Tải bản đầy đủ (.pdf) (342 trang)

Thể chế phát triển nhanh - bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong giai đoạn mới (Phần 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.95 MB, 342 trang )

PHẦN THỨ HAI

THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG:
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

315



MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỐT YẾU XÂY DỰNG
THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG
GS.TS. PHÙNG HỮU PHÚ *

1. Yêu cầu bức thiết của việc xây dựng thể chế phát
triển nhanh - bền vững
Thế giới đang chuyển biến rất nhanh trước tác động của
những nhân tố chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và cơng
nghệ, mơi trường, đặc biệt là tác động mạnh mẽ của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Những năm gần đây, tại các diễn
đàn quốc tế, khu vực và trong bàn thảo chiến lược của nhiều
quốc gia, vấn đề đổi mới mơ hình phát triển theo hướng bền
vững, sáng tạo, bao trùm được nhấn mạnh như là một xu hướng
phát triển mới mang tính khách quan, phổ biến 1. Việt Nam
____________

* Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội
đồng Lý luận Trung ương.
1. Tại Kỳ họp 70, năm 2015, Đại hội đồng Liên hợp quốc đưa ra
Chương trình Nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030 đã xác định
mục tiêu, nguyên tắc, các trụ cột, các yếu tố... phát triển bao trùm. Định


hướng này tiếp tục được nhấn mạnh và cụ thể hóa tại các diễn đàn kinh
tế thế giới năm 2017 và 2018; tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 10 của
BRICS năm 2018..., Hội nghị lãnh đạo APEC lần thứ 25 tổ chức tại Việt
Nam tháng 11 năm 2017 đã ra Tuyên bố Đà Nẵng, nhấn mạnh mục tiêu
thúc đẩy tăng trưởng bền vững; sáng tạo; bao trùm.

317


THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...

đang cố gắng tăng tốc, thực hiện thành công những mục tiêu,
nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
và đang chuẩn bị xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội
lần thứ XIII của Đảng với khát vọng tạo ra những bước đột phá,
phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn. Lúc này, nghiên
cứu, đề xuất việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện mơ hình, thể chế
phát triển đất nước có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết.
Thứ nhất, vấn đề rất trăn trở đặt ra là phải từ nghiên cứu
lý luận, tổng kết thực tiễn để chắt lọc, khái quát, đề xuất đưa
vào Văn kiện Đại hội XIII của Đảng những vấn đề mới nhất có
giá trị khoa học và khả thi nhằm thúc đẩy đất nước phát triển
nhanh - bền vững. Các văn kiện của Đảng, nhất là những văn
kiện gần đây đã thể hiện nhiều bước tiến về nhận thức lý luận,
trong đó Đại hội XI và Đại hội XII nhấn mạnh vấn đề đổi mới
mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, tập trung thực hiện
ba đột phá chiến lược 1. Các nghị quyết Trung ương tiếp theo đã
bàn về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội 2; nhấn
mạnh đến yêu cầu phát triển bền vững. Trong thực tiễn, Chính
phủ đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách mới, quan tâm

xây dựng quốc gia khởi nghiệp, nhà nước kiến tạo phát triển...
Tuy nhiên, vấn đề được quan tâm nhiều về lý luận vẫn là
những vấn đề kinh tế, thiên về kinh tế; còn đang thiếu một tư
____________

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011; Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, 2016.
2. Xem Đảng Cộng sảnViệt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (Lưu hành nội bộ), Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017.

318


Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...

duy lý luận tổng hợp, bao quát nhất về sự phát triển. Chúng ta
đang bước vào và bước rất nhanh vào cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) - là cuộc cách
mạng đặc biệt chú trọng đến sự kết nối, tương tác giữa các lĩnh
vực và con người, tạo ra sức mạnh bao trùm. Điều đó đặt ra yêu
cầu khách quan mới phải tập trung xây dựng và vận hành đồng
bộ, thông suốt thể chế phát triển tổng thể, phù hợp với bối cảnh
mới. Đại hội XI và Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh đổi mới
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó
rất đúng, rất trúng, cần nghiên cứu, tổng kết, hồn thiện, nâng
lên thành thể chế phát triển tổng thể, bao quát của đất nước
trong thời kỳ chiến lược mới.

Xây dựng thể chế phát triển nhanh - bền vững, với ý nghĩa
là một thể chế mang tính chất bao trùm là một vấn đề quan
trọng, cấp thiết vừa phản ánh nhu cầu phát triển khách quan
của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới, vừa thuận với xu thế
phát triển của thời đại. Như nhiều nhà khoa học và quản lý
thực tiễn nhấn mạnh: Đổi mới thể chế phát triển là dư địa duy
nhất hay là quan trọng nhất để tạo ra động lực mới cho đất
nước cất cánh cao hơn trong giai đoạn mới.
Thứ hai, từ nghiên cứu lý luận cũng như phân tích kinh
nghiệm của thế giới về vấn đề xây dựng và thực hiện thể chế
cho thấy, các thể chế phát triển vừa mang tính phổ quát nhưng
tùy thuộc rất nhiều vào truyền thống lịch sử, văn hóa, thiết chế
văn hóa, xã hội, vào đặc điểm bản sắc của con người. Vì thế,
nghiên cứu về thể chế phát triển ln địi hỏi sự sáng tạo,
khơng rập khn, máy móc; phải suy nghĩ bằng cái đầu của ta,
đi bằng đôi chân của ta, trên mảnh đất của ta.
319


THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...

