(Xuất bản lần thứ hai)
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHĨ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PHẠM THỊ THINH
ThS. LÊ THỊ THU MAI
Biên tập nội dung:
TS. HỒNG MẠNH THẮNG
BÙI BỘI THU
Trình bày bìa:
Chế bản vi tính:
Đọc sách mẫu:
LÊ HÀ LAN
NGUYỄN QUỲNH LAN
ThS. TRẦN MINH NGỌC
VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4854-2020/CXBIPH/24-347/CTQG.
Số quyết định xuất bản: 5632-QĐ/NXBCTQG, ngày 01/12/2020.
Nộp lưu chiểu: tháng 12 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-6284-4.
(Xuất bản lần thứ hai)
Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền miệng:
Dành cho cấp ủy và cán bộ tuyên giáo ở cơ sở. - Xuất bản
lần thứ 2. - H.: Chính trị quốc gia, 2020. - 156tr.; 19cm
Phụ lục: tr.125-150
ISBN 9786045754702
1. Đảng Cộng sản Việt Nam 2. Công tác tuyên giáo
3. Tuyên truyền miệng 4. Nghiệp vụ 5. Tài liệu bồi dưỡng
324.2597075 - dc23
CTF0461p-CIP
(Xuất bản lần thứ hai)
CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
TS. BÙI TRƯỜNG GIANG
TẬP THỂ BIÊN SOẠN
PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA
TS. PHẠM VĂN HIẾN
PGS.TS. LƯƠNG KHẮC HIẾU
ThS. VŨ HỮU PHÊ
ThS. MAI YẾN NGA
ThS. ĐÀO MAI PHƯƠNG
CN. TRƯƠNG NGỌC VINH
TS. NGUYỄN KIM PHƯỢNG
ThS. TRẦN THỊ THÙY
ThS. ĐINH VĂN BẮC
LỜI NĨI ĐẦU
Tun truyền là một kênh của truyền thơng, nhằm đưa
ra các thơng tin với mục đích thúc đẩy thái độ, suy nghĩ, tâm
lý và ý kiến của quần chúng theo chiều hướng nào đó mà
người nêu thơng tin mong muốn. Đảng ta sử dụng nhiều
kênh thông tin, nhiều công cụ và phương tiện như: hệ thống
trường lớp, nhất là hệ thống trường chính trị; các phương
tiện thơng tin đại chúng; các thiết chế văn hoá và các hoạt
động văn hoá; sinh hoạt, hội họp của các tổ chức; tuyên
truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên;... để phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với Nhân dân.
Trong số các hoạt động tuyên truyền nêu trên thì tuyên
truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên được Đảng ta xác định là rất quan trọng bởi
những ưu thế mà kênh này mang lại. Những ưu thế đó là
tính linh hoạt của lời nói trong việc điều chỉnh nội dung
thơng tin; tính cụ thể trong xác định đối tượng, nắm bắt đối
tượng; những tác động về tư tưởng, tình cảm thơng qua tiếp
xúc; khả năng trao đổi, thu nhận thông tin nhanh, kịp thời,
đa chiều qua đối thoại trực tiếp...
5
Nhằm cung cấp những kiến thức và kỹ năng cơ bản giúp
báo cáo viên, tuyên truyền viên nắm vững các khái niệm,
nguyên lý, kỹ năng thực hiện thành công hoạt động tuyên
truyền miệng, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng phối hợp
với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tái bản cuốn
sách Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền miệng
(Dành cho cấp ủy và cán bộ tuyên giáo ở cơ sở).
Nội dung cuốn sách gồm 3 chuyên đề, phân tích và làm rõ
các nội dung: Tuyên truyền miệng và tổ chức, hoạt động của
báo cáo viên, tuyên truyền viên; kỹ năng chuẩn bị bài tuyên
truyền miệng; kỹ năng tổ chức một buổi tuyên truyền miệng.
Cuốn sách nằm trong bộ ba tài liệu chuyên đề phục vụ
công tác bồi dưỡng lý luận chính trị, nghiệp vụ tồn khóa của
Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng.
