ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÃ THỊ THU HÀ
QUY ƢỚC LÀNG VĂN HĨA VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ
ĐỐI VỚI ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Hà Nội, 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÃ THỊ THU HÀ
QUY ƢỚC LÀNG VĂN HĨA VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ
ĐỐI VỚI ĐẢM BẢO AN NINH NÔNG THÔN
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60.22.03.08
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Thị Phƣợng
Hà Nội, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tơi thực hiện, dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Ngơ Thị Phượng. Các số liệu trong luận văn hoàn toàn trung
thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các luận điểm, luận cứ trong luận văn
chưa được công bố trong bất cứ cơng trình nào khác.
Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 2015
Học viên
Lã Thị Thu Hà
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, tơi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến Ban chủ nhiệm khoa Triết học, bộ phận quản lý học viên sau
đại học trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã tận tình giúp đỡ, chỉ
dạy, truyền dạt kiến thức cho tơi trong suốt q trình học tập tại trường thời
gian qua và hướng dẫn quy trình thực hiện luận văn. Đặc biệt, tơi xin bày tỏ
lịng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Ngô Thị Phượng – người đã trực tiếp hướng
dẫn, giúp đỡ và động viên tơi trong suốt q trình thực hiện luận văn.
Tơi xin gửi lời cảm ơn trân thành đến Bộ môn lý luận chính trị& Khoa
học xã hội nhân văn - Học viện Cảnh sát nhân dân - đơn vị công tác đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập. Mặc dù đã hết
sức cố gắng song luận văn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
q thầy giáo, cơ giáo góp ý để luận văn được hồn thiện hơn.
Xin kính chúc q thầy, cơ sức khỏe và thành công trong sự nghiệp đào
tạo những thế hệ tri thức tiếp theo trong tương lai. Một lần nữa tôi xin trân
thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 2015
Học viên
Lã Thị Thu Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY ƢỚC LÀNG
VĂN HÓA VÀ ĐẢM BẢO AN NINH NƠNG THƠN ............................... 10
1.1. Làng văn hóa và quy ƣớc làng văn hóa................................................ 10
1.1.1. Khái niệm làng văn hóa ........................................................................ 10
1.1.2. Quy ước làng văn hóa ........................................................................... 21
1.2. An ninh nông thôn và đảm bảo an ninh nông thôn ............................ 37
1.2.1. An ninh nông thôn ................................................................................. 37
1.2.2. Đảm bảo an ninh nơng thơn .................................................................. 42
Chƣơng 2. VAI TRỊ CỦA QUY ƢỚC LÀNG VĂN HÓA VỚI ĐẢM
BẢO AN NINH NÔNG THÔN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN
NAY: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP .................... 51
2.1. Đặc điểm nơng thơn đồng bằng sơng Hồng và tình hình an ninh nông
thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay ........................................................... 51
2.1.1. Đặc điểm nông thôn Đồng bằng sông Hồng......................................... 51
2.1.2. Tình hình an ninh nơng thơn đồng bằng sơng Hồng hiện nay.............. 61
2.2. Thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh
nơng thơn đồng bằng sông Hồng hiện nay và những vấn đề đặt ra .............. 70
2.2.1. Thực trạng vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh
nơng thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay ..................................................... 70
2.2.2. Những vấn đề đặt ra liên quan đến vai trò của quy ước làng văn hóa
đối với đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng ............................ 78
2.3. Giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của quy ƣớc làng văn
hóa đối với vấn đề đảm bảo an ninh nơng thơn địng bằng sơng Hồng......... 82
2.3.1. Tiếp tục hồn thiện, xây dựng quy ước làng văn hóa góp phần đảm bảo
an ninh nơng thơng đồng bằng sơng Hồng ..................................................... 82
2.3.2. Đào tạo cán bộ văn hóa và đẩy mạnh các hoạt động văn hóa trong
nơng thơn vùng đồng bằng sông Hồng ........................................................... 85
2.3.3. Tổ chức triển khai quy ước làng văn hóa kết hợp với tuyên truyền, vận
động quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, qua đó giữ vững an ninh trật tự nông thôn đồng bằng
sông Hồng. ...................................................................................................... 87
2.3.4. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong nông thôn vùng
đồng bằng sông Hồng ..................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 102
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng bằng sơng Hồng của Việt Nam từ lâu đã được các nhà nghiên cứu
trong nước, quốc tế quan tâm và đánh giá cao, không chỉ trên phương diện
kinh tế, là vựa lúa của miền Bắc, mà còn bởi đời sống tinh thần phong phú,
nơi giao thoa, tích tụ nhiều tầng văn hóa của cư dân vùng lúa nước. Được
hình thành từ lịch sử lâu đời, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng ngay từ đầu
đã phải đối mặt với hai thế lực để trường tồn, đó là sự khắc nghiệt của thiên
nhiên và sự đe dọa thường xuyên của các thế lực xâm lăng từ phương Bắc.