Cần khẳng định những cố gắng trong quá trình xây dựng và
từng bước hoàn thiện các thể chế phát triển của đất nước, cả về
thể chế chính trị và thể chế kinh tế, những bước tiến về nhận
thức lý luận và thành quả thực tiễn để không bi quan nhưng
đồng thời cũng không lạc quan tếu. Cần nghiêm túc nhận rõ
những hạn chế, yếu kém, bất cập trong xây dựng và thực thi
thể chế, về sự thiếu đồng bộ, thiếu kết nối, tương tác, hiệu quả
thấp trong xây dựng và thực thi thể chế.
2. Những vấn đề cốt yếu về xây dựng và thực thi thể

chế phát triển nhanh - bền vững
Thứ nhất: Về lý luận, cần đề cập một cách cơ bản, có hệ
thống những vấn đề liên quan đến xây dựng thể phát triển
nhanh - bền vững: từ nhận thức, quan niệm, bản chất, cấu trúc,
vai trò của thể chế. Từ nghiên cứu lý luận và những tham khảo
kinh nghiện thành công của một số nước trên thế giới, phải làm
rõ thêm những hạn chế, bất cập, những “điểm nghẽn” nhận
thức lý luận về thể chế phát triển hiện nay của đất nước khi
chuyển sang phát triển theo chiều sâu và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng hơn. Từ đó đề xuất những vấn đề, nội dung cần
được bổ sung, hoàn thiện về xây dựng thể chế phát triển nhanh bền vững đất nước trong giai đoạn mới.
Cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, tiếp tục rà sốt lại để
hồn thiện những khái niệm, thậm chí cả những khái niệm rất
cơ bản, rất cốt lõi về thể chế phát triển trên tinh thần khoa học,
không né tránh nhưng không cực đoan, không tuyệt đối hóa
một chiều. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận và hết sức xem trọng
tổng kết thực tiễn ở tầm lý luận. Thực tiễn đang vận động hết
sức phong phú, đầy tính sáng tạo của cán bộ, đảng viên, nhân
320


Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...

dân trên các tỉnh, thành, các lĩnh vực cần phải được đúc kết,
khái quát thành lý luận.
Thứ hai: Cần nhận thức rõ về thể chế phát triển: Qua
nghiên cứu, mặc dù cịn có các cách tiếp cận khác nhau, nhưng
các ý kiến đều thống nhất cho rằng, thể chế phát triển là một
cấu trúc tổng thể, trong đó thể hiện sự vận hành đồng bộ của ba
yếu tố: các tổ chức, chủ thể tham gia; các quy tắc vận hành, cơ

chế thực thi thể chế; và môi trường mà các chủ thể, quy tắc vận
hành trong đó - hay gọi một cách dễ hiểu là thể chế gồm “người
chơi, luật chơi và sân chơi hay nội dung chơi”. Đối với một quốc
gia, thể chế phát triển là sự tương tác tổng hợp của ba lĩnh vực
cơ bản: chính trị, kinh tế, xã hội; sự gắn kết, tác động hài hòa
ba thể chế thành phần chủ yếu: thể chế chính trị, thể chế kinh
tế và thể chế xã hội (trong đó bao hàm thành tố văn hóa, con
người và quan hệ con người với tự nhiên). Ba thể chế thành
phần này có vai trị và chức năng khác nhau, nhưng liên quan
mật thiết, tương tác và chế định lẫn nhau theo quy luật nhân
quả, hình thành nên các mơ hình thể chế phát triển khác nhau
vận hành trong mối quan hệ cốt lõi giữa Nhà nước, thị trường
và xã hội.
Thứ ba: Đối lập với thể chế phát triển là thể chế kìm hãm
phát triển. Trên thực tế, trong một thể chế cụ thể thường chứa
đựng cả những yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực. Vấn đề là
những yếu tố nào đóng vai trị chủ đạo, chi phối sự phát triển và
làm thế nào để các yếu tố chủ đạo đó phát huy tối đa tác dụng.
Bản thân thể chế cũng không phải là bất biến, nó vừa có yêu
cầu phải ổn định tương đối, đồng thời phải được thường xun
đổi mới, khơng ngừng hồn thiện và phát triển cùng với sự phát
triển cao hơn của xã hội.
321


THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...