Cuốn sách nhận được sự đóng góp ý kiến của các
chuyên gia, nhà khoa học: PGS.TS. Nguyễn Viết Thông,
PGS.TS.NGND. Nguyễn Bá Dương, PGS.TS. Phạm Duy Đức,
PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa, PGS.TS. Nguyễn Tài Đông.
Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để lần xuất
bản sau nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng đông đảo bạn đọc.
Tháng 02 năm 2020
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
Chuyên đề 1
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG VÀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG
CỦA BÁO CÁO VIÊN, TUYÊN TRUYỀN VIÊN
I- TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
1. Khái niệm, vị trí, vai trị của tun truyền miệng
a) Khái niệm về tuyên truyền miệng
Xem xét công tác tư tưởng là một q trình,
V.I. Lênin chỉ rõ, cơng tác tư tưởng có ba hình thái
(ba bộ phận cấu thành), đó là: (1) Công tác lý luận;
(2) Công tác tuyên truyền; (3) Công tác cổ động. Trong
ba bộ phận ấy, công tác tun truyền có vai trị rất
quan trọng, là hoạt động có mục đích, được tiến hành
với nhiều hình thức, phương tiện, trong đó có tun
truyền miệng.
Trong cơng tác tư tưởng, tuyên truyền miệng được
tiếp cận ở nhiều góc độ; có lúc tuyên truyền miệng được
nghiên cứu như là một bộ phận của cơng tác tun
truyền; có lúc tun truyền miệng được nghiên cứu như
là một hình thức tuyên truyền.
7
Trong tài liệu này: Tuyên truyền miệng được hiểu
là một loại hình tun truyền được tiến hành bằng lời
nói trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức,
củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của
đối tượng.
Quan niệm trên đây khẳng định tuyên truyền
miệng là một công cụ quan trọng của công tác tư tưởng
với các đặc điểm nổi bật sau:
- Tuyên truyền miệng thực hiện trong bối cảnh giao
tiếp trực tiếp của người tuyên truyền và đối tượng
tuyên truyền. Đây là điểm khác biệt cơ bản của tuyên
truyền miệng so với tuyên truyền qua các phương tiện
truyền thông đại chúng.
- Tuyên truyền miệng chủ yếu được tiến hành bằng
lời nói. Ngày nay, cán bộ tuyên truyền miệng có thể có
thêm sự hỗ trợ của máy tính, màn hình, các chương
trình trình chiếu, mạng internet..., nhưng phương tiện
chủ yếu của họ vẫn là lời nói trực tiếp.
b) Vị trí, vai trị của tun truyền miệng
- Vị trí của tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng được thực hiện thông qua hoạt
động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Đây
là một trong những kênh thông tin quan trọng nhất của
công tác tư tưởng.
Để tiến hành công tác tư tưởng, Đảng ta sử dụng
nhiều kênh, nhiều công cụ hoạt động và phương tiện
8
tuyên truyền, như: hệ thống trường học, lớp học; các
phương tiện thơng tin đại chúng; các thiết chế văn hóa;
sinh hoạt hội họp của các tổ chức chính trị, các đồn thể
chính trị - xã hội; hoạt động của báo cáo viên, tuyên
truyền viên... Trong số các kênh trên, tuyên truyền
miệng thông qua hoạt động của báo cáo viên, tuyên
truyền viên được Đảng ta xác định là công cụ quan
trọng hàng đầu nhằm tuyên truyền, giáo dục về đường
lối, truyền bá những chủ trương, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, đưa tiếng nói của
Đảng đến với quần chúng nhân dân.
Thông báo số 71-TB/TW, ngày 07/6/1997 của Thường
vụ Bộ Chính trị khóa VIII, đã khẳng định “mọi đảng
viên đều có thể tiến hành tuyên truyền miệng ở mọi
lúc, mọi nơi, mọi đối tượng”1, và “đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên là lực lượng quan trọng trong công
tác tuyên truyền ở cơ sở”2.
Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày 15/10/2007 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng khóa X về việc đổi mới và nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng
trong tình hình mới nhấn mạnh: “Tuyên truyền miệng
và đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là một mắt
khâu quan trọng, trực tiếp nối liền Đảng, Nhà nước với
nhân dân, trung ương với địa phương và cơ sở để vừa
_____________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, t.56, tr.241.
9
đưa chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính
sách của Nhà nước đến với nhân dân, vừa nắm bắt,
phản ánh trung thực, kịp thời tư tưởng, tâm tư, nhu
cầu, lợi ích, nguyện vọng của nhân dân đối với lãnh đạo
Đảng, Nhà nước”1.
- Vai trò của tuyên truyền miệng
Cùng với các công cụ, phương tiện công tác tư tưởng
khác, tuyên truyền miệng góp phần truyền bá sâu rộng
trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó
làm cho hệ tư tưởng của Đảng đóng vai trị chủ đạo
trong đời sống tinh thần của xã hội.
Tuyên truyền miệng là kênh thơng tin chủ yếu và
chính thống nhằm giáo dục, phổ biến, quán triệt chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; thơng báo kịp thời, có định hướng các vấn
đề thời sự quan trọng trong nước và quốc tế, các vấn
đề mà dư luận quan tâm. Nhờ đó tạo ra sự thống nhất
về nhận thức, tư tưởng trong Đảng và đồng thuận
trong xã hội, củng cố niềm tin, cổ vũ các phong trào hành động cách mạng, thực hiện thắng lợi các nghị
quyết của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của Nhà nước.
_____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.66, tr.755.
10
Tuyên truyền miệng có đặc điểm là giao tiếp trực
tiếp với cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Qua công tác
tuyên truyền miệng, báo cáo viên, tuyên truyền viên sẽ
nắm bắt được nhận thức, tư tưởng, thái độ của đối
tượng đối với chủ trương, đường lối, chính sách, nắm
được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích... của Nhân
dân. Vì vậy, tuyên truyền miệng ví như là sợi dây nối
liền Đảng với quần chúng, Nhà nước với Nhân dân,
Trung ương, địa phương với cơ sở.
Tuyên truyền miệng góp phần to lớn vào việc tạo
lập và thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, xây
dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến; đấu tranh
phê phán những hiện tượng tiêu cực, bài trừ các tệ
nạn xã hội.
Tuyên truyền miệng là phương tiện hiệu quả để đấu
tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình”
của các thế lực thù địch; đấu tranh phê phán những
quan điểm sai trái, lệch lạc nhằm bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, sự nghiệp đổi mới, nền văn hóa; bảo vệ Nhân
dân; giữ vững ổn định chính trị trong điều kiện tồn
cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Tuyên truyền miệng có khả năng đưa những
thông tin nội bộ, những thông tin mà về lý do nào đó
khơng thể hoặc khơng nên đưa trên các phương tiện
thông tin đại chúng đến đối tượng tuyên truyền.
11
Trong điều kiện bùng nổ thông tin như hiện nay,
tuyên truyền miệng cịn góp phần định hướng thơng
tin, giải thích, phân tích cho Nhân dân hiểu rõ đâu là
thơng tin chính thức, chính thống, trên cơ sở đó định
hướng dư luận xã hội, góp phần tạo ra sự thống nhất
về chính trị, tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận
trong xã hội.
c) Những ưu thế và hạn chế của tuyên truyền miệng
* Những ưu thế của tuyên truyền miệng
Là loại hình tuyên truyền trực tiếp, sử dụng lời nói
làm phương tiện chủ yếu để chuyển tải thơng tin, tun
truyền miệng có những ưu thế sau:
- Ưu thế của ngơn ngữ nói:
Ngơn ngữ nói mang tính phổ biến trong giao tiếp
xã hội. Qua các cơng trình nghiên cứu cho thấy, hằng
ngày có khoảng 2/3 lượng thông tin con người thu
nhận được qua giao tiếp bằng lời nói trực tiếp. Bằng
ngơn ngữ nói, cán bộ tun truyền có thể trình bày
vấn đề một cách hệ thống, giải thích cặn kẽ, nhắc đi
nhắc lại để ghi nhớ... các khái niệm, phạm trù, quy
luật, quan điểm, tư tưởng... với từng đối tượng, kể cả
đối tượng khơng biết chữ...