Công cuộc chinh phục thiên nhiên và đấu tranh chống giặc ngoại xâm qua
ngàn đời đã đem lại cho họ những kinh nghiệm quý báu và họ biết nâng niu,
giữ gìn, trau dồi thành nghệ thuật, thành văn hóa, góp phần làm nên cả một
nền văn minh sơng Hồng rực rỡ. Đây cũng là đóng góp lớn nhất của cư dân
đồng bằng sông Hồng vào sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trải qua những thăng trầm, biến cố lịch sử cư dân đồng bằng sơng
Hồng đã định hình cho mình truyền thống văn hóa độc đáo, riêng biệt, thể
hiện nổi bật là sự cố kết chặt chẽ các quan hệ họ hàng – dòng họ, quan hệ
cộng đồng nhà – xóm làng – đất nước... Tiêu chí cao nhất trong xử lý các
quan hệ đó là tình người, tính nhân văn, sự hài hịa, chia sẻ, nhường nhịn... Để
giữ gìn những giá trị cao đẹp đó trong cộng đồng và cũng để giáo dục ý thức
về cuộc sống cộng đồng cho các thế hệ, cư dân đồng bằng sơng Hồng đã thể
chế hóa các quy định về ứng xử, nghi lễ, nghi thức.... của đời sống cộng đồng
thành những quy định có tính bắt buộc người trong làng, xóm, dịng họ phải
theo. Đó chính là hương ước, quy ước, quy định của làng hay của dịng họ.
Những hương ước, quy ước đó trong lịch sử được thực hiện nghiêm túc, tự
giác và trở thành thứ vũ khí, thành “lệ làng”, giữ cho làng xóm bình yên, các
quan hệ xã hội ổn định sau lũy tre làng.
1
Hiện nay, đồng bằng sông Hồng đang đứng trước sự biến đổi to lớn,
mạnh mẽ mang tính cách mạng sâu sắc. Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nơng nghiệp, nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa hội
nhập quốc tế đã và đang đem lại sự đổi mới thực sự ở nông thôn. Diện mạo xã
hội nông thôn đang thay đổi theo hướng đô thị hóa, lối sống của một bộ phận
dân cư đặc biệt là lớp trẻ đang chuyển dịch nhanh hơn, mạnh hơn theo kiểu
công nghiệp.... Đồng tiền đã len lỏi và tác động đến suy nghĩ, cách giải quyết
các quan hệ trong xóm, ngồi làng, thậm chí trong gia đình dịng tộc. Sự tranh
chấp đất đai dẫn đến xung đột, bất hòa, sự đền bù, giải tỏa không đồng thuận,
dẫn đến khiếu kiện, làm xuất hiện “điểm nóng”, thậm chí xung đột gây mất ổn
định xã hội nơng thơn. Thực tế tình hình trật tự xã hội vùng nơng thơn các
tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định... đã
gióng lên hồi chng báo động về an ninh nông thôn các tỉnh đồng bằng sông
Hồng thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn. Sự nghiệp đảm bảo an ninh nông thôn không phải của riêng các lực
lượng vũ trang, công an, quân đội, mà đó là sự nghiệp của tồn Đảng, tồn
dân. Sự nghiệp đó địi hỏi phải huy động mọi tiềm năng, tiềm lực, sức mạnh
của cả đất nước, dân tộc, trong đó có văn hóa.
Từ xa xưa, cha ơng ta đã biết sử dụng văn hóa như thứ vũ khí hữu hiệu
chống lại âm mưu thâm độc của các thế lực ngoại xâm muốn “đồng hóa”. Kế
thừa bài học quý báu đó từ truyền thống lịch sử, Đảng, Nhà nước Việt Nam từ
ngày đầu thành lập đã chú ý chăm lo, vun trồng văn hóa, đặt văn hóa đúng với
vai trị, ý nghĩa của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ ngày đầu thành lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hịa đã xác định chăm lo phát triển văn hóa là việc
làm cấp bách của chính quyền mới, và nhấn mạnh văn hóa là mặt trận, người cán
bộ văn hóa là chiến sĩ. Bác kêu gọi mọi người hãy chung tay xây dựng đời sống
mới, nếp sống văn hóa mới cho đúng với tư thế là người chủ của chế độ mới.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam qua nhiều kỳ đại hội đã khẳng định: Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Trên thực tế, để đảm bảo an ninh, trật tự xóm làng ở một số địa phương
đã biết kế thừa truyền thống dân tộc và vận dụng sáng tạo quan điểm, chủ
trương xây dựng văn hóa của Đảng và Nhà nước để xây dựng những bản
hương ước mới, những quy định, quy ước xây dựng gia đình văn hóa, làng
thơn văn hóa. Đây là cách làm hay, là sự sáng tạo của quần chúng trong việc
sử dụng, phát huy vai trò của văn hóa vào cơng tác giữ gìn, đảm bảo an ninh
nơng thơn. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Quy ước làng văn hóa và vai
trị của nó đối với đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sơng Hồng” làm đề
tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Thứ nhất, về làng xã, quy ước làng văn hóa có một số cơng trình tiêu biểu:
PGS. TS Nguyễn Thừa Hỷ, “sự phát triển và cấu trúc đẳng cấp trong
các làng xã cổ truyền Việt Nam”, trong Nông thôn Việt Nam trong lịch sử,
tập 2, Nxb Khoa học xã hội, H.1978. Trong cơng trình này, tác giả đã tái hiện
lại lịch sử nơng thơn nước ta, phân tích rõ cơ cấu tổ chức ở một số làng truyền
thống ở Việt Nam.