Chất lượng của thể chế phụ thuộc vào chất lượng của pháp
luật và mức độ hiệu lực, hiệu quả thực thi luật pháp, cơ chế,
chính sách trên thực tế. Có thể khẳng định việc xây dựng, thực

hiện thể chế phát triển có chất lượng phụ thuộc rất lớn vào
năng lực quản trị và phẩm chất chính trị, đạo đức của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây
là những vấn đề quan trọng cần được tiếp tục nghiên cứu sâu
và có những đề xuất xác đáng trong quá trình xây dựng thể chế
cụ thể.
Thứ tư: Nghiên cứu các mơ hình phát triển trên thế giới cho
thấy, những kinh nghiệm, bài học đa dạng (thành công và thất
bại) của các nước trong xây dựng và thực thi thể chế phát triển.
Đó là những gợi mở rất hữu ích đối với Việt Nam, trong đó đáng
lưu ý nhất là phải xây dựng được thể chế phát triển đồng bộ về
chính trị, kinh tế, xã hội phù hợp với điều kiện và trình độ phát
triển của từng nước, từng lĩnh vực. Chúng ta cần nghiên cứu
sâu hơn, tiếp thu có chọn lọc, vận dụng phù hợp cho việc đổi
mới, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh bền vững của nước ta trong giai đoạn mới.
Thứ năm: Từ những nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm
quốc tế, bước đầu có thể xác định một số vấn đề cần tập trung
để xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển nhanh - bền vững
của Việt Nam trong giai đoạn mới:
Một là, cần làm rõ hơn bản chất của q trình đổi mới và
hồn thiện thể chế phát triển của Việt Nam trong giai đoạn
mới. Thể chế phát triển nhanh - bền vững là thể chế mang tính
dung hợp cao, tính “vượt trội” để có khả năng đón nhận có hiệu
quả các xu thế và mơ hình phát triển mới, nhất là cuộc cách
mạng cơng nghiệp lần thứ tư; đồng thời hóa giải được các thách
322


Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...


thức, huy động và sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn lực,
trong đó đặt trọng tâm vào nguồn lực con người chất lượng cao
và khoa học - công nghệ hiện đại, bảo đảm sự phát triển dựa
vào năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
Bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp giữa thể chế kinh tế và
thể chế chính trị, thể chế xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và
xã hội; sự hài hồ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hố, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội
bền vững. Xây dựng thể chế phát triển nhanh - bền vững theo
chiều sâu phải là một đột phá chiến lược của đất nước trong
giai đoạn mới.
Hai là, xác định vấn đề trung tâm của xây dựng thể chế là
tạo động lực phát triển trong mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi
cộng đồng, kết nối thành động lực phát triển của cả dân tộc.
Động lực đó phải được tạo lập đồng bộ cả về mặt lợi ích kinh tế,
lợi ích chính trị, lợi ích tinh thần - giá trị xã hội, giá trị dân chủ
và pháp quyền, giá trị đạo đức của tất cả các chủ thể trong xã
hội, tạo động lực tổng hợp cho sự phát triển.
Ba là, tiếp tục đổi mới tư duy về thể chế phát triển; xây
dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế chính trị - thể chế kinh tế thể chế xã hội, đáp ứng với yêu cầu phát triển nhanh - bền
vững đất nước trong giai đoạn mới. Nhận thức đúng, giải quyết
hiệu quả quan hệ giữa các thể chế thành phần, trong đó thể chế
chính trị phải đổi mới để đóng vai trị định hướng, dẫn đường;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải là
thể chế kinh tế phù hợp, hiệu quả, hiện đại, tạo nền tảng vật
chất cho phát triển; thể chế phát triển xã hội hướng tới phát
huy những giá trị mới, ni dưỡng khát vọng, giải phóng và
323



THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...

phát huy giá trị sáng tạo, trách nhiệm xã hội của mỗi con người
và tất cả các chủ thể trong xã hội, tạo động lực phát triển.
Trong khi xây dựng và thực hiện thể chế phát triển nhanh bền vững, cần đặc biệt coi trọng việc đổi mới và hồn thiện thể
chế chính trị, nịng cốt là tiếp tục đổi mới chức năng, nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Trong khi nhấn mạnh vai trị “dẫn đường” của thế chế chính trị,
coi trọng vai trò của thể chế kinh tế, phải quan tâm đúng mức
đến thể chế xã hội và thể chế văn hóa. Thể chế văn hóa nếu
được chế định phù hợp sẽ góp phần rất quan trọng vào thúc đẩy
phát triển và thực thi hiệu quả thể chế chính trị và thể chế kinh
tế; ngược lại, nếu chế định khơng phù hợp, nó sẽ chi phối, cản
trở các thể chế khác.
Bốn là, trên cơ sở yêu cầu chung của thể chế phát triển
nhanh - bền vững, tập trung đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các
thể chế thành phần với các nội dung chủ yếu sau:
Về thể chế chính trị: yêu cầu hàng đầu là tiếp tục tập trung
đẩy mạnh đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng,
tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị, nhất là đối với Nhà nước, lãnh đạo xây dựng
thể chế phát triển hiện đại, hiệu quả. Nâng cao năng lực định
hướng và hoạch định chiến lược, chính sách phát triển, năng
lực dự báo và điều chỉnh chiến lược phát triển. Trên cơ sở xác
định rõ và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức,
kiên quyết xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, như Nghị quyết Trung
ương 6 khóa XII đã xác định. Tập trung xây dựng Nhà nước
pháp quyền - Nhà nước kiến tạo phát triển, theo yêu cầu

“liêm chính - kỷ cương - hành động - sáng tạo - hiệu quả”, coi
324


Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...