Lời nói có ưu thế là sử dụng linh hoạt, hiệu quả
thơng tin cao, có thể tác động mạnh mẽ vào tình cảm
của con người, khơi dậy tính tích cực trong nhận thức
12
của đối tượng, thúc đẩy quá trình hình thành niềm tin
và cổ vũ hành động. Lời nói có thể sử dụng trong mọi
hồn cảnh, mọi điều kiện, do đó, tun truyền miệng ít
tốn kém kinh phí, khơng cần nhiều đến phương tiện kỹ
thuật phức tạp.
- Ưu thế trong việc sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ:
Trong tuyên truyền miệng, cán bộ tuyên truyền có
thể sử dụng các yếu tố phi ngơn ngữ (có tài liệu gọi là
các yếu tố của hệ thống tiếp xúc cơ học) như tư thế, cử
chỉ, điệu bộ, diện mạo... làm phương tiện biểu đạt thơng
tin và sắc thái tình cảm. Những yếu tố phi ngôn ngữ
này tác động vào kênh thị giác của người nghe, tăng
cường sự chú ý của họ, do vậy mà thúc đẩy việc tiếp thu
thông tin một cách tốt nhất. Các yếu tố phi ngơn ngữ hỗ
trợ cho lời nói, làm tăng ý nghĩa của lời nói, biểu hiện
xúc cảm, sắc thái tình cảm của người tuyên truyền với
vấn đề tuyên truyền, do đó chúng góp phần nâng cao
hiệu quả tuyên truyền miệng.
- Các ưu thế của loại hình giao tiếp trực tiếp:
Con người mang bản chất xã hội, nên giao tiếp trực
tiếp giữa người với người là hoạt động khơng thể thay
thế. Chính vì vậy, dù hiện nay sách báo nhiều, các kênh
thông tin rất đa dạng nhưng hằng ngày vẫn có hàng
triệu học sinh đến trường nghe thầy giảng bài, hàng
vạn người đến các hội trường, câu lạc bộ nghe cán bộ
tuyên truyền nói chuyện.
13
Khác với giao tiếp qua các phương tiện thông tin đại
chúng, sự giao tiếp trực tiếp của kênh tuyên truyền
miệng dễ tạo cho người nghe cảm giác gần gũi, thân
mật, qua đó cán bộ tuyên truyền mang đến cho đối
tượng khơng chỉ nội dung của lời nói mà cịn mang lại
cho họ tình cảm, niềm tin vào những điều mình nói.
Giao tiếp trực tiếp cho phép tác động đến đúng đối
tượng. Nhờ nghiên cứu trước về đối tượng và nắm bắt
thêm đặc điểm đối tượng thông qua giao tiếp trực tiếp,
cán bộ tuyên truyền hiểu biết rõ nhu cầu, tâm trạng
người nghe, trên cơ sở đó mà xác định nội dung và
phương pháp tuyên truyền, để lời nói đi vào tâm hồn
người nghe nhanh hơn.
Giao tiếp trực tiếp tạo điều kiện cho cán bộ tuyên
truyền linh hoạt vận dụng cách nói trong những tình
huống khác nhau trong q trình trình bày bài nói,
như điều chỉnh nội dung thơng tin, phương pháp tuyên
truyền cho phù hợp.
Giao tiếp trực tiếp cho phép chuyển từ độc thoại
sang đối thoại. Người nghe có thể bày tỏ tâm tư,
nguyện vọng của mình, được hỏi và được trả lời những
vấn đề mà mình quan tâm, được trao đổi, tranh luận
với nhau và với cán bộ tuyên truyền về những vấn đề
cịn chưa thống nhất. Vì vậy, giao tiếp trực tiếp làm
tăng thêm hiệu quả tuyên truyền.
