Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác - Lênin (Tập 1): Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 110 trang )

87

Chương 7
TƯ BẢN THƯƠNG NGHIỆP VÀ LỢI NHUẬN THƯƠNG NGHIỆP
1. Tư bản thương nghiệp, nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
thương nghiệp
1.1. Tư bản thương nghiệp
a. Nguồn gốc của tư bản thương nghiệp
Tư bản thương nghiệp là tư bản hoạt động trong lĩnh vực lưu thơng nhằm
mục đích thực hiện giá trị hàng hóa và thu lợi nhuận. Điều kiện ra đời, tồn tại
của nó là có sản xuất hàng hố và có lưu thơng tiền tệ.
Xét về mặt lịch sử, tầng lớp thương nhân (tư bản thương nhân) ra đời
trước chủ nghĩa tư bản. Thời cổ đại và trung cổ, tầng lớp thương nhân hoạt
động có đặc điểm là tách rời quá trình sản xuất và chủ yếu dựa trên cơ sở “mua
rẻ bán đắt”. C.Mác đã viết: “Chừng nào tư bản thương nhân cịn đóng vai trị
trung gian trong việc trao đổi sản phẩm giữa các cộng đồng chưa phát triển, thì
lợi nhuận thương nghiệp khơng chỉ là kết quả của việc ăn cắp và lừa đảo, mà
phần lớn chính là do những việc ăn cắp và lừa đảo đó mà ra”. 1
Thực tế lịch sử cho thấy, tư bản thương nghiệp góp phần thúc đẩy q
trình tan rã của chế độ phong kiến và thúc đẩy quá trình ra đời, phát triển của
chủ nghĩa tư bản.
b. Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản
Dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản
công nghiệp, hoạt động chuyên biệt trong lĩnh vực lưu thơng, phục vụ cho q
trình vận động của tư bản công nghiệp
Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản
công nghiệp có nhiệm vụ chuyển hố tư bản hàng hố thành tiền tệ.
Trao đổi, lưu thơng hàng hố trước đây do người sản xuất trực tiếp đảm
nhiệm, nay tách ra thành một chức năng chuyên môn của một loại tư bản riêng
và trở thành lĩnh vực đầu tư riêng biệt để phục vụ cho chức năng của tư bản
công nghiệp trong lĩnh vực lưu thơng.



1

C.Mác và Ph.Ăng ghen, Tồn tập, tập 25 phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 504


88
Là bộ phận tư bản công nghiệp tách rời ra, tư bản thương nghiệp vừa phụ
thuộc vào tư bản công nghiệp, vừa có tính độc lập tương đối. Sự phụ thuộc của
tư bản thương nghiệp vào tư bản công nghiệp là do tư bản thương nghiệp chỉ là
bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra, làm nhiệm vụ lưu thơng hàng hố, nên
số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hố đem lưu thơng là do tốc độ và quy
mô sản xuất của tư bản công nghiệp quyết định. Tính độc lập tương đối của tư
bản thương nghiệp biểu hiện ở chỗ, khi có hàng hố trong tay, bán ở đâu, cho
ai, bằng phương thức nào và giá bao nhiêu... do tư bản thương nghiệp toàn
quyền quyết định.
Mối quan hệ giữa tư bản thương nghiệp và nhà tư bản công nghiệp được
biểu hiện thông qua việc sản xuất và lưu thơng hàng hố. Cơng thức vận động
của tư bản kinh doanh hàng hoá là T - H - T’ (mua để bán), nhằm mục đích thu
lợi nhuận, gồm hai giai đoạn: T - H (mua) và H - T’ (bán).
Trong giai đoạn mua, mục đích của các nhà tư bản công nghiệp và tư bản
thương nghiệp khác nhau, nhưng có điểm chung là đều đưa tư bản tiền tệ vào
lưu thông. Với tư bản công nghiệp, biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất;
với tư bản thương nghiệp, biến tư bản tiền tệ thành tư bản hàng hố. Mối quan
hệ này thể hiện khi tư bản cơng nghiệp bán hàng hoá cho tư bản thương nghiệp
là giai đoạn chuyển hàng hoá thành tiền. Nhưng với hàng hoá, lúc này vẫn nằm
trong lĩnh vực lưu thông, mới chỉ được chuyển sở hữu của tư bản công nghiệp
sang sở hữu của tư bản thương nghiệp, nó cịn cần phải được chuyển hoá thành
tư bản tiền tệ.
Trong giai đoạn bán, tư bản hàng hoá mới thật sự chuyển thành tư bản tiền

tệ, mới được rút khỏi lĩnh vực lưu thông để đi vào lĩnh vực tiêu dùng. Khi giai
đoạn này kết thúc, sự vận động của tư bản kinh doanh hàng hố theo cơng thức
T - H - T’ cũng hồn thành. Điều đó chứng tỏ: “Tư bản thương nhân chỉ là tư
bản đang hoạt động trong lĩnh vực lưu thơng. Q trình lưu thơng là một giai
đoạn của tồn bộ quá trình tái sản xuất. Nhưng trong quá trình lưu thơng thì
khơng có một giá trị nào, do đó cũng khơng có một giá trị thặng dư nào được
sản xuất ra cả. Trong q trình lưu thơng chỉ có những thay đổi hình thái của
cùng một khối lượng giá trị mà thơi”.1

1

C.Mác và Ph.Ăng ghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tập 25, phần I, trang 425