đây là khâu trung tâm của xây dựng thể chế phát triển, đáp
ứng với những yêu cầu phát triển nhanh - bền vững đất nước
trong giai đoạn mới.
Về thể chế kinh tế: tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết
Trung ương 5 khóa XII, tập trung vào hoàn thiện mối quan hệ
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc “nhà nước
mạnh - thị trường hiệu quả - xã hội (doanh nghiệp và người
dân) năng động, sáng tạo”. Tháo gỡ những “nút thắt”, những
bất cập để phát huy cao nội lực và tiềm năng, sức mạnh của các
thành phần kinh tế và của cả xã hội; đồng thời xây dựng thể
chế để có thể đón nhận, tận dụng hiệu quả những cơ hội mới,
những mơ hình mới, xu hướng phát triển mới trong kinh tế và
khoa học - công nghệ.
Về thể chế xã hội: trên cơ sở nhận thức sâu sắc các biến đổi
về mặt xã hội dưới tác động (tích cực và tiêu cực) của các xu
hướng thay đổi, phát triển của xã hội hiện đại trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế để hoàn thiện
thể chế và thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách phát triển
xã hội, quản lý phát triển xã hội, khắc phục phân tầng xã hội,
phân hóa giàu - nghèo, sự phát triển mất cân đối giữa các vùng
miền; tập trung vào những nội dung bức thiết về hình thành và
phát triển các giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội,
đáp ứng yêu cầu và làm động lực nội sinh chủ đạo phát triển

nhanh - bền vững đất nước. Thực hiện có hiệu quả dân chủ xã
hội chủ nghĩa, nhất là dân chủ ở cơ sở; xây dựng và thực thi có
hiệu quả cơ chế giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động
của các tổ chức đảng và Nhà nước, nhất là những vấn đề liên
quan trực tiếp đến quốc kế dân sinh, đến quyền và lợi ích của
325


THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...

người dân. Nâng cao niềm tin, sự tín nhiệm, hài lòng và sự ủy
thác của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Về thể chế hội nhập quốc tế: trong bối cảnh hiện nay, cần
hoàn thiện thể chế để đưa quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế đi
vào chiều sâu; tận dụng được các cơ hội, tranh thủ ngoại lực,
chuyển hóa ngoại lực thành nội lực, “hóa giải” được các thách
thức; thực hiện có hiệu quả các hiệp định và cam kết quốc tế.
Chủ động điều chỉnh chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế,
vừa có tầm nhìn dài hạn, vừa ứng phó có hiệu quả, giảm tác
động tiêu cực của các biến động quốc tế và khu vực (như cuộc
chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đang diễn
ra)... Đẩy mạnh tham gia vào các chuỗi sản xuất và chuỗi giá
trị toàn cầu.
Năm là, phải nâng cao năng lực và ý thức trách nhiệm của
tất cả các chủ thể trong xây dựng và thực hiện thể chế phát
triển trong giai đoạn mới. Phải chế định các cơ chế và thiết chế
thực thi thể chế nghiêm minh, đẩy mạnh công tác xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phịng, chống suy

thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong Đảng và xã hội; thực hiện triệt để các
nguyên tắc, quy định về dân chủ, công khai, minh bạch trong
Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước, thực sự “nói đi đơi với
làm”, “thượng tôn pháp luật”. Nâng cao năng lực thực thi của
tất cả các chủ thể và bảo đảm thể chế được thực thi hiệu lực,
hiệu quả.
Sáu là, xây dựng thể chế phát triển nhanh - bền vững cần
phải gắn với việc xác định và thực hiện mơ hình tăng trưởng
326


Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...

tổng quát, bền vững, sáng tạo và bao trùm, trong đó con người
là trung tâm và vấn đề xã hội được đặt ở tầm rất cao.
Xây dựng nền quản trị hiện đại theo hướng thông minh,
quản trị số, bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững, lành
mạnh quan hệ xã hội, môi trường xã hội, tất cả hướng tới hạnh
phúc của con người, không để sót ai, đó là tiêu chí quan trọng
nhất để đánh giá chất lượng, hiệu quả của thể chế phát triển
nhanh - bền vững.
Sự chuyển biến nhanh chóng của thời cuộc vừa đòi hỏi cấp
thiết, vừa tạo nền tảng để chúng ta xây dựng, thực thi thể
chế phát triển nhanh - bền vững. Đây là một sự nghiệp to
lớn, một q trình lâu dài, khơng thể chần chừ nhưng cũng
khơng thể nóng vội. Kế thừa những thành tựu lý luận tích
lũy được qua hơn 30 năm đổi mới; cập nhật, nắm bắt các xu
thế phát triển của thời đại; tính tốn tồn diện điều kiện, khả
năng của đất nước để xây dựng, thực hiện vững chắc, với lộ

trình khoa học thể chế phát triển nhanh - bền vững là con
đường đi đến thành công.

