
hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận

trọng tài.
4.2 Tranh chấp phát sinh thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài
Mặc dù các bên đã có thỏa thuận tranh chấp phát sinh được giải quyết theo cơ chế trọng

tài thương mại, tuy nhiên, vẫn phải xxt xem tranh chấp đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài thương mại hay không. Pháp luật quy định 3 loại tranh chấp mà trọng tài thương mại
có thẩm quyền giải quyết như sau:
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.

4.3 Thỏa thuận trọng tài không vô hiệu
Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu:
Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng
tài Người xác lập thoả thuận trọng tài khơng có thẩm quyền.
*Ví dụ: Người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người đại diện theo pháp luật
hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp
nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền của pháp nhân tham gia hoạt động thương mại.
Người xác lập thoả thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ
luật dân sự.
Thỏa thuận trọng tài không được xác lập dưới hình thức văn bản, là điều khoản trong hợp
đồng hoặc một thỏa thuận riêng.
Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng xp trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và
có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vơ hiệu.
Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
4.4 Thỏa thuận trọng tài không thuộc các trường hợp không thực hiện được
Pháp luật quy định các trường hợp mà thỏa thuận trọng tài khơng thể thực hiện được, do đó, để
tranh chấp được trọng tài thương mại giải quyết thì thỏa thuận đó phải thực hiện được hay nói
10


cách khác không thuộc những trường hợp pháp luật quy định là thỏa thuận trọng tài khơng thể
thực hiện được.
Đó là:

Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung
tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, và các bên
khơng thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.
Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm
xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham
gia giải quyết tranh chấp csng như không lực chọn được trọng tài viên thay thế.

Các bên không lựa chọn được quy tắc tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Hợp đồng cung cấp hàng hóa, dịch vụ giữa Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu
dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng
không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.
4.5 Điều kiện về hiệu lực đối với chủ thể là cá nhân:
Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành
vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp
luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống
hoặc tổ chức còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở
thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Đại diện là việc cá nhân, pháp
nhân nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự. Những người này có quyền và nghĩa vụ đối với cá nhân tham gia thỏa thuận trọng tài mà
mình có liên quan.
4.6 Điều kiện về hiệu lực đối với chủ thể là tổ chức:
Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị
phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận
trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ
trường hợp các bên có thoả thuận khác.

11



5. THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Với tính chất là một phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, trọng tài thương mại sẽ có thẩm
quyền giải quyết các loại tranh chấp phát sinh nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và tranh chấp đó
thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.
Về cách thức đưa ra các giới hạn, pháp luật Việt Nam theo hướng liệt kê những loại tranh chấp có thể
được giải quyết bằng Trọng tài và do đó những loại tranh chấp không được liệt kê được hiểu là không
được giải quyết bằng Trọng tài.
Thứ nhất, tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại:
Tranh chấp này đòi hỏi các bên trong tranh chấp đều phải có hoạt động thương mại, Luật Trọng
tài Thương mại 2010 không định nghĩa khái niệm hoạt động thương mại, mà sử dụng khái niệm hoạt
động thương mại tại Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định:“Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Chủ thể tiến hành hoạt động thương mại trước hết là thương nhân, bao gồm thương nhân Việt Nam và
thương nhân nước ngoài.
Thứ hai, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại. Với
quy định này, chỉ cần một bên trong tranh chấp có hoạt động thương mại, bên cịn lại có thể

tham gia quan hệ với các mục đích phi lợi nhuận như tiêu dùng, nhu cầu cá nhân,… Quy định này mở
rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài. Trước đây, theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài Thương
mại 2003, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại
giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh, nên trong thực tế các tranh chấp giữa một bên là thương nhân
và bên kia không phải là thương nhân đã không được trọng tài giải quyết theo quy định của Pháp lệnh
Trọng tài Thương mại 2003. Tranh chấp giữa một thương nhân và các cá nhân, tổ chức khơng kinh
doanh (có thể bao gồm cả các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của nhà nước) csng có thể
được giải quyết bởi trọng tài thương mại.
Trong quan hệ với các bên có hoạt động thương mại thì các bên này có thể đóng vai trị là người
tiêu dùng. Tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh tuy không thuần túy là
tranh chấp kinh doanh thương mại song nó vẫn thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại nếu các
bên có thỏa thuận trọng tài 1 . Nhưng vấn đề ở đây là sẽ khơng có người tiêu dùng nào kiểm tra xem

hợp đồng theo mẫu có ghi nhận điều khoản giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hay không và csng rất
hiếm có một nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ nào đưa trọng tài vào điều khoản giải quyết tranh chấp.
Hơn nữa hình thức thơng báo csng khơng được quy định, thực tế cho thấy, khơng có một cơ quan
quản lý nhà nước tiến hành xử lý vi phạm hành chính đối với nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ nếu họ
không thực hiện trách nhiệm thông báo về điều khoản trọng tài trước khi giao kết hợp đồng với người
tiêu dùng. Do đó, có thể nói rằng, quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu
dùng bằng trọng tài đã khơng đạt được tính khả thi trong thực tiễn.
Thứ ba, tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định phải giải quyết bằng trọng tài
thương mại.
Trong trường hợp này, tiêu chí hoạt động thương mại khơng cịn được đặt ra, mà chỉ cần trong
pháp luật chuyên ngành có quy định tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài thương mại. Ví dụ:
Trọng tài thương mại có thể được sử dụng để giải quyết tranh chấp trong nội bộ công ty, như theo quy
định tại “Trường hợp thành viên, nhóm thành viên yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài hủy bỏ nghị quyết
đã được thơng qua thì nghị quyết đó vẫn có hiệu lực thi hành cho đến khi có quyết định của Tịa án
hoặc Trọng tài có hiệu lực thi hành”2 .
1 Điềều 38 Lu ật B ảo v ệ quyềền ợl i ngườ i tều dùng năm 2010.
2 Điềều 63 Luậ t Doanh nghiệp 2014

12


Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ so với Pháp lệnh Trọng tài Thương mại trước đây, nhưng Điều 2
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 vẫn tạo ra những cách hiểu khác nhau về phạm vi thẩm quyền
của trọng tài. Yếu tố “hoạt động thương mại” hướng đến nội dung quan hệ tranh chấp, mà không
hướng đến chủ thể quan hệ tranh chấp.
Thực tế csng cho thấy, Luật Trọng tài Thương mại hiện hành vẫn đang tồn tại những bất cập, hạn
chế về thẩm quyền giải quyết tranh chấp, ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của các bên. Bởi vậy, cần
phải chủ động mở rộng phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho phù hợp với thực tế, đảm bảo
phán quyết trọng tài có tính khả thi cao trong thời gian tới.


13


TÀI LIỆU THAM KHẢO (Tham khảo thông qua các đường link sau)
1. />2. />3. />%C3%A0i%20th%C6%B0%C6%A1ng%20m%E1%BA%A1i%20t%E1%BB%93n,l%C3%A0%20tr
%E1%BB%8Dng%20t%C3%A0i%20quy%20ch%E1%BA%BF
4. />5. />%20%C3%A1n%2C%20tr%E1%BB%8Dng,b%C3%AAn%3B%20l%C3%A0%20c%C6%A1%20ch
%E1%BA%BF%20gi%E1%BA%A3i
6. />7. />
14



×