89
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tư bản thương nghiệp có tác dụng:
- Nhờ có tư bản thương nghiệp chun trách việc lưu thơng hàng hóa,
lượng tư bản ứng vào lưu thơng và chi phí lưu thơng sẽ nhỏ hơn là khi những
người sản xuất trực tiếp đảm nhiệm chức năng này. Một tư bản thương nghiệp
có thể phục vụ sự chu chuyển của một số tư bản trong cùng một lĩnh vực sản
xuất hay trong lĩnh vực sản xuất khác nhau, làm giảm chi phí cho tư bản sản
xuất, từ đó lợi nhuận của tư bản sản xuất và lợi nhuận của tư bản thương nghiệp
đều tăng.
- Có tư bản thương nghiệp chun trách việc liên thơng hàng hóa nên
người sản xuất có thể tập trung thời gian chăm lo việc sản xuất, giảm dự trữ sản
xuất, nhờ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng lợi nhuận.
- Tư bản thương nghiệp chuyên đảm nhiệm chức năng lưu thông nên
nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, góp phần hồn thiện sản
phẩm tạo điều kiện cho tư bản sản xuất phát triển. Hơn nữa, có tư bản
thương nghiệp chun trách việc lưu thơng hàng hóa làm cho tư bản nằm

trong lĩnh vực lưu thông rút ngắn lại, tăng nhanh chu chuyển tư bản, nhờ đó
tăng tỷ suất và khối lượng lợi nhuận.
Nhìn chung, tư bản thương nghiệp đã làm cho quá trình sản xuất gắn chặt
với q trình lưu thơng, lưu thơng chỉ là một giai đoạn quá độ của sản xuất, chỉ
đơn thuần là thực hiện giá trị của sản phẩm và thay thế các yếu tố của sản xuất
đã được sản xuất ra với tư cách là hàng hoá. Việc tách chức năng lưu thơng
hàng hố thành một chức năng riêng biệt do tư bản thương nghiệp đảm nhận
vừa là một tất yếu kinh tế, vừa đem lại lợi ích cho cả tái sản xuất công nghiệp
và tư bản thương nghiệp, cũng như toàn xã hội.
1. 2. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp tư bản chủ nghĩa
a. Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp tư bản chủ nghĩa
Theo lý luận giá trị - lao động, lưu thông không tạo ra giá trị, do đó lưu
thơng cũng khơng tạo ra giá trị thặng dư. Nhưng tư bản thương nghiệp ứng tư
bản vào lưu thông cũng phải thu được lợi nhuận theo tỷ suất lợi nhuận bình
qn. Nếu khơng đạt được lợi nhuận bình quân, sẽ diễn ra sự dịch chuyển tư
bản từ lưu thơng sang sản xuất. Điều đó có nghĩa là tư bản thương nghiệp cũng
tham gia bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận.


90
Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng
hố. Nhưng điều đó khơng có nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hoá
cao hơn giá trị của nó, mà là nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp hơn
giá trị và khi bán thì họ bán đúng giá trị của hàng hố.
Vì lưu thông không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nên nguồn gốc của lợi
nhuận thương nghiệp chỉ có thể là bộ phận giá trị thặng dư do công nhân trong
lĩnh vực sản xuất tạo ra và nhà tư bản công nghiệp nhường lại cho nhà tư bản
thương nghiệp, vì đã thay nhà tư bản cơng nghiệp đảm trách khâu bán hàng
Để làm rõ nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp, có thể nêu ra ví dụ sau
(trong ví dụ này giả định khơng có các loại chi phí lưu thơng).

Một nhà tư bản cơng nghiệp có số tư bản là 800, trong đó chia thành 640c
c 4
+ 160v (  ). Giả sử tỷ suất giá trị thặng dư là 100% và tư bản cố định hao
v 1
mòn hết trong năm. Như vậy, tổng khối lượng giá trị thặng dư là 160 và tổng
giá trị sản phẩm xã hội là: 640c + 160v + 160m = 960.
Giả định tư bản công nghiệp là một thể thống nhất, chưa xét lưu thơng thì
tỷ suất lợi nhuận cơng nghiệp là: P’CN = (160/800) x 100% = 20%.
Muốn thực hiện được giá trị của hàng hóa, phải ứng thêm 200 tư bản.
Nhưng tư bản công nghiệp cần tập trung vào sản xuất nên nhường việc lưu
thơng hàng hóa cho tư bản thương nghiệp. Khi tư bản thương nghiệp tham gia
vào q trình kinh doanh thì cơng thức trên đây sẽ thay đổi. Giả dụ nhà tư bản
thương nghiệp ứng ra 200 tư bản để kinh doanh. Như vậy tổng tư bản ứng ra sẽ
là: 800 + 200 = 1000, và tỷ suất lợi nhuận bình qn giảm xuống cịn:
[160/(800 + 200)] x 100% = 16%
Theo tỷ suất lợi nhuận chung, nhà tư bản công nghiệp chỉ thu được số lợi
nhuận bằng 16% của số tư bản ứng ra (tức là 16% của 800 tư bản ứng ra bằng
128) và tư bản cơng nghiệp sẽ bán hàng hố cho tư bản thương nghiệp theo giá
800 + 128 = 928.
Nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cho người tiêu dùng đúng giá trị
của hàng hoá là 960 và thu lợi nhuận là 32 (bằng 16% số tư bản thương nghiệp
ứng ra). Như vậy, lợi nhuận thương nghiệp có được là do giá bán của thương
nhân cao hơn giá mua, nhưng không phải vì giá bán cao hơn giá trị mà là giá
mua thấp hơn giá trị hàng hố. Vì vậy, lợi nhuận thương nghiệp là hình thức


91
biến tướng của giá trị thặng dư. Nguồn gốc của nó cũng là một bộ phận lao
động khơng được trả công của công nhân làm thuê trong lĩnh vực sản xuất.
Ví dụ minh hoạ về nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp nêu trên chỉ