327


TỔ CHỨC BỘ MÁY HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VẤN ĐỀ TRUNG TÂM TRONG XÂY DỰNG THỂ CHẾ
PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
GS.TS. TẠ NGỌC TẤN *

Nếu coi thể chế phát triển là những quy tắc chính thức và

khơng chính thức quy định sự vận hành của các yếu tố nhằm

đạt được mục đích phát triển đất nước, thì thể chế chính trị giữ
vai trị trung tâm, quyết định. Thể chế chính trị lại gắn bó hữu
cơ với tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, trở thành điều
kiện, tiền đề của nhau. Bởi vì, khơng ai khác, chính tổ chức bộ
máy hệ thống chính trị là chủ thể xây dựng, hoàn thiện và vận
hành thể chế phát triển mà trước hết là thể chế chính trị. Đến
lượt nó, thể chế chính trị trở lại quy định, thúc đẩy sự phát
triển, hoàn thiện của tổ chức bộ máy hệ thống chính trị. Trên cơ
sở nhận thức ấy, bài viết này mong muốn lý giải về vai trò, vị
trí, ý nghĩa, thực trạng, những vấn đề đặt ra và những giải
pháp nhằm xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, một
nhân tố có ý nghĩa sống cịn đối với thể chế chính trị nói riêng
____________

* Ngun Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội
đồng Lý luận Trung ương.


328


Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...

và thể chế phát triển đất nước nhanh - bền vững trong điều
kiện hiện nay.
1. Vai trò, tầm quan trọng của tổ chức bộ máy hệ
thống chính trị đối với thể chế phát triển
(1) Khái niệm “Hệ thống chính trị” bắt đầu được sử dụng từ
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3/1989), để
thay cho khái niệm “Hệ thống chun chính vơ sản”. Đây là một
bước nhận thức mới của Đảng ta về vai trị, vị trí, tính chất của
hệ thống quyền lực trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Hệ thống chính trị của nước ta gồm ba “tiểu hệ thống” là
Đảng Cộng sản, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc tập hợp các
đoàn thể, tổ chức nhân dân. Ba “tiểu hệ thống” chính trị này
gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng chung mục đích xây dựng, phát
triển đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội, do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; đồng thời hợp thành một hệ thống chính trị thống
nhất, vận hành theo quan hệ chức năng có tính ngun tắc:
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Về Đảng Cộng sản Việt Nam, khoản 1 Điều 4 Hiến pháp
năm 2013 xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm

nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” 1.
____________

1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.10.

329


THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...

Theo diễn đạt mới về tính chất, Đảng Cộng sản Việt Nam
khơng chỉ là đại diện chính trị, lợi ích của “giai cấp công nhân,
nhân dân lao động” mà đồng thời là đại diện chính trị và lợi ích
của “toàn dân tộc”, “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định: “1. Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân
làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân
và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối
hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” 1. Cùng với việc khẳng
định tính chất dân chủ, pháp quyền của Nhà nước Việt Nam,
Hiến pháp năm 2013 cũng đồng thời khẳng định việc thực thi
các quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp thuộc về Nhà
nước. Hay nói cách khác, Nhà nước đại diện, thay mặt Nhân
dân thực hiện những quyền lực đó.

Về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Điều 9 Hiến pháp năm 2013
xác định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh
chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
____________

1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Sđd, tr.9.

330


Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...

chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng
thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” 1. Như vậy, Mặt trận Tổ quốc đại diện
cho quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân, đồng thời giữ
quyền “giám sát, phản biện xã hội”, có quyền “tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước”.
Từ sự phân tích trên cho thấy, trên thực tế hệ thống chính
trị nước ta nắm giữ tồn bộ hệ thống các quyền lực xã hội, từ
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đến các quyền lực khác
trong xã hội; trong đó có các quyền lực về xây dựng, hồn thiện,
tổ chức thực thi, kiểm sốt việc thực thi hệ thống thể chế phát

triển. Chính vì thế, việc hồn thiện và thực thi có hiệu quả thể
chế phát triển chỉ có thể xảy ra khi có một tổ chức bộ máy hệ
thống chính trị tốt, hợp lý, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
(2) Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị khơng
thể tách rời cơng tác cán bộ. Đây là hai lĩnh vực gắn bó hữu cơ,
phụ thuộc lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau. Trong tác phẩm
“Làm gì?”, V.I. Lênin đã sớm nhận thấy sức mạnh của tổ chức
đảng đối với cách mạng vô sản khi cho rằng: “hãy cho chúng tôi
một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược
nước Nga lên” 2. Nên nhớ rằng, “tổ chức” mà V.I. Lênin đề cập ở
đây là tổ chức của “những người cách mạng”, một “lực lượng”
____________

1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Sđd,
tr.12-13.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.6, tr.162.