GS. Phan Đại Doãn, “Mấy vấn đề về làng xã”, Tạp chí Dân tộc học, số
2/1991. Tác giả đã nêu bật được những nét đặc trưng cơ bản của làng Việt
Nam, trong đó tính cộng đồng và tính tự quản là hai đặc trưng, chi phối mọi
sinh hoạt của làng xã.
GS. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay, đề tài KX 07-02,H.1996. Trong đề tài, các tác giả
đã khái quát những nếp sống, thói quen, giá trị đạo đức mang tính truyền
thống của con người Việt Nam hình thành từ lâu đời và mối quan hệ của nó
với xã hội hiện nay, sự duy trì, biến đổi và những giá trị mới đang hình thành.
3
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Con đường làng xã Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001. Cơng trình đã khái qt hóa
tiến trình hình thành làng xã từ buổi đầu xuất hiện cho đến ngày nay. Trong
q trình phát triển có những yếu tố được duy trì nhưng có những yếu tố được
biến đổi cho phù hợp với xã hội hiện đại.
Vấn đề khai thác, phát huy vai trị của văn hóa, của quy ước làng văn
hóa đối với đời sống xã hội đã được nhiều tác giả quan tâm, nhiều cơng trình,
bài viết đã được công bố với cách tiếp cận khác nhau. Người đặt viên gạch
đầu tiên là tác giả Phan Kế Bính, với tác phẩm: “Việt Nam phong tục”. Trong
cơng trình này, tác giả có dẫn một bản hương ước của làng Đề Kiều, xã Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh về vấn đề “nghĩa thương”.
GS.TS Nguyễn Duy Quý, PGS.TS Thành Duy và PGS.TS Vũ Ngọc
Khánh đồng tác giả cuốn sách “Văn hóa làng và làng văn hóa”; “Văn hóa
làng và sự phát triển” của GS.TS Nguyễn Duy Quý; “Làng xã Việt Nam- một
số vấn đề kinh tế- xã hội” của GS. Phan Đại Doãn; “Sự biến đổi của làng xã
Việt Nam hiện nay” của GS.TS Tô Duy Hợp; “Cộng đồng làng xã Việt Nam
hiện nay” của tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Sự
biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông Hồng” của GS.TS
Tô Duy Hợp; “Hương ước hồn quê” của cố giáo sư học giả Toan Ánh; “Bản
sắc văn hóa làng trong xây dựng nông thôn đồng bằng bắc bộ” của TS. Lê
Q Đức... Ở những cơng trình trên, các tác giả đã bàn về văn hóa tinh thần
và văn hóa vật chất ở làng xã. Nhiều tác giả đã đề cập tới hội làng, nếp sống,
phong tục, văn hóa nghệ thuật dân gian...Một số chun luận khơng những có
ý kiến nhận xét về di sản của làng xã, về các mặt kinh tế- xã hội, văn hóa; mà
cịn nêu lên những điểm tích cực và cả những tiêu cực của làng xã trong quá
trình dựng nước và giữ nước.
4
PGS. TS Bùi Xuân Đính trong cuốn sách “Hương ước và quản lý làng
xã” và “Lệ làng phép nước” đã nêu lên mối liên hệ cũ và mới trong nội dung
hương ước xưa và nay, vai trị của nó trong quản lý làng xã, đồng thời tác giả
cũng nêu rõ những vấn đề hương ước hiện nay cần giải quyết.
Tác giả Lê Đức Tiết tron cuốn sách “Về hương ước lệ làng” cho thấy
cái nhìn khá tồn diện về hương ước trong suốt quá trình từ khi hình thành,
mối quan hệ với pháp luật, cũng như vai trò của hương ước trong đời sống xã
hội nông thôn Việt Nam.
Nhiều bài viết có giá trị nghiên cứu về hương ước được giới thiệu trên
các báo, tạp chí:
PGS.TS Lê Minh Thơng trong bài viết “Luật nước và hương ước lệ
làng trong đời sống pháp lý của các cộng đồng làng xã Việt Nam” đã viết:
“Luật nước và lệ làng (hương ước) dường như luôn là những hành trang pháp
lý cho sự tồn tại và phát triển của các thế hệ người Việt Nam trụ vững và phát
triển trong mọi thăng trầm của lịch sử”.
Tác giả Lê Thị Hiền trong bài viết “Văn hóa hương ước- từ truyền thống
đến hiện đại” đã đề cập đến nguồn gốc, vị trí, vai trị của văn hóa hương ước cổ.
Bàn về nội dung tư tưởng chính của hương ước mới và những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về việc biên soạn và thực thi hương ước.
TS. Nguyễn Duy Mền trong bài viết “Nguồn gốc và điều kiện xuất hiện
hương ước trong làng xã vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ” đã đưa ra nhận
định: “Dù khơng phải là một bộ luật hồn chỉnh, hương ước, với những điều
qui định về một số nét sinh hoạt riêng của làng xã vẫn đóng một vai trị
"cương lĩnh”, có thể cịn khá chung chung, nhưng dù sao cũng đáng xem là
một nếp sống hàng ngày của làng xã mà mọi cá nhân, mọi tổ chức, trong
làng, trong xã phải tuân thủ”.