đúng với giả định là không có chi phí lưu thơng. Thực tế kinh doanh thương
nghiệp, thương nhân phải ứng tư bản cho cả chi phí lưu thơng (ở đây chỉ đề cập
đến chi phí lưu thơng thuần t). Giả định chi phí lưu thơng thuần t là 50;
như vậy, ngồi 800 tư bản cơng nghiệp 200 tư bản thương nghiệp ứng ra mua
hàng, còn thêm 50 tư bản chi phí lưu thơng thuần t. Vậy, tổng cộng tư bản
ứng ra là 1050. Tỷ suất lợi nhuận chung sẽ giảm xuống còn là:
(160/1050) x 100%  15,24%, chứ khơng phải là 16% nữa.
Vì vậy, lợi nhuận của tư bản công nghiệp chỉ bằng: 15,24% của 800 tư bản
ứng ra, bằng: 121,92 chứ không phải là 128 nữa, nên giá bán của tư bản cơng
nghiệp chỉ cịn là 921,92. Tương tự, tư bản thương nghiệp sẽ thu lợi nhuận
bằng 15,24% của 250 tư bản ứng ra, bằng 38,08 chứ khơng phải là 32. Cịn giá
bán hàng hố của thương nhân không phải là 960 mà là 1010, vì cịn phải cộng
cả chi phí lưu thơng thuần t vào.
b. Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp tư bản chủ nghĩa
Để tiến hành kinh doanh, các nhà tư bản thương nghiệp cũng phải mua
hàng hoá sức lao động - phải thuê nhân viên. Những nhân viên thương nghiệp
cũng là người lao động làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản thương
nghiệp, nên họ cũng bị bóc lột giống như những người lao động làm thuê khác
trong chủ nghĩa tư bản. Giá trị hàng hoá sức lao động của họ cũng do giá trị tư
liệu sinh hoạt cần thiết cho họ và gia đình họ quyết định. Giá cả hàng hoá sức
lao động của họ cũng là tiền công do nhà tư bản thương nghiệp trả. Thời gian
lao động của những người làm thuê trong lĩnh vực thương nghiệp cũng chia
làm hai phần thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư.
Thời gian lao động tất yếu là thời gian nhân viên bán được lượng hàng hoá
mà lợi nhuận thu được từ việc bán hàng đó ngang bằng với tiền cơng nhà tư
bản thương nghiệp trả cho họ. Thời gian lao động thặng dư là thời gian nhân
viên bán hàng không công cho nhà tư bản.
Nhưng ở đây có sự khác nhau giữa những người công nhân thương nghiệp
với công nhân công nghiệp làm thuê. Do lao động của công nhân thương
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, nên lao động của họ không trực tiếp



92
tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp mà chỉ tạo ra một cách
gián tiếp, nghĩa là tạo điều kiện cho tư bản thương nghiệp chiếm đoạt một phần
giá trị thặng dư trong tổng giá trị thặng dư của xã hội dưới hình thức lợi nhuận
bình quân mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho. Cụ thể, trong thời gian ngày lao
động, những công nhân làm thuê cho tư bản thương nghiệp bán được một số hàng
hố, thực hiện được một số giá trị trong đó có một bộ phận giá trị thặng dư ngang
với lợi nhuận của tư bản thương nghiệp (lợi nhuận này bằng lợi nhuận bình quân).
Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp tư bản chủ nghĩa không chỉ là kết
quả của sự bóc lột giá trị thặng dư của người lao động trong sản xuất, mà cịn là
kết quả của sự bóc lột lao động thặng dư của những người lao động thương
nghiệp thuần tuý. Lao động không được trả công của công nhân thương nghiệp
càng lớn, là điều kiện để tư bản thương nghiệp càng có thể sử dụng được nhiều
tư bản trong việc mua bán hàng hố và do đó càng thu được nhiều lợi nhuận.
Theo C.Mác: “Giống như lao động không công của công nhân trực tiếp sáng
tạo ra giá trị thặng dư cho tư bản sản xuất, lao động không công của công nhân
làm thuê trong thương nghiệp cũng làm cho tư bản thương nhân được dự chia
một phần giá trị thặng dư đó”1
2. Chi phí lưu thơng tư bản chủ nghĩa và các hình thức lưu thơng
hàng hố dưới chủ nghĩa tư bản
2.1. Chi phí lưu thơng tư bản chủ nghĩa
Những chi phí trong lĩnh vực lưu thơng gọi là chi phí lưu thơng. Tư bản
thương nghiệp khơng chỉ ứng tư bản mua hàng hố, mà cịn phải ứng ra một số
tư bản cho chi phí lưu thơng. Có hai loại chi phí lưu thơng là chi phí tiếp tục
q trình sản xuất trong lưu thơng và chi phí lưu thơng thuần t.
a. Chi phí tiếp tục q trình sản xuất trong lưu thơng
Chi phí tiếp tục q trình sản xuất trong lưu thơng là những loại chi phí
liên quan tới việc bảo vệ và di chuyển giá trị sử dụng hàng hoá làm cho giá

trị sử dụng của hàng hoá đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Ví
dụ như chi phí về bảo quản, phân loại, đóng gói bao bì, tái chế và vận
chuyển hàng hố…
Chi phí này được gọi là chi phí lưu thơng bổ sung, là chi phí mang tính
chất sản xuất giống như các hoạt động sản xuất khác. Lao động hao phí cho các
1

C.Mác và Ph.Ăng ghen, Tồn tập, tập 25, phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.446


93
hoạt động nói trên cũng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư và được nhập vào giá
trị của hàng hố.
Mặc dù vậy, cũng giống như sự hình thành giá trị hàng hố nói chung, xã
hội chỉ thừa nhận chi phí tiếp tục q trình sản xuất trong lưu thơng trung bình,
hợp lý. Cịn những chi phí q mức, có khi xa xỉ … sẽ làm tăng những hư phí
và tăng giá bán hàng hố thì xã hội khơng thừa nhận.
Nghiên cứu chi phí tiếp tục q trình sản xuất trong lưu thông nhằm thấy
rõ mối quan hệ giữa tư bản thương nghiệp và công nhân lao động thương
nghiệp làm thuê. Đó là mối quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột. Bởi lẽ, lao động
của cơng nhân thương nghiệp cũng là lao động sản xuất, cũng tạo ra giá trị và
giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp. Họ cũng bị bóc lột như cơng
nhân cơng nghiệp.
b. Chi phí lưu thơng thuần t
Chi phí lưu thơng thuần t là những chi phí trực tiếp gắn với việc thực
hiện giá trị của hàng hố. Đó là những chi phí làm chuyển tư bản từ hình thái
hàng hố sang hình thái tiền hoặc từ tiền sang hàng hố. Chi phí lưu thơng
thuần túy khơng liên quan gì tới giá trị sử dụng của hàng hoá; như chi phí để
xây cửa hàng cửa hiệu, đặt đại lý, giao dịch thư tín, sổ sách kế tốn, quảng cáo,
tiền lương cho nhân viên thương nghiệp v.v..