Tóm lại, giao tiếp trực tiếp tạo cho cán bộ tuyên
truyền cũng như người nghe nhiều ưu thế mà người
14
phát biểu trên truyền hình, đài phát thanh và khán
thính giả của họ khơng thể có được.
* Những hạn chế của tuyên truyền miệng
- Lời nói chỉ đi một chiều, khơng quay trở lại. Khi đã
lỡ lời thì khơng thể lấy lại được nữa. Dù có cải chính,
xin lỗi..., vẫn gây cho người nghe một ấn tượng nào đó.
Vì vậy, người nói ln cần thận trọng.
- Phạm vi về khơng gian có giới hạn, do giới hạn tự
nhiên của lời nói trực tiếp (dù đã có phương tiện khuếch
đại) và khả năng tập hợp một số đông tại một địa điểm
và thời điểm nhất định.
- Dễ chịu tác động của các yếu tố ngoại cảnh do tập
trung đông người và ở các địa điểm khác nhau.
Hiện nay, ngoài phương thức tuyên truyền miệng
trực tiếp, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng và các địa
phương còn tiến hành phương thức tuyên truyền
miệng trực tuyến. Đây là phương thức tuyên truyền
miệng mới xuất hiện trong những năm gần đây trước
sự phát triển của công nghệ thông tin truyền thông và
yêu cầu áp dụng công nghệ hiện đại vào công tác
tuyên truyền miệng. Tuyên truyền miệng trực tuyến
có thể làm giảm một chút ưu thế của giao tiếp trực
tiếp như tính tương tác trực tiếp không cao, khả năng
bao quát người nghe và quản lý, điều khiển sự chú ý
của họ bị giới hạn một phần... Thay vào đó, tuyên
truyền miệng trực tuyến khắc phục được một số hạn
chế của tuyên truyền miệng trực tiếp ở khả năng đưa
15
thông tin nhanh, trên diện rộng, tức thời và đồng thời
trên quy mô cả nước, ở tất cả các cấp. Do đó, phương
thức tuyên truyền miệng mới này nhanh chóng tạo ra
dư luận xã hội tích cực và sự đồng thuận cao trong cán
bộ, đảng viên và Nhân dân về sự kiện, hiện tượng, vấn
đề được thông tin. Phương thức này cần được áp dụng
nhiều hơn không chỉ trong việc giới thiệu, quán triệt
nghị quyết, quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước mà cịn áp dụng trong
việc đưa tin nhanh, trên diện rộng nhằm định hướng
thông tin, định hướng dư luận xã hội về sự kiện, hiện
tượng, vấn đề, nhất là về các sự kiện, hiện tượng, vấn
đề nhạy cảm, phức tạp, dễ xuất hiện các ý kiến khác
nhau, các dư luận trái chiều.
2. Chức năng, nhiệm vụ của tuyên truyền miệng
Xuất phát từ yêu cầu của công tác tuyên truyền
miệng, các văn bản của Đảng xác định chức năng,
nhiệm vụ của công tác tuyên truyền miệng gồm:
a) Phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Cùng với các hình thức và phương tiện thơng tin đại
chúng, tun truyền miệng góp phần quan trọng trong
việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng chiếm vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
16
b) Thông tin và định hướng thông tin
Tuyên truyền miệng là một kênh thơng tin chính
thống giữ vai trị chủ yếu trong việc thông báo, quán
triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; các vấn đề thời sự trong nước và
quốc tế quan trọng mà dư luận đang quan tâm, qua đó
định hướng thơng tin cho người nghe.
Mặt khác, thông qua các hoạt động trên, cơng tác
tun truyền miệng có điều kiện nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của người nghe để phản ánh và kiến nghị
với Đảng và Nhà nước bổ sung, hoàn thiện và thực hiện
tốt hơn đường lối, chủ trương, chính sách đã đề ra.
c) Giáo dục, cổ vũ, động viên quần chúng đi tới
hành động
Tuyên truyền miệng có mục tiêu rất cơ bản là góp
phần giáo dục và xây dựng những chuẩn mực đạo đức,
nhân cách con người mới, nền văn hóa mới, cổ vũ và
động viên các nhân tố mới, tốt đẹp trong xã hội. Tuyên
truyền miệng có khả năng to lớn và có hiệu quả trong
chức năng cổ vũ, động viên, lôi cuốn được đông đảo
quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua.
d) Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tuyên truyền miệng là vũ khí sắc bén trong đấu
tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị của Đảng, đặc biệt
17
là trong đấu tranh chống các âm mưu và thủ đoạn
“diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch.