331


THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...

những người có đủ năng lực thực sự để tham gia vào cuộc cách
mạng vĩ đại. Người nhấn mạnh: “Muốn trở thành một lực lượng
chính trị như thế trước con mắt cơng chúng, thì phải cố gắng
rất nhiều và bền bỉ để nâng cao tính tự giác, óc sáng kiến và
nghị lực của chúng ta lên, chứ chỉ đem dán cái nhãn hiệu “đội
tiên phong” vào lý luận và thực tiễn của đội hậu vệ thì khơng
đủ” 1. Nói cách khác, V.I. Lênin yêu cầu phải có lực lượng những
người cán bộ ngang tầm nhiệm vụ cách mạng, những người cán

bộ có đủ tri thức, năng lực và phẩm chất để có thể thực thi
những trách nhiệm cơng tác nặng nề trong tổ chức. Khi những
con người có lý tưởng cách mạng, có năng lực cơng tác như thế
tập hợp thành một tổ chức hợp lý, chặt chẽ sẽ tạo nên một sức
mạnh có thể cải tạo cách mạng, “đảo lộn” xã hội nước Nga
đương thời.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do
cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định” 2. Vì vai trị có
ý nghĩa quyết định của cơng tác cán bộ như vậy nên Người yêu
cầu “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, “Đảng phải
nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối
quý báu”3. Theo Người, việc “dạy cán bộ và dùng cán bộ” thể
hiện ở sáu việc là: (1) Phải biết rõ cán bộ; (2) Phải cất nhắc cán
bộ một cách cho đúng; (3) Phải khéo dùng cán bộ; (4) Phải phân
phối cán bộ cho đúng; (5) Phải giúp cán bộ cho đúng; (6) Phải
____________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.115.
2, 3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2011, t.5, tr.280, 313.

332


Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...

giữ gìn cán bộ 1. Tất cả những cơng việc đó đều là cơng việc của
tổ chức, của bộ máy công tác của Đảng và cả hệ thống chính trị.
Chỉ có một tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tốt mới có thể
hồn thành được những công việc về đào tạo, bồi dưỡng, huấn

luyện, sử dụng, kiểm tra và phát huy đầy đủ năng lực cán bộ.
Cán bộ tốt nhưng đặt vào trong một tổ chức bộ máy khơng tốt
thì cán bộ đó hoặc là khơng thể phát huy được năng lực của
mình, hoặc là khó tránh khỏi bị rơi vào những sai lầm, bị lôi kéo
vào những khuyết điểm. Ngược lại, cán bộ kém mà đặt vào một
tổ chức bộ máy tốt sẽ có điều kiện để được học tập, rèn luyện,
giúp đỡ nâng cao trình độ văn hóa, năng lực cơng tác, có thể trở
thành những cán bộ tốt, hoặc ít ra cũng không bị sa vào những
sai lầm, khuyết điểm, nhất là những sai lầm, khuyết điểm về
chính trị, đạo đức. Hơn thế nữa, đội ngũ cán bộ tốt sẽ bảo đảm
cho việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện về tổ chức bộ máy và cơ chế
vận hành của nó theo hướng ngày càng tích cực hơn, hiệu quả
hơn, cập nhật với tình hình và những yêu cầu mới đặt ra từ
thực tế. Từ góc nhìn đó có thể thấy, vai trị quyết định của tổ
chức bộ máy hệ thống chính trị trong việc xây dựng, hoàn thiện
và thực thi thể chế phát triển chung của xã hội.
2. Những vấn đề đặt ra của tổ chức bộ máy hệ thống
chính trị nước ta hiện nay
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, cơng tác tổ chức bộ
máy hệ thống chính trị của nước ta đã có nhiều chuyển biến
quan trọng, đạt được nhiều kết quả cơ bản và to lớn trong hơn
____________

1. Xem Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.5, tr.314.

333


THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...