Loại chi phí này có đặc điểm là chúng khơng có tác động trực tiếp đến giá
trị sử dụng của hàng hoá, cho nên chúng khơng tạo thêm cho hàng hố một
chút giá trị nào. Chúng được bù lại bằng một phần của tổng số giá trị thặng dư
do lao động của công nhân trong sản xuất tạo ra. Vì vậy, dưới góc độ hàng hố
hiện vật, những chi phí lưu thơng thuần t được coi là những hư phí, khơng
những khơng tạo ra sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư, mà còn khấu trừ vào
sản phẩm thặng dư, làm cho giá trị thặng dư giảm xuống.
Chi phí lưu thơng thuần t dưới góc độ hàng hố vơ hình (những dịch
vụ), trong đó có dịch vụ thương nghiệp. Để có hàng hố vơ hình này, xã hội
cũng phải hao phí lao động q khứ và lao động sống; hơn nữa, hàng hố vơ
hình này cũng được trao đổi lấy hàng hoá hiện vật và các hàng hố vơ hình (tức
dịch vụ) khác.
Làm rõ vấn đề này, vẫn lấy thí dụ đã nêu trên và đứng trên góc độ hàng
hố hiện vật để phân tích. Để sản xuất và lưu thơng hàng hố, các nhà tư bản


94
công nghiệp phải ứng ra 640c + 160v, cộng lại bằng 800, còn các nhà tư bản
thương nghiệp phải ứng ra 200 để mua hàng hoá và 50 cho chi phí lưu thơng
thuần t. Khoản tư bản ứng ra 200 để mua hàng hoá ở dưới dạng tiền tạm ứng
và khi bán xong lại thu về. Nếu tư bản thương nghiệp mua chịu và chỉ thanh
tốn cho tư bản cơng nghiệp sau khi bán xong hàng hố thì khơng cần khoản
tạm ứng 200 này, bởi vậy khi xét hàng hoá hiện vật có thể tạm gạt khoản 200
này ra ngồi sự tính tốn giá trị của hàng hố. Cịn khoản tư bản 50 cho chi phí
lưu thơng trên danh nghĩa cũng do tư bản thương nghiệp ứng ra dưới hình thái
tiền, nhưng nó phải chuyển thành hiện vật như cửa hàng, quầy hàng, giao dịch
thư tín, sổ sách kế tốn, quảng cáo … và tư liệu sinh hoạt cho công nhân làm
thuê cho tư bản thương nghiệp. Nếu theo cấu tạo hữu cơ 4/1, thì số tư bản đó sẽ
chia thành 40 (c) và 10 (v). Trên thực tế, các nhà tư bản công nghiệp phải là
người sản xuất ra hiện vật để dùng làm các yếu tố vật chất cho hoạt động

thương nghiệp và sau khi các yếu tố này đã tiêu dùng hết sẽ phải bù đắp lại
dưới hình thái hiện vật để tiếp tục quá trình tái sản xuất.
Như vậy, tổng tư bản ứng ra dưới hình thái hiện vật gồm 800 của tư bản
công nghiệp và 50 của tư bản thương nghiệp, tổng cộng là 850. Nhưng trong
q trình hoạt động, chi phí lưu thơng thuần t khơng được chuyển sang hiện
vật, vì nó khơng liên quan gì đến giá trị sử dụng của hàng hố, do đó khơng tạo
ra sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư. Chỉ có tư bản cơng nghiệp mang lại
160 giá trị thặng dư. Giá trị tổng sản phẩm xã hội sẽ là: 850 + 160 = 1010.
Tổng số giá trị 1010 này đều chứa đựng trong giá trị sử dụng dưới hình thái
hiện vật. Nhưng 50 chi phí lưu thơng thuần t qua q trình hoạt động hao
mịn mà không chuyển sang hiện vật, nên đến cuối năm tổng giá trị của hàng
hoá dưới dạng hiện vật chỉ có 960. Để tái sản xuất giản đơn, người ta lại phải
ứng ra dưới hình thái hiện vật 640 (c) + 160 (v) cho lĩnh vực công nghiệp và 40
(c) + 10 (v) cho chi phí lưu thơng, nên giá trị thặng dư chỉ cịn 110. Với ý nghĩa
đó, C.Mác coi chi phí lưu thơng thuần t là hư phí, không những không tạo ra
sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư, mà còn khấu trừ vào sản phẩm thặng dư,
làm cho giá trị thặng dư giảm từ 160 xuống cịn 110.
Chúng ta khơng chỉ xét hàng hố hiện vật mà cịn xét cả hàng hố vơ hình,
tức dịch vụ thương nghiệp thuần tuý. Cũng như các loại dịch vụ khác, sản
phẩm của dịch vụ thương nghiệp là hàng hố vơ hình. Để có hàng hố vơ hình
này, cũng phải hao phí lao động quá khứ và lao động sống. Mặt khác, hàng hoá