Tuyên truyền miệng là công cụ hữu hiệu để phê
phán các nhận thức tư tưởng lạc hậu, lệch lạc, các tệ
nạn xã hội, sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và
Nhân dân.
II- BÁO CÁO VIÊN, TUYÊN TRUYỀN VIÊN
1. Khái niệm, vai trò, sự cần thiết xây dựng và tổ
chức đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
a) Khái niệm báo cáo viên, tuyên truyền viên
Báo cáo viên, tuyên truyền viên là chức danh để
chỉ những người làm công tác tuyên truyền miệng
trong tổ chức đảng, đoàn thể, cơ quan nhà nước và
Nhân dân dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các
cấp ủy đảng và cơ quan nhà nước. Báo cáo viên được
coi là người phát ngôn, thơng tin chính thống của
Đảng và Nhà nước.
Như vậy, báo cáo viên, tuyên truyền viên là một lực
lượng quan trọng trong cơng tác tun truyền, là lực
lượng nịng cốt, chủ lực trong đội ngũ tuyên truyền
miệng, được lựa chọn theo những tiêu chuẩn nhất định
và có tổ chức của cấp ủy.
18
Báo cáo viên và tuyên truyền viên đều là người làm
cơng tác tun truyền miệng, nhưng có vị trí và đặc
điểm hoạt động khác nhau:
- Báo cáo viên do cấp ủy lựa chọn và ra quyết định
công nhận, được tổ chức có hệ thống từ Trung ương đến
tỉnh, thành phố, thị xã, quận, huyện, xã, phường, thị
trấn. Phương thức hoạt động chủ yếu của báo cáo viên
là thuyết trình, diễn thuyết, nói chuyện trực tiếp theo
chủ đề trước nhiều người nghe.
- Tuyên truyền viên là lực lượng tuyên truyền
miệng được tổ chức ở cấp cơ sở, khơng có hệ thống dọc
từ Trung ương. Về nguyên tắc, mọi cán bộ, đảng viên
đều có nhiệm vụ làm tuyên truyền viên, vận động, cổ
động, thuyết phục quần chúng nhân dân thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Phương thức hoạt động chủ yếu của
tuyên truyền viên là vận động trực tiếp từng người,
từng nhóm trong sinh hoạt, lao động, công tác, học tập
hằng ngày. Đây là sự khác biệt chủ yếu giữa báo cáo
viên với tuyên truyền viên.
Hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên cần
có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, trở thành lực lượng
tuyên truyền miệng có tổ chức, có hệ thống từ Trung
ương xuống tới đảng bộ, chi bộ cơ sở, tới tận cán bộ,
đảng viên và Nhân dân, thường xuyên gắn bó mật thiết
với quần chúng nhân dân.
19
b) Vai trò của báo cáo viên, tuyên truyền viên
Chỉ thị số 14-CT/TW, ngày 03/8/1977 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng khóa IV; Thơng báo số 71-TB/TW,
ngày 07/6/1997 của Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII,
cũng như Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày 15/10/2007 của
Ban Bí thư khóa X đều khẳng định: Báo cáo viên, tuyên
truyền viên là lực lượng quan trọng trong việc tuyên
truyền, giáo dục quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, đưa tiếng nói của Đảng
trực tiếp đến với cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Báo cáo viên, tuyên truyền viên không chỉ có nhiệm
vụ thơng tin thuần túy mà cịn định hướng thơng tin,
tun truyền, vận động, góp phần định hướng suy nghĩ
và hành động của mọi người theo chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Báo cáo viên, tun truyền viên cịn thực hiện thơng
tin hai chiều “chiều xuống và chiều lên”, nắm bắt và
hướng dẫn dư luận xã hội. Vì vậy, báo cáo viên, tuyên
truyền viên khơng chỉ là kênh thơng tin quan trọng, mà
cịn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân.