30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Tổ chức bộ máy
đã có những chuyển biến theo hướng đáp ứng với những đòi hỏi
đặt ra của thực tiễn công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và
bảo vệ Tổ quốc. Một số cơ quan, tổ chức mới được thiết lập, một
số cơ quan, tổ chức khơng cịn phù hợp đã được giải thể hoặc sáp
nhập vào các cơ quan, tổ chức thích hợp. Trong nội bộ nhiều cơ
quan, tổ chức cũng có những thay đổi về bộ máy, nhân sự theo
hướng ngày càng hợp lý hoá với những điều kiện kinh tế - xã
hội đã thay đổi. Một số cơ quan nhà nước, nhất là Quốc hội đã
được tăng cường các điều kiện, nguồn lực, ngày càng thể hiện rõ
hơn vai trò và trách nhiệm trong quản lý đất nước. Các quy
định, chế độ, hành lang pháp lý cho hoạt động của hệ thống
chính trị được bổ sung, phát triển, v.v.. Những kết quả quan
trọng trong công tác tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, và gắn
bó hữu cơ với nó là những đổi mới về thể chế là những điều kiện
cơ bản, quyết định cho những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, thực tế cho thấy cịn nhiều
vấn đề đang đặt ra trong cơng tác tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị nước ta hiện nay.
Thứ nhất, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị cịn cồng kềnh,
nhiều tầng nấc, ngày càng phình to, thiếu ổn định, không phù
hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội đã có rất nhiều biến
chuyển qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới. Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thay thế cho
cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp trước
đây. Chúng ta đã vượt qua thời kỳ nghèo khó, trở thành quốc
gia đang phát triển có thu nhập trung bình thấp. Những thành
tựu của công cuộc đổi mới đã không ngừng cải thiện mọi mặt đời
sống của các tầng lớp dân cư. Cơ cấu xã hội có sự thay đổi to
334



Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...

lớn, trong đó tầng lớp trung lưu đã phát triển đáng kể. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã hình thành, phát triển,
thay thế cho nhà nước chun chính vơ sản. Những thành tựu
của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ thông
tin, sự hội nhập quốc tế mạnh mẽ của đất nước và cùng với nó
là một nền kinh tế có độ mở cao đã mang lại những điều kiện
rất mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra lối sống, thói
quen tiêu dùng mới, tác động mạnh mẽ vào các quan hệ kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, v.v..
Theo quy luật, những điều kiện ấy là cơ sở khách quan và
đặt ra những yêu cầu tất yếu của việc đổi mới tổ chức, cơ chế
vận hành, tinh giản bộ máy, nâng cao năng suất lao động, hiệu
quả hoạt động. Tuy nhiên, trên thực tế, tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị nước ta lại ngày càng mở rộng quy mơ, phức tạp
hóa về cấu trúc. Số lượng biên chế tăng đều từng năm
(đến trước thời điểm Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số
39-NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2015 về tinh giản biên chế và
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức). Nhiều bộ phận
trung gian hoạt động không rõ chức năng, nhiệm vụ. Khơng ít
thiết chế được lập ra chưa thật hợp lý, làm cho chức năng,
nhiệm vụ chồng chéo, gây khó khăn hoặc giảm trách nhiệm,
hiệu lực hoạt động của các cơ quan khác. Chức năng, nhiệm vụ,
trách nhiệm công tác giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, giữa các cấp hành chính trong mỗi hệ thống
quyền lực, giữa các cấp lãnh đạo, quản lý trong nhiều cơ quan,
tổ chức khơng rõ ràng, cịn có hiện tượng lấn sân công việc

nhưng đùn đẩy trách nhiệm. “Số người hưởng lương, phụ cấp từ
ngân sách nhà nước rất lớn” (Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII),
trong khi năng suất lao động, hiệu suất công tác thấp, dẫn đến
335


THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...

chi ngân sách cho bộ máy ngày càng tăng. Chế độ tiền lương
chậm được thay đổi làm cho tiền lương thực tế của cán bộ, viên
chức khơng cịn ý nghĩa tích cực trong việc đánh giá hiệu quả
cơng tác, v.v.. Nói tóm lại, chúng ta chưa nhận thức rõ tính
chất, cấu trúc và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nước ta
hiện nay. Một khi chưa giải quyết được vấn đề nhận thức ấy thì
việc xây dựng và vận hành tổ chức bộ máy hệ thống chính trị
còn lúng túng, hạn chế hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Thứ hai, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ chưa được nhận thức rõ ràng, chưa được đổi mới hồn
thiện trong q trình xây dựng, phát triển đất nước. Một số vấn
đề về cơ chế cơ bản, quan trọng này đã được đưa ra và được diễn
đạt trong các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước
nhưng không được triển khai trên thực tế. Về Đảng Cộng sản
Việt Nam, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã xác
định rất rõ ràng về nội dung phương thức lãnh đạo là: “Đảng
lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu
tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan

lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thơng qua tổ
chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ
thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là
người đứng đầu” 1. Đại hội XI tiếp tục khẳng định rõ rằng:
____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,tr.88-89.

336


Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...

“Trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền và có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phương
thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông
qua Nhà nước” 1.
Về Nhà nước, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011
xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực
nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”2.
Về Mặt trận Tổ quốc, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm
2011 của Đảng khẳng định, đó là: “tổ chức liên minh chính trị,
liên hiệp tự nguyện” của các tổ chức quần chúng, các tầng lớp

nhân dân, các tôn giáo, tín ngưỡng, các nhân sĩ, người có uy tín
trong xã hội nhằm đoàn kết dân tộc để xây dựng, phát triển đất
nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là “một bộ phận của hệ thống
chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân... thực
hiện vai trị giám sát và phản biện xã hội”3.
Về đường lối và chủ trương chung của Đảng, chức năng,
nhiệm vụ, cơ chế vận hành của mỗi “tiểu hệ thống” này và của
cả hệ thống chính trị đều đã khá rõ ràng. Tuy nhiên trên thực
tế, việc cụ thể hoá những quan điểm, chủ trương này diễn ra
quá chậm hoặc không đáp ứng yêu cầu, quan điểm, địi hỏi
chung. Tình trạng trên dẫn tới chức năng, nhiệm vụ, quyền
____________

1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Sđd, tr.144, 85, 86-87.