95
vơ hình này cũng được trao đổi lấy hàng hố hiện vật và các loại hàng hố vơ
hình (tức dịch vụ) khác. Bởi vậy, nếu thống kê cả hàng hoá hiện vật và hàng
hố vơ hình, thì tổng giá trị hàng hố cả năm đúng là 1010 (trong đó 960 là
hàng hoá hiện vật và 50 là dịch vụ thương nghiệp). Những người được hưởng
dịch vụ thương nghiệp (nhận được hàng hố vơ hình) phải trả lại vật ngang giá
bằng hiện vật hoặc hàng hố vơ hình khác. Khi nói tổng giá cả hàng hoá bằng

tổng giá trị (theo nghĩa rộng) là phải tính cả hàng hố hữu hình và vơ hình (là
1010), chứ khơng phải là 960. Vì vậy, bán theo giá 1010 mới là đúng giá trị và
có như vậy, những người hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp mới bù đắp
được hao phí lao động của mình. Quan điểm của C.Mác về dịch vụ thương
nghiệp thuần tuý cho ta cơ sở khoa học để hiểu về các loại dịch vụ khơng sản
xuất và thấy rõ tính khoa học, tính thực tiễn của hệ thống thống kê mới ứng
dụng với kinh tế hàng hố.
2.2. Các hình thức lưu thơng hàng hố dưới chủ nghĩa tư bản
Dưới chủ nghĩa tư bản, với nhiệm vụ quan trọng là thực hiện giá trị sản
phẩm nhanh chóng trong điều kiện thị trường không ngừng mở rộng và cạnh
tranh ác liệt, thương nghiệp trở thành một mắt khâu quan trọng phục vụ cho sản
xuất cơng nghiệp. Có hai hình thức thương nghiệp chủ yếu dưới chủ nghĩa tư
bản là thương nghiệp bán buôn và thương nghiệp bán lẻ.
Thương nghiệp bán buôn gồm hai hình thức là bán bn cơng nghiệp và
bán bn thương nghiệp. Bán buôn công nghiệp là các nhà tư bản cơng nghiệp
bán bn hàng hố cho nhà tư bản thương nghiệp. Bán buôn thương nghiệp là
các nhà tư bản thương nghiệp bán bn hàng hố cho nhau.
Thương nghiệp bán lẻ là các nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cho
người tiêu dùng. Các nhà tư bản thương nghiệp không thể tuỳ tiện định ra giá
bán hàng hoá. Giá bán hàng hoá phụ thuộc vào giá cả sản xuất của hàng hố và
tỷ suất lợi nhuận trung bình.
Hiện nay, ở các nước tư bản phát triển, việc xuất hiện ngày càng nhiều các
siêu thị theo hướng tự động hoá, hiện đại, văn minh, cũng như việc mở rộng
các hình thức tín dụng tiêu dùng … đều nhằm mục đích thực hiện giá trị của
hàng hoá và mang lại lợi nhuận cho các nhà tư bản.


96
2.3. Chu chuyển của tư bản thương nghiệp
Chu chuyển của tư bản thương nghiệp là quá trình vận động của nó bắt

đầu từ khi ứng trước tư bản dưới hình thức tiền tệ cho đến khi tư bản trở về
tay nhà tư bản cũng dưới hình thức ấy với giá trị tăng thêm. Sự vận động của
tư bản thương nghiệp vẫn theo công thức T-H-T’. Trên thực tế, chu chuyển
của tư bản thương nghiệp là sự vận động tách ra của tư bản hàng hoá. Bắt
đầu bằng thương nhân mua, chuyển tiền của mình thành hàng (T-H), sau đó
là bán lại, chuyển hàng hoá ấy trở lại thành tiền (H-T) và cứ lặp đi lặp lại
như thế liên tục.
Số vòng chu chuyển của tư bản thương nghiệp trong một năm là số lần mà
sự vận động T-H-T’ lặp đi lặp lại trong năm đó. Tốc độ chu chuyển của tư bản
thương nghiệp phụ thuộc vào tốc độ và quy mô của quá trình tái sản xuất và
tiêu dùng cá nhân.
Những yếu tố tác động đến tốc độ chu chuyển của tư bản thương nghiệp
gồm thời gian chu chuyển của tư bản thương nghiệp và số vòng chu chuyển của
tư bản thương nghiệp.
Thời gian chu chuyển của tư bản thương nghiệp dài hay ngắn là tuỳ thuộc
vào tính chất của từng ngành thương nghiệp, và do đó ảnh hưởng đến số vịng
chu chuyển trong một năm nhiều hay ít. Trong cùng một ngành thương nghiệp,
chu chuyển của tư bản thương nghiệp cũng nhanh hay chậm khác nhau trong
các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh tế. Tuy vậy, kinh nghiệm cho phép
người ta tính được số vịng chu chuyển trung bình của mỗi ngành.
Số vịng chu chuyển của tư bản thương nghiệp có tác động quyết định đến
lượng tuyệt đối và tương đối của tư bản thương nghiệp cần thiết cho lưu thông.
Lượng tuyệt đối của tư bản thương nghiệp cần thiết và tốc độ chu chuyển của
nó tỷ lệ nghịch với nhau, nhưng lượng tương đối của nó, tức là tỷ số giữa nó
với tổng số tư bản, lại do lượng tuyệt đối của nó quyết định, nếu mọi điều kiện
khác vẫn như cũ.
Ví dụ, tổng tư bản là 100.000, nếu tư bản thương nghiệp chu chuyển 10
vòng một năm thì lượng tuyệt đối cần thiết của nó là 10.000 và lượng tương đối
của nó là 1/10. Nếu chu chuyển 5 vịng một năm thì lượng tuyệt đối cần thiết
của nó là 20.000 và lượng tương đối của nó là 1/5.