Thứ hai, về an ninh nông thơn đồng bằng sơng Hồng, có một số tài
liệu cơng bố như:
5
Trong bài viết “Một số vấn đề rút ra qua việc giải quyết các điểm nóng
về an ninh trật tự” trên Tạp chí Cơng an nhân dân, số 4, tr. 10-11, của tác giả
Trịnh Thị Giới đã trình bày một số những vấn đề ảnh hưởng tới an ninh nông
thôn và rút ra một số kinh nghiệm trong giải quyết các điểm nóng ở nơng thơn.
Tác giả Nguyễn Chí Dũng với tài liệu “Một số vấn đề về tội phạm và
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay”, Nxb Cơng an
nhân dân, đã trình bày các loại tội phạm nói chung và một số tội phạm điển
hình trên địa bàn nơng thơn nói riêng.
Tác giả Nguyễn Đức Minh trong cuốn sách “An ninh nông thôn trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay” , Nxb Công an nhân
dân, đã làm rõ tình hình an ninh nơng thơn hiện nay và sự tác động của kinh
tế- xã hội đến an ninh nông thôn trong thời kỳ đổi mới.
PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm trong cuốn sách “Tội phạm học hiện đại
và phòng ngừa tội phạm” , Nxb Cơng an nhân dân, đã trình bày các loại tội
phạm chủ yếu trên cả nước nói chung và một số loại tội phạm điển hình khu
vực nơng thơn hiện nay.
TS. Đỗ Cảnh Thìn trong bài viết “Mấy vấn đề về phát huy vai trò của
thiết chế làng xã trong phịng ngừa tội phạm ở nơng thơn” trên Tạp chí Cảnh
sát nhân dân số 5 (6/2015), trong bài viết đề cập tới vai trò của một số thiết
chế làng xã, trong đó có quy ước làng văn hóa, sự tác động của các thiết chế
ấy đối với cơng tác phịng ngừa tội phạm trên địa bàn nơng thơn.
Có thể nhận thấy mặc dù đã có rất nhiều tác giả, khá nhiều đầu sách,
luận án, bài viết nói về vai trị của văn hóa, quy ước làng văn hóa đối với các
lĩnh vực của đời sống xã hội; những yếu tố ảnh hưởng đến an ninh nông thôn,
song chưa có một cơng trình độc lập nào nghiên cứu về vai trị của quy ước
làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh nông thôn, đặc biệt là khu vực đồng bằng
sông Hồng.
6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ nội dung cơ bản của quy ước làng văn hóa và vai trị
của việc thực hiện quy ước đó đối với việc đảm bảo an ninh nông thôn đồng
bằng sông Hồng hiện nay. Từ đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả vai trị của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh nông thôn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm làng văn hóa, sự ra đời, đặc trưng và nội dung cơ
bản của quy ước làng văn hóa.
- Làm rõ khái niệm an ninh nông thôn và những nội dung về đảm bảo
an ninh nơng thơn.
- Trình bày đặc điểm nơng thơn đồng bằng sơng Hồng và tình hình an
ninh nơng thơn đồng bằng sơng Hồng hiện nay.
- Phân tích thực trạng vai trị của quy ước làng văn hóa với đảm bảo an
ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trị của quy ước
làng văn hóa đến việc đảm bảo an ninh nông thôn đồng bằng sông Hồng.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh nơng thơn các
tỉnh đồng bằng sơng Hồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Vai trị của việc thực hiện quy ước làng văn hóa đối với đảm bảo an ninh
nông thôn các tỉnh đồng bằng sông Hồng.
- Thời gian khảo sát từ năm 2005 đến nay.
7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam,
chính sách pháp luật của Nhà nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về
văn hóa, về xây dựng nông thôn mới, về đảm bảo an ninh nông thôn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu đặc thù như: Quy
nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp kết hợp giữa lịch sử
và logic.....
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ mối quan hệ giữa quy ước làng văn hóa với vấn đề an
ninh nông thôn, chỉ rõ hiệu quả việc thực hiện tốt quy ước làng văn hóa đối
với tăng cường đảm bảo an ninh nơng thơn.
Đề xuất ý kiến đóng góp cho việc xây dựng và thực hiện quy ước làng
văn hóa góp phần đảm bảo an ninh nơng thơn các tỉnh đồng bằng sơng Hồng
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm sâu sắc về mặt lý luận vai trò của quy ước làng văn
hóa đối với đời sống xã hội nơng thơn nói chung và góp phần đảm bảo an ninh
nơng thơn vùng đồng bằng sơng Hồng nói riêng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp thêm cơ sở lý luận và phương
pháp luận nhằm góp phần nâng cao vai trị của quy ước làng văn hóa trong
việc đảm bảo an ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.
8
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các cơng trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề văn hóa, quy ước làng văn hóa.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.