337


THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...

hạn, tổ chức, quan hệ công tác giữa nhiều cơ quan, bộ phận
chưa thật rõ ràng, còn trùng lặp, chồng chéo với nhau. Việc
phân định trách nhiệm, phân cấp, phân quyền chưa đồng bộ,
chưa hợp lý, chỗ bao biện làm thay, nơi bỏ sót hoặc khơng đầu
tư thích đáng cho công việc. Về cơ bản, tổ chức bộ máy trong
từng “tiểu hệ thống” cũng như trong toàn bộ hệ thống chính trị
chưa đổi mới kịp với những thay đổi và yêu cầu của thực tiễn.
Trong khi các điều kiện kinh tế - xã hội đã có những thay đổi to
lớn thì tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của nó vẫn ít thay đổi

hoặc khơng thay đổi. Mơ hình tổ chức cụ thể, chức năng, trách
nhiệm, quyền lực, nghĩa vụ của từng “tiểu hệ thống”, cũng như
của các cấp, các bộ phận trong mỗi “tiểu hệ thống” còn nhiều
điểm chưa rõ ràng, chưa hợp lý, chưa phù hợp với điều kiện mới.
Mối quan hệ, tác động qua lại giữa các cấp, các bộ phận trong
từng “tiểu hệ thống” cũng như của cả hệ thống chính trị khơng
rõ ràng, phân minh. Việc lập ra một số tổ chức mới, xác lập một
số quy định, thiết chế vận hành mới nhiều khi chắp vá, không
đồng bộ, không giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ mới, các
vấn đề mới đặt ra, thậm chí làm cho bộ máy ngày càng phình
ra, cơ chế vận hành phức tạp thêm, chức năng các bộ phận
chồng chéo lên nhau hơn.
Thứ ba, vấn đề kiểm sốt quyền lực, giám sát liêm chính bị
bng lỏng; kỷ cương, kỷ luật và việc thực thi pháp luật khơng
nghiêm minh dẫn đến tình trạng “Quan liêu, tham nhũng, lãng
phí vẫn cịn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức
tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội” 1.
____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Sđd, tr.172.

338


Phần thứ hai: THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NHANH - BỀN VỮNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...

Kiểm soát quyền lực, giám sát liêm chính là một vấn đề cơ
bản của mọi chế độ nhà nước trong lịch sử cũng như hiện đại.
Việc kiểm soát quyền lực nhằm bảo đảm cho Nhà nước vận

hành hiệu quả, ngăn chặn sự lợi dụng quyền lực mưu cầu lợi ích
riêng, lợi ích nhóm. Giám sát liêm chính nhằm ngăn chặn, cảnh
báo những hành vi tiêu cực, tham nhũng, lợi dụng chức quyền,
bảo vệ sự trong sạch và uy tín của đội ngũ cán bộ, cơng chức,
viên chức. Kiểm soát quyền lực và giám sát liêm chính tuy hai
mà là một, như hai mặt của một vấn đề, gắn bó chặt chẽ với
nhau, làm tiền đề và điều kiện cho nhau. Về nguyên tắc, mọi
quyền lực trong xã hội đều phải được kiểm soát, mọi cán bộ,
công chức, viên chức đều phải được giám sát liêm chính. Càng
những cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm giữ quyền lực quan trọng
của hệ thống chính trị, các nguồn lực to lớn của xã hội càng
phải được kiểm soát, giám sát một cách chặt chẽ, nghiêm khắc.
Giáo dục về đạo đức là một yếu tố rất quan trọng, nhưng nếu
thiếu sự kiểm tra, kiểm soát, giám sát về quyền lực và liêm
chính thì đạo đức rất dễ bị xun tạc, mất đi ý nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta chưa nhận thức rõ, đầy đủ
về nhiều vấn đề lý luận rất quan trọng của hệ thống chính trị
như: bản chất và mối quan hệ nội tại của hệ thống chính trị, về
Đảng cầm quyền, về nguyên tắc pháp quyền và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về dân chủ và thực hành
dân chủ... Trước hết là nhận thức, quan điểm về vấn đề kiểm
sốt quyền lực, giám sát liêm chính chưa đầy đủ, rõ ràng, quyết
tâm chính trị chưa cao. Tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành cũ
được duy trì quá lâu, không được đổi mới đồng bộ với những đổi
mới về kinh tế - xã hội. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến việc
“... chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối
339



×