97
Nếu lượng tương đối của tư bản thương nghiệp là một lượng xác định thì
sự khác nhau về số vịng chu chuyển trong các ngành thương nghiệp khác nhau
sẽ không ảnh hưởng gì tới quy mơ của tổng số lợi nhuận thuộc về tư bản
thương nghiệp, cũng không ảnh hưởng gì đến tỷ suất lợi nhuận chung. Lợi
nhuận của tư bản thương nghiệp không phải do khối lượng tư bản hàng hoá mà
nhà tư bản ấy đảm nhiệm việc chu chuyển quyết định, mà do số lượng tư bản
tiền tệ được ứng ra để thực hiện việc chu chuyển đó quyết định.
Ví dụ, nếu tỷ suất lợi nhuận chung hàng năm là 15% và tư bản thương
nghiệp ứng tư bản ra là 100 đơn vị tiền tệ, khi kinh doanh trong ngành thương
nghiệp có tốc độ chu chuyển trung bình là 1 vịng/năm, thương nhân ấy sẽ bán
hàng hố của mình là 115 đơn vị tiền tệ. Nhưng khi kinh doanh trong một
ngành thương nghiệp khác có tốc độ chu chuyển tư bản trung bình là 5 vịng/
năm thì trong một năm, thương nhân ấy phải bán 5 lần 103 và doanh số cả năm
sẽ là 515 đơn vị tiền tệ, lợi nhuận trung bình thu được là 15 đơn vị tiền tệ, tức
là bằng 15% của tư bản thương nhân đã ứng ra ban đầu. Như vậy, số vòng chu
chuyển của tư bản thương nghiệp trong các ngành thương nghiệp khác nhau
ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả thương nghiệp của hàng hoá. Số tiền mà tư bản
thương nghiệp tính thêm vào giá cả tức là lượng lợi nhuận thương nghiệp tính
thêm vào giá bán của mỗi đơn vị hàng hố tỷ lệ nghịch với số vịng chu chuyển
của tư bản thương nghiệp trong các ngành thương nghiệp khác nhau.
Mối quan hệ giữa tư bản thương nghiệp và tư bản cơng nghiệp vừa có
tính độc lập ở bên ngồi vừa có tính phụ thuộc bên trong. Bên ngồi, tư bản
thương nghiệp là một ngành kinh doanh độc lập với tư bản công nghiệp.
Ngay trong cùng một lúc tư bản thương nghiệp có thể đảm nhiệm lưu thơng
hàng hố cho nhiều nhà tư bản công nghiệp khác nhau. Nhưng xét ở nội
dung bên trong thì nó vẫn bị phụ thuộc vào tư bản công nghiệp. Bởi lẽ, sự
vận động của tư bản thương nghiệp chỉ là sự thay thế sự vận động của tư bản

công nghiệp trong lĩnh vực lưu thơng nhằm thực hiện chức năng tư bản hàng
hố. Vì lẽ đó, sản xuất quyết định lưu thơng, có sản xuất mới có hàng hố để
lưu thơng.
Tính độc lập ở bên ngồi và tính phụ thuộc ở bên trong của tư bản thương
nghiệp đối với tư bản công nghiệp đã làm cho sự thống nhất giữa sản xuất và
lưu thông bị phân ra, lưu thông tách khỏi sản xuất và độc lập với sản xuất; làm


98
cho mâu thuẫn vốn có của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sâu sắc thêm. Điều đó
dẫn tới khả năng khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra.
Chu chuyển của tư bản thương nghiệp tuỳ thuộc lượng tư bản mà thương
nhân chi phối và sở trường kinh doanh của từng nhà tư bản thương nghiệp.
Nhìn chung, trong cùng ngành thương nghiệp, tư bản cá biệt nào chu chuyển
nhanh hơn tốc độ chu chuyển trung bình sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Câu hỏi ơn tập
1. Phân tích bản chất của tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản và
vai trị của nó đối với sự phát triển tư bản chủ nghĩa ?
2. Làm rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp tư bản chủ
nghĩa ?
3. Làm rõ chi phí lưu thơng tư bản chủ nghĩa và chu chuyển của tư bản
thương nghiệp ?
4. Ý nghĩa kinh tế của việc nghiên cứu tư bản thương nghiệp và lợi nhuận
thương nghiệp ?


99

Chương 8
TƯ BẢN CHO VAY VÀ LỢI TỨC CHO VAY

1. Tư bản cho vay, lợi tức và tỷ suất lợi tức
1.1. Tư bản cho vay và đặc điểm của tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản
a. Tư bản cho vay
Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ sở hữu nó cho người khác
vay trong thời gian nhất định nhằm thu lợi nhuận dưới hình thức lợi tức.
Trong lịch sử, trước khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện người cho
vay dưới hình thức cho vay nặng lãi. Gọi là cho vay nặng lãi, bởi vì lợi tức của
nó thường rất cao, chiếm tồn bộ sản phẩm thặng dư, có khi cịn chiếm thêm cả
một phần sản phẩm tất yếu của người đi vay. Lợi tức hàng năm ở Cổ La Mã tới
50%, có khi 100%; cịn thời trung cổ thì tới 100 - 200% và hơn nữa. Sự xuất
hiện cho vay trong các xã hội này, một mặt để đáp ứng yêu cầu tiêu dùng xa xỉ
của bọn chủ nô hoặc lãnh chúa phong kiến, quí tộc… Mặt khác, để đáp ứng nhu
cầu của những người nông dân, thợ thủ công, thương nhân… khi gặp hoạn nạn,
thiên tai, mất mùa, rủi ro… Vì vậy, cho vay nặng lãi đã kìm hãm sự phát triển
sản xuất và nó khơng cịn phù hợp với điều kiện của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản cho vay có bản chất hồn tồn khác, đó là
bộ phận tư bản tiền tệ trong q trình tuần hồn của tư bản cơng nghiệp tách ra
hoạt động độc lập nhằm mục đích thu lợi nhuận.
b. Đặc điểm của tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản
Dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản cho vay ra đời là do q trình tuần hồn và
chu chuyển của tư bản công nghiệp, xuất hiện bộ phận tư bản tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi như: quĩ khấu hao máy móc, thiết bị chưa đến kỳ hạn thay thế; quỹ
lương chưa đến kỳ trả ; giá trị thặng dư tích luỹ chưa đủ lớn để tư bản hố, mở
rộng sản xuất…, nhà tư bản có thể cho vay thu lợi nhuận. Cùng lúc đó, có một
số nhà tư bản khác thiếu vốn để mua sắm máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên, vật
liệu để duy trì hay mở rộng sản xuất - kinh doanh do chưa bán được hàng hố
hoặc muốn cải tiến kĩ thuật, áp dụng cơng nghệ mới, nhưng tích luỹ chưa đủ
vốn, nên xuất hiện nhu cầu đi vay.