9
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY ƢỚC LÀNG VĂN HĨA
VÀ ĐẢM BẢO AN NINH NƠNG THƠN
1.1. Làng văn hóa và quy ước làng văn hóa
1.1.1. Khái niệm làng văn hóa
Trong đời sống xã hội Việt Nam cổ truyền, “làng xã có vị trí hết sức đặc
biệt, làng là đơn vị cơ bản hình thành quốc gia dân tộc. Nước (quốc gia) chỉ là
tổng số, là kết quả của sự liên kết các làng, xã, là “liên làng”. Làng có vai trị gắn
kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc. Làng là nhân tố giữ vai trị quyết định
trong q trình dựng nước và giữ nước của dân tộc “còn làng còn nước”.
Làng - là một từ Nôm, là đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng chặt chẽ và hồn
chỉnh nhất, bởi nó có địa vực riêng, có cơ cấu tổ chức và tục lệ riêng, hồn
chỉnh và ổn định qua q trình phát triển của lịch sử. Cùng với việc xuất hiện
làng trong lịch sử Việt Nam, văn hóa làng cũng ra đời, trở thành nét đặc trưng
của văn hóa dân tộc.
Cho đến nay, khái niệm làng được bàn đến ở nhiều góc độ khác nhau.
Theo PGS. TS Nguyễn Đăng Dung, “… làng xã phải là nơi đồng quê nhiều
gia đình ở quy tụ thành khu được gọi là xóm, các xóm phân biệt nhau bằng
các lũy tre xanh. Trên đường đi vào thường có các cổng xây hoặc tre, đến
đêm tối có thể đóng lại được, để phịng ngừa trộm cướp. Hai, ba, bốn hoặc có
khi là năm, sáu xóm họp thành một thôn gọi là làng” [38; tr.151]. Khái niệm
này đã cho ta cái nhìn bao quát và tổng thể về làng. Tác giả đã đi từ đơn vị
nhỏ nhất là gia đình rồi đến xóm, tập hợp các xóm tạo thành làng. Thông qua
khái niệm, tác giả cũng chỉ ra tên gọi tương đồng với làng là thôn. Tùy theo
mỗi vùng miền, địa phương mà làng có những cách gọi khác nhau.
Giáo sư Từ Chi thì định nghĩa về làng mang tính tổng quát, làng xã là
một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng.
10
Giáo sư đã xem xét làng ở nhiều góc độ khác nhau. Khái niệm này cho thấy
sự đa dạng của đơn vị làng. Làng không chỉ đơn thuần được xem xét dưới một
lĩnh vực mà ở tổng thể nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau.
Giáo sư Phan Đại Dỗn cho rằng, “Làng là một điểm dân cư, một hình
thức cơng xã nơng thơn, có cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu tổ chức xã hội riêng, lệ
tục riêng… rất chặt chẽ và hồn chỉnh” [38; tr.38]. Định nghĩa này có những
nét tương đồng với Giáo sư Bùi Xuân Đính khi cho rằng: làng là đơn vị tụ cư
truyền thống của người nơng dân Việt, có địa vực riêng, có cơ sở hạ tầng cùng
cơ cấu tổ chức riêng, tục lệ riêng…nhưng chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất. Cả hai
định nghĩa này đều nói lên sự khác biệt, đặc trưng riêng của làng với những
đơn vị xã hội khác tạo nên tính khu biệt đặc thù.
Theo nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn: “ Làng là một đơn vị cộng cư có
một vùng đất chung của cư dân nơng nghiệp, một hình thức tổ chức xã hội
nông nghiệp tiểu nông tự cấp, tự túc, mặt khác là mẫu hình xã hội phù hợp, là
cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nơng, với gia đình- tơng tộc gia trưởng,
đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Làng được hình
thành, được tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ.
Một mặt, làng có sức sống mãnh liệt, mặt khác, xét về cấu trúc, làng là cấu
trúc động, khơng có bất biến. Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi chung của
đất nước qua tác động của những mối liên hệ làng và siêu làng” [73; tr.130].
Khái niệm này bao trùm mọi yếu tố của làng và xét đến cả nguồn gốc hình
thành của nó.
Như vậy, làng là một sản phẩm của quá trình định cư và cộng cư của
người Việt. Làng từ một cộng đồng tụ cư trở thành một đơn vị kinh tế - xã hội
hoàn chỉnh, một đơn vị kinh tế tự cung, tự cấp của người nông dân. Làng là
một đơn vị hành chính cơ sở của tổ chức nhà nước, một khơng gian sinh hoạt
văn hóa độc lập của người Việt Nam. Đồng thời làng là một thiết chế xã hội,
11
trong đó các thành viên liên kết với nhau dựa trên quan hệ huyết thống hoặc
địa vực cư trú nhất định và có quan hệ lợi ích chung với nhau. Làng có cơ sở
kinh tế, có thiết chế tổ chức tương đối độc lập, có nền văn hóa riêng tạo thành
bản sắc riêng của làng. Làng là sự tổng hòa của các yếu tố kinh tế- chính trịvăn hóa- xã hội, tạo thành sự thống nhất trong tổ chức làng.
Trong quá trình hình thành và phát triển, làng Việt được phân chia như sau:
Theo thời gian hình thành, có các làng đầu công nguyên, các làng thời
Lý - Trần, làng thời Lê sơ, Lê - Trịnh - Nguyễn; làng thời Nguyễn và cả
những làng mới hình thành gần đây do những chính sách phát triển kinh tế văn hố của Nhà nước ta.