Hoạt động của báo cáo viên và tuyên truyền viên
góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ nhằm
thực hiện “quyền được thơng tin” và “dân chủ hóa” về
thơng tin trong Đảng và trong xã hội, góp phần tích cực
trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chi bộ, đảng
bộ trong sạch, vững mạnh, khắc phục sự suy thoái về tư
20
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ; thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Báo cáo viên, tuyên truyền viên là chiến sĩ tiên
phong đấu tranh phê phán các tư tưởng lạc hậu, bảo
thủ, cơ hội, chống các quan điểm sai trái, chống chiến
lược “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch,
nhất là trên mặt trận tư tưởng, góp phần bảo vệ quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
c) Sự cần thiết xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên
Việc xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên của Đảng xuất phát từ cơ sở lý luận, thực tiễn sau:
- Xuất phát từ những ưu thế đặc trưng của công tác
tuyên truyền miệng, mà khơng có một hình thức và
phương tiện tun truyền nào có thể thay thế.
- Xuất phát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
trong quá trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng. Đảng ta luôn luôn quan tâm đến cơng tác tư
tưởng nói chung, cơng tác tun truyền miệng nói riêng
và đã sử dụng cơng tác tun truyền miệng như một
phương thức hoạt động có hiệu quả, cơng cụ sắc bén để
tổ chức, tập hợp quần chúng nhân dân, góp phần xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
21
- Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tuyên truyền, không ngừng nâng cao sức
chiến đấu của Đảng trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuyên truyền
miệng góp phần đấu tranh chống lại chiến lược “diễn
biến hịa bình” của các thế lực thù địch, ngăn chặn, đẩy
lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và
các tiêu cực xã hội khác.
- Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc cần phải
tăng cường định hướng thông tin trong điều kiện
bùng nổ thơng tin tồn cầu; tình hình thế giới và
trong nước có những diễn biến phức tạp khó lường;
q trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng và toàn diện.
2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo viên,
tuyên truyền viên
Theo các quy định của Đảng, báo cáo viên, tuyên
truyền viên có chức năng, nhiệm vụ sau:
- Cung cấp thông tin, bao gồm cả những thơng tin có
tính nội bộ, về tình hình quốc tế, trong nước; phổ biến,
giải thích các quan điểm, đường lối, chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh, quốc phịng, đối ngoại...
22
- Phân tích, bình luận, làm rõ nội dung, ý nghĩa
chính trị của các sự kiện, các nhiệm vụ. Trên cơ sở lý
luận, thực tiễn khoa học, xác đáng, có sức thuyết phục
cao, báo cáo viên làm rõ bản chất các sự vật, hiện
tượng, từ đó chỉ ra các nguyên nhân, dự báo chiều
hướng, khả năng và triển vọng của tình hình, định
hướng thơng tin, nhất là những thơng tin có tính chính
trị cao.
- Động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân hăng hái
thi đua lao động sản xuất, tích cực tham gia các hoạt
động xã hội, nâng cao chất lượng công tác và hiệu quả
sản xuất.
3. Yêu cầu đối với báo cáo viên, tuyên truyền viên
Theo Quyết định số 518-QĐ/BTGTW, ngày 10/11/2011
của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, báo cáo viên,
tuyên truyền viên phải được lựa chọn, bồi dưỡng và rèn
luyện theo những tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực,
đó là hai yếu tố hợp thành mơ hình nhân cách của một
báo cáo viên, tuyên truyền viên.
a) Những tiêu chuẩn về phẩm chất
- Có lập trường quan điểm đúng đắn, có thế giới
quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, bản lĩnh
chính trị vững vàng, trung thành với mục tiêu lý tưởng
và sự nghiệp đổi mới của Đảng.
23