100
Do có cung - cầu về vốn trên thị trường nên xuất hiện và ngày càng phát
triển tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản.
Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản là loại tư bản đặc biệt, khác với các
loại tư bản cơng, thương nghiệp, vì nó có những đặc điểm sau:
Tư bản cho vay là loại tư bản mà quyền sở hữu tách rời khỏi quyền sử
dụng. Cùng một tư bản, nó là tư bản sở hữu của người cho vay hay còn gọi là
tư bản tài sản và chỉ tạm thời chuyển sang tay người đi vay trong một thời gian
nhất định và phải hoàn trả lại người cho vay đúng kỳ hạn cả vốn và lãi. Đối với
người đi vay, nó là tư bản chức năng, được sử dụng để đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh nhằm tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản sử dụng. Theo C.Mác:
“Người cho vay và người đi vay, cả hai đều chi ra cùng một số tiền với tư cách
là tư bản. Nhưng chỉ trong tay người đi vay số tiền đó mới hoạt động với tư
cách là tư bản. Cùng một số tiền đã tồn tại hai lần với tư cách là tư bản đối với
hai người, thì lợi nhuận cũng khơng vì thế mà tăng gấp đơi. Số tiền đó có thể
làm chức năng tư bản với cả hai người”.1
Tư bản cho vay là một loại hàng hố đặc biệt. Bởi vì, nó cũng có giá trị
và giá trị sử dụng; cũng có kẻ bán, người mua và giá cả cũng lên xuống dưới
tác động của quan hệ cung - cầu. Nhưng nó là hàng hố đặc biệt, vì đối với
người bán khơng mất quyền sở hữu; còn đối với người mua, trong quá trình
sử dụng, cả giá trị sử dụng và giá trị đều khơng mất đi mà cịn tăng thêm.
Giá cả không do giá trị mà do giá trị sử dụng (tức khả năng tao ra lợi nhuận)
của nó quyết định.
Tư bản cho vay là loại tư bản được sùng bái nhất. Do công thức vận động
của tư bản cho vay được rút gọn lại còn T-T’, nên dễ gây cho người ta lầm
tưởng là toàn bộ sự vận động của tư bản cho vay chỉ gồm những giao dịch giữa
nhà tư bản cho vay và nhà tư bản đi vay, chứ khơng có liên quan gì với q
trình sản xuất, kinh doanh hay tuần hồn của tư bản cơng nghiệp hoặc sự bóc
lột lao động làm th. Hình như tiền tệ có thuộc tính tự nhiên là tự sinh sơi nảy

nở, tiền đẻ ra tiền. Chính cái vỏ bề ngồi đó đã thần bí hố và che dấu quan hệ
bóc lột của tư bản với lao động, nên nó được sùng bái nhất. Trên thực tế, sự vận
động của tư bản cho vay luôn gắn liền với sự vận động của tư bản công nghiệp
theo công thức đầy đủ là:
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 25, phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.540.


101

SLĐ
T-T- H

… SX — H’—T’—T’
TLSX

Trong đó, T— T và T’—T’ là các giao dịch mở đầu và kết thúc, là sự
chuẩn bị và là kết quả của quá trình tuần hồn của tư bản cơng nghiệp. Vì vậy,
tư bản cho vay vừa là biểu hiện mối quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau, vừa
biểu hiện sự liên kết thống nhất của giai cấp tư sản trong bóc lột giai cấp công
nhân làm thuê.
Dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản cho vay góp phần đẩy nhanh tốc độ chu
chuyển của tư bản xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản tiền tệ. Tư bản
cho vay còn thúc đẩy q trình tích tụ, tập trung tư bản để mở rộng sản xuất;
kích thích cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới và phân phối lại tư liệu sản
xuất, sức lao động giữa các vùng, ngành, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp
lý, hiệu quả. Từ đó, tư bản cho vay góp phần tạo ra nhiều giá trị thặng dư cho
các nhà tư bản và gián tiếp tham gia bình qn hố tỷ suất lợi nhuận.
1.2. Lợi tức và tỷ suất lợi tức trong chủ nghĩa tư bản

a. Lợi tức cho vay

Tư bản cho vay được chuyển giao cho nhà tư bản kinh doanh (tư bản công
nghiệp, thương nghiệp…) sử dụng, sau một thời gian phải hồn trả lại cho người
chủ sở hữu nó kèm theo lãi, phần lãi đó là lợi tức cho vay, ký hiệu Z.
Lợi tức là khoản tiền mà nhà tư bản kinh doanh phải trả cho người sở hữu
tư bản cho vay để được quyền sử dụng khoản tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của
người đó.
Tiền là tư bản ngay từ khi được đưa ra để cho vay thu lợi tức. Nhưng khi
tiền mới chuyển từ tay người cho vay sang tay người đi vay thì nó chưa thể tạo
ra lợi nhuận được; muốn có lợi nhuận, nó phải được đưa vào đầu tư làm tư bản
kinh doanh. Ở đây, cùng một số tiền tồn tại với tư cách là tư bản đối với cả hai
người (cho vay và đi vay) nhưng nó chỉ thật sự đưa vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh và đem lại lợi nhuận trong tay người đi vay. Trên thực tế, nhà tư
bản kinh doanh cũng chỉ thu được lợi nhuận bình quân và phải trích một phần
lợi nhuận bình qn thu được đó để trả cho nhà tư bản cho vay dưới hình thức
lợi tức cho vay. Phần lợi nhuận bình qn cịn lại là lợi nhuận doanh nghiệp của