Theo vùng địa lý, có các loại làng miền Bắc; các làng miền Trung; làng
miền Nam; làng Trung du; làng đồng bằng; làng ven biển...
Theo nghề nghiệp, có các làng thủ công; các loại làng nông nghiệp;
làng chài; làng muối.
Theo phương thức thành lập, có các loại làng do nhóm cư dân khai
hoang tập thể hoặc nhà nước thực hiện chính sách khai hoang….
Làng văn hóa là sự phát huy và phát triển những giá trị của văn hóa
làng trong thời đại mới. Văn hóa làng chính là nền tảng để chúng ta xây dựng
làng văn hóa một cách vững chắc trong bối cảnh hiện nay. Thực tế đã chứng
minh, trong quá khứ lịch sử cũng như hiện tại và tương lai, làng ln giữ một
vị trí hết sức quan trọng trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, là nơi lưu
giữ trường tồn những giá trị vật chất, tinh thần và bản sắc văn hóa dân tộc.
Việc xây dựng làng văn hóa là nhằm phát huy cao độ những giá trị vốn
có của văn hóa làng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được ước mơ,
nguyện vọng chính đáng của mọi người dân. Đây là cơ sở để hạn chế đẩy lùi
những yếu kém đang tồn tại trong mơi trường xã hội nói chung và mơi trường
văn hóa ở làng q nói riêng.
12
Xây dựng nơng thơn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong
phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được nhu cầu cơ
bản của nơng dân, có hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân chủ, bảo
đảm công bằng xã hội, tăng cường đoàn kết và ổn định trong nơng thơn, giữ
gìn trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh…cần phải đặc biệt
chú trọng đến nội dung xây dựng làng văn hóa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch đã đưa ra 5 tiêu chuẩn để cơng nhận làng văn hóa là:
“ Tiêu chuẩn 1, đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển:
a) Thực hiện tốt cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, khơng cịn hộ
đói, tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn mức bình quân chung của tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (dưới đây gọi là bình qn chung);
b) Có phong trào xóa nhà tạm, dột nát; tỷ lệ hộ có nhà bền vững cao
hơn mức bình qn chung.
c) Có nhiều hoạt động hiệu quả: Về tuyên truyền, phổ biến và ứng dụng
khoa học - kỹ thuật; phát triển nghề truyền thống; hợp tác và liên kết phát
triển kinh tế;
d) Tỷ lệ lao động có việc làm, thu nhập bình qn đầu người/ năm cao
hơn mức bình qn chung;
đ) Có 80% trở lên hộ gia đình tham gia cuộc vận động xây dựng nông
thôn mới; xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế - xã hội ở cộng đồng.
Tiêu chuẩn 2, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú:
a) Nhà Văn hóa-Khu thể thao thơn (làng, ấp, bản và tương đương) từng
bước đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
b) Duy trì phong trào văn hóa, thể thao, thu hút 40% trở lên số người
dân tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao ở cộng đồng;
c) Có 70% trở lên hộ gia đình thực hiện tốt các quy định về nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; khơng có hành vi truyền bá và
hành nghề mê tín dị đoan;
13
d) Không phát sinh người mắc tệ nạn xã hội ở cộng đồng; khơng có
người sử dụng và lưu hành văn hóa phẩm độc hại;
đ) Có 70% trở lên hộ gia đình được cơng nhận “Gia đình văn hóa”,
trong đó ít nhất 50% gia đình văn hóa được cơng nhận 3 năm trở lên;
e) 100% trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường, đạt chuẩn phổ
cập giáo dục trung học trở lên; có phong trào “khuyến học”, khuyến tài;
g) Khơng có hành vi gây lây truyền dịch bệnh; không để xảy ra ngộ độc
thực phẩm đông người; giảm tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, trẻ em được tiêm
chủng đầy đủ và phụ nữ có thai được khám định kỳ;
h) Thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hố gia đình;
i) Có nhiều hoạt động đồn kết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc; bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh và các cơng trình
cơng cộng; bảo tồn các hình thức sinh hoạt văn hóa, thể thao dân gian truyền
thống ở địa phương.
Tiêu chuẩn 3, môi trường cảnh quan sạch đẹp:
a) Có tổ vệ sinh thường xuyên quét dọn vệ sinh, thu gom rác thải về nơi
xử lý tập trung theo quy định;
b) Tỷ lệ hộ gia đình có 3 cơng trình hợp vệ sinh (nước sạch, nhà tắm,
hố xí) đạt chuẩn, cao hơn mức bình qn chung; các cơ sở sản xuất, kinh
doanh đạt tiêu chuẩn về mơi trường;
c) Nhà ở khu dân cư, các cơng trình công cộng, nghĩa trang được xây
dựng từng bước theo quy hoạch;
d) Thường xuyên tuyên truyền, nhắc nhở, nâng cao ý thức của người
dân về bảo vệ môi trường sinh thái; vận động nhân dân xây dựng cải tạo, nâng
cấp hệ thống thoát nước; cải tạo các ao, hồ sinh thái; trồng cây xanh.
Tiêu chuẩn 4, chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước:
14
a) Có 90% trở lên hộ gia đình được phổ biến và nghiêm chỉnh thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các
quy định của địa phương;
b) Hoạt động hịa giải có hiệu quả; hầu hết những mâu thuẫn, bất hòa
được giải quyết tại cộng đồng;
c) Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt quy
chế dân chủ ở cơ sở; phản ánh kịp thời những đề xuất, kiến nghị của nhân dân
giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở, cộng đồng dân cư; không có khiếu
kiện đơng người trái pháp luật;
d) Tun truyền và tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân ở khu dân
cư tham gia giám sát hoạt động cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ
công chức Nhà nước; tham gia xây dựng Chi bộ Đảng, chính quyền đạt danh
hiệu “Trong sạch, vững mạnh”; các tổ chức đoàn thể đạt danh hiệu tiên tiến
trở lên hàng năm; các tổ chức tự quản ở cộng đồng hoạt động có hiệu quả.
Tiêu chuẩn 5, có tinh thần đồn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong cộng đồng:
a) Thực hiện đầy đủ các chính sách của Nhà nước, phát triển phong trào
“Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, nhằm chăm sóc các gia đình
chính sách, người có cơng với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn
mức bình qn chung;
b) Thực hiện tốt các hoạt động “Nhân đạo từ thiện”, giúp đỡ đồng bào
bị thiên tai, gia đình khó khăn, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật,
nạn nhân chất độc da cam - dioxin và những người bất hạnh”[15].
Trên cơ sở các tiêu chí nói trên của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
thì một làng văn hóa được xây dựng trên cơ sở đảm bảo các nội dung chủ yếu
sau đây:
Một là, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất kinh doanh phát
triển, đời sống nông dân ngày càng được nâng cao.
15
Đây là nhân tố hàng đầu để huy động rộng rãi nhân dân tham gia cuộc
vận động xây dựng làng văn hóa. Căn cứ vào điều kiện cụ thể và thế mạnh
của từng nơi, các cấp ủy Đảng và chính quyền cần xác định cơ cấu kinh tế của
địa phương mình cho phù hợp.
Trong những năm qua, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa
bàn nông thôn, các cấp lãnh đạo đã và đang hỗ trợ người lao động đẩy mạnh
thâm canh tăng vụ, tích cực sử dụng các giống mới, nâng cao năng suất cây
trồng vật nuôi. Mặt khác chú ý sản xuất tiểu thủ công nghiệp, khuyến khích
và hỗ trợ khơi phục các làng nghề truyền thống, thúc đẩy mở rộng thương mại
và dịch vụ phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Nhờ vậy, kinh tế ở nhiều làng đã có
những chuyến biến rõ rệt, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu cấp thiết của
cuộc vận động xây dựng làng văn hóa.
Một cán bộ xã có sự kết hợp chặt chẽ của cả bốn yếu tố: người dân,
người cùng họ hàng, người đại diện của cộng đồng và người đại diện cho Nhà
nước ở đại phương. Bốn yếu tố này vừa thông nhất, vừa mâu thuẫn, xung đột
nhau trong con người cán bộ xã , chi phối hoạt động của họ, nhất là trong việc
giải quyết những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa các lợi ích cá nhân
và cộng đồng. Một thực tế là cán bộ xã nói chung chưa được đào tạo cơ bản về
văn hóa, chun mơn nghiệp vụ, trình độ kiên thức và năng lực cơng tác cịn
yếu về nhiều mặt. Hiện nay xu hướng tăng thêm cán bộ xã được hưởng các
khoản phụ cấp ngày càng phổ biến ở các địa phương nhưng cuộc vận động xây
dựng làng văn hóa khơng vì thế mà được quan tâm tạo thêm nguồn cán bộ phục
vụ phong trào. Điều này đòi hỏi cuộc cải cách bộ máy nhà nước phải quan tâm
khắc phục để tạo ra sự vận hành đồng bộ trong chương trình chung.
Ba là, tổ chức xây dựng thiết chế văn hóa và tổ chức an ninh của dân.
16
Xây dựng làng văn hóa là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi
cơng dân. Vì vậy, mơ hình làng văn hóa mới, những thiết chế, cách thức tổ
chức hoạt động và mức đóng góp của từng hộ gia đình... Phải được nghiên
cứu và thảo luận kỹ lưỡng để giành được sự đồng tình, thống nhất cao trong
cộng đồng làng.
Những thiết chế văn hóa cơ bản như: trường học, nhà văn hóa, thư viện,
câu lạc bộ… do nhu cầu ở làng xã cần thiết phải thành lập. Các thiết chế văn
hóa này rất cần thiết cho việc khơi phục và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống trong các cộng đồng làng.
Để duy trì phong tục và tín ngưỡng mỗi làng có một số tổ chức của dân
đã tồn tại lâu đời. Ngày nay nhân dân một số làng xã đang có u cầu khơi
phục lại một số tổ chức cịn phù hợp và có tác dụng. Thực tế ở nhiều nơi đã
khôi phục lại một phần các tổ chức ấy để dân tự quản, tự do liệu lấy cơng việc
nội bộ như cúng bái đình chùa, tổ chức tang ma, cưới xin, giải quyết xích mích,
duy trì phong tục đạo đức, ổn định trật tự an ninh theo quy ước của làng.
Lực lượng bảo vệ an ninh làng xóm do dân tự quản lý, có sự chỉ đạo
của chính quyền cấp xã sẽ có nhiều thuận tiên trong công việc. Khả năng “tác
chiến” mau lẹ, kịp thời, hiệu quả hơn là chờ đợi sự chỉ huy từ cấp trên.
Bốn là, xây dựng quy ước văn hóa của làng văn hóa.
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tiếp đồn cán bộ tỉnh Thái Bình
tại Phủ Chủ tịch đã phê bình các cán bộ địa phương đã “quá tả”, xóa bỏ quỹ
nghĩa thương và hương ước. Người khẳng định: “Hương ước là những khoán
ước trong làng, người ta quy định với nhau khơng được để cho bị phá lúa, gà
qué ăn mạ…đó là những phong tục hay của nông thôn nước ta trước đây. Từ
sau cách mạng, các chú đem xóa bỏ cả, thế là khơng đúng. Cách mạng chỉ
xóa cái xấu,cái dở cịn giữ lại cái tốt, cái hay” [31; tr.10-11].
17
Ngày nay, mặc dù bên cạnh xây dựng pháp luật thống nhất với khẩu
hiệu “sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”, Đảng và nhà nước ta vẫn
khuyến khích các làng xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa để phát huy
tinh thần tự quản của nhân dân ở cơ sở. Thực tiễn đặt ra cho thấy cần phải
nhìn nhận lại quy ước văn hóa từ góc độ văn hóa để nó phục vụ sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung và xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần ở nơng thơn nói riêng.
Năm là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là sự quyết tâm chiến lược của
Đảng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống nơng thơn hiện nay. Chủ trương trên đã
đem lại cho người dân quyền bàn bạc, quyết định và giám sát tất cả những gì
liên quan đến cuộc sống hàng ngày của họ. Thực tế, thông qua thực hiện quy
chế dân chủ, nông dân được nhận thức rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mình
trong cộng đồng làng xã cũng như trong tồn xã hội. Ở nơng thơn từng cộng
đồng làng xã đã tự bàn bạc và quyết định góp vốn, góp công sức xây dựng
mới ở nông thôn đường, trường, điện, nước, nhà ở, kênh mương, tạo ra đà
phát triển mới ở nông thôn.
Sáu là, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa.
Gia đình là tế bào của xã hội, từ gia đình sẽ cấu trúc lên làng nước, gia
đình có lành mạnh thì làng xóm mới lành mạnh, phát triển. Nhận thức rõ vai
trò to lớn của gia đình trong việc xây dựng làng nước, cấu trúc thành xã hội,
Đảng, Nhà nước ta đã khẳng định xây dựng gia đình văn hóa là vấn đề hết sức
hệ trọng của dân tộc và thời đại.
Mỗi làng cần thường xuyên thực hiện cuộc vận động xây dựng gia đình
văn hóa với bốn nội dung đã được xác định:
+ Gia đình thực hiện tốt chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.
+ Xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận, hạnh phúc và tiến bộ.
18
+ Đồn kết, tương trợ xóm làng.
+ Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân.
Thực hiện sáu vấn đề cơ bản nói trên có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài
đến xu thế vận động và phát triển của phong trào xây dựng làng văn hóa ở
nước ta. Xây dựng làng văn hóa là một cơng việc đa dạng và phức tạp, chúng
ta phải huy động được sức mạnh của đông đảo nông dân, cùng với những
định hướng và những kinh nghiệm đã và đang có ở một số địa phương. Làng
văn hóa sẽ trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển ở nông thôn Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng làng văn hóa phải gắn liền với xây dựng
thiết chế văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng và thực hiện quy ước
văn hóa, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở…Trên cơ sở kế thừa và phát huy
các giá trị tích cực của văn hóa làng truyền thống, nhằm thực sự phát huy vai
trị của văn hóa trong quá trình thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông
thôn Việt Nam.
Những tiêu chuẩn của làng văn hóa và nội dung cơ bản trong xây dựng
làng văn hóa cho thấy khái niệm làng văn hóa khơng đồng nhất với khái niệm
văn hóa làng.
Văn hóa làng, hàm chức nhiều nội dung rất phong phú và đa dạng, tạo
nên bức tranh đa sắc của văn hóa Dân tộc. “Văn hóa làng xã Việt Nam có vị
trí quan trọng trong tiến trình lịch sử phát triển của văn hóa dân tộc. nó ln
ln bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, ni dưỡng sức sống trường
tồn của văn hóa dân tộc” [57; tr 18-19]. Văn hóa làng Việt Nam qua hàng
ngàn năm phát triển với bản sắc có giá trị thực sự là một nền văn hóa của
nhân dân và trở thành bộ phận ổn định nhất của văn hóa dân tộc.
Xét tổng thể ở nước ta có sự khác biệt nhất định văn hóa giữa làng với
làng, giữa làng với nước. Tuy nhiên, giao lưu văn hóa đã làm cho văn hóa
19