102
nhà tư bản đi vay. Điều đó là phù hợp vì nhà tư bản kinh doanh thu được lợi
nhuận bình quân nhờ sử dụng tư bản của người khác, nên phải trả tiền thuê tư
bản của người đó.
Như vậy, bản chất lợi tức cho vay là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư
bản đi vay (tư bản kinh doanh) thu được phải trả cho nhà tư bản cho vay (tư bản
sở hữu tư bản cho vay), vì sử dụng tư bản cho vay của người đó để kinh doanh.
Sự phân chia lợi nhuận bình quân thành lợi tức cho vay và lợi nhuận
doanh nghiệp biểu thị mối quan hệ giữa hai nhà tư bản cùng có quyền lực đối
với một tư bản. Nhưng về sau, các nhà tư bản dù kinh doanh bằng vốn của
mình hay của người khác đều chia lợi nhuận thành hai bộ phận lợi tức và lợi

nhuận doanh nghiệp. Sự phân chia đó đã làm cho người ta lầm tưởng lợi tức là
kết quả tự nhiên của quyền sở hữu tư bản. Đặc biệt là khi tỷ suất lợi tức
thường được xác định trước, theo tỷ lệ tương đối ổn định, và người đi vay về
có sử dụng kinh doanh hay khơng đều phải trả lợi tức. Còn lợi nhuận doanh
nghiệp được biểu hiện ra là tiền công lao động quản lý của nhà tư bản. Chính
hình thức bề ngồi đị đã che dấu quan hệ bóc lột của tư bản với lao động, là
căn cứ để các lý luận gia tư sản bênh vực sự bóc lột của giai cấp tư sản.
b. Tỷ suất lợi tức
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức cho vay với lượng tư bản tiền tệ
cho vay trong một thời gian nhất định, thường là một năm , ký hiệu là Z’.

Z' 

z
 100%
k

Theo cơng thức trên thì lượng lợi tức (Z) mà nhà tư bản cho vay thu được
phụ thuộc vào lượng tư bản cho vay (k) và tỷ suất lợi tức (Z’) ở từng thời điểm
khác nhau.
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào các yếu
tố sau:
- Tỷ suất lợi nhuận bình quân.
- Tỷ lệ phân chia lợi nhuận bình quân thành lợi tức và lợi nhuận doanh
nghiệp. Nhưng do lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận bình quân, nên tỷ suất
lợi tức chỉ dao động trong giới hạn:

(0 < Z’ < ’).

- Quan hệ cung - cầu về tư bản cho vay. Tỷ suất lợi tức là một đại lượng

không cố định mà lên xuống dưới tác động của quan hệ cung-cầu về tư bản cho


103
vay và theo chu kỳ vận động của tư bản công nghiệp. C.Mác chỉ rõ: “Mức lợi
tức tương đối thấp phần lớn là tương ứng với thời kì phồn vinh và thời kì lợi
nhuận siêu ngạch ; … lợi tức cao lên là tương ứng với thời kì quá độ giữa
phồn vinh và cái đối lập với nó” 1, “Tỷ suất lợi tức đạt tới đỉnh cao nhất trong
các cuộc khủng hoảng, khi người ta phải đi vay với bất cứ một giá trị nào để
có thể có tiền mà thanh toán” 2 .
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, tỷ suất lợi tức có xu hướng
giảm xuống, do các nguyên nhân dưới đây:
- Do tỷ suất lợi nhuận bình qn có xu hướng giảm xuống, vì cấu tạo
hữu cơ của tư bản tăng lên nhanh chóng.
- Do cung tư bản cho vay tăng nhanh hơn cầu tư bản đi vay, do tình
trạng “tư bản thừa tương đối” (tức là tư bản không kiếm được nơi đầu tư có
lợi nhuận cao). Những nhà tư bản có tư bản tiền tệ nhưng khơng tìm được
nơi đầu tư có lợi nhuận cao, tập trung tư bản tiền tệ vào ngân hàng, làm cho
lượng tư bản cho vay tăng lên.
- Hệ thống tín dụng dưới chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển, thu hút
được hầu hết các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội vào tay các tư bản
ngân hàng và biến thành tư bản cho vay, làm cho cung vượt cầu .
Để chống lại xu hướng tỷ suất lợi tức giảm xuống, các nhà tư bản đã tăng
cường liên kết lại với nhau để bóc lột lao động làm thuê, nhằm thu nhiều lợi
nhuận hơn.
Nhà nước tư sản thấy được tỷ suất lợi tức chịu sự tác động của quan hệ
cung - cầu về tư bản cho vay, nên đã chủ động sử dụng tỷ suất lợi tức làm công
cụ để điều tiết nền kinh tế thị trường hiện đại, thông qua sự điều tiết quan hệ
cung - cầu về tiền tệ và tín dụng. Chẳng hạn, khi nền kinh tế có biểu hiện phát
triển quá “nóng”, nhà nước tăng tỷ suất lợi tức, nhằm giảm cung tư bản tiền tệ,

thu hẹp tín dụng và đầu tư. Nhưng khi nền kinh tế lâm vào đình trệ do thiếu
vốn, gây khó khăn cho kinh doanh và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ nhà
nước hạ thấp tỷ suất lợi tức cho vay, để tăng cung tiền ra thị trường, khuyến
khích mở rộng tín dụng, tăng cường đầu tư kinh doanh… Hoặc khi muốn mở
rộng hay thu hẹp một ngành, một sản phẩm hay một vùng nào đó, nhà nước

1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 25 phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.550
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 25 phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 551


104
thông qua hệ thống ngân hàng và tỷ suất lợi tức thích hợp để điều tiết, định
hướng nền kinh tế theo các chương trình kế hoạch đề ra.
2. Tín dụng tư bản chủ nghĩa, ngân hàng và vai trò của nó trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa
2.1. Các hình thức tín dụng tư bản chủ nghĩa
Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị
nhất định dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật từ chủ thể sở hữu sang chủ thể
sử dụng trong một thời gian nhất định phải hoàn trả lại cho chủ sở hữu cả
vốn lẫn lãi. Dưới chủ nghĩa tư bản, tín dụng là hình thức vận động của tư bản
cho vay, được biểu hiện dưới hai hình thức cơ bản là tín dụng thương nghiệp
và tín dụng ngân hàng.
a. Tín dụng thương nghiệp
Tín dụng thương nghiệp là hình thức tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp
kinh doanh mua, bán chịu hàng hoá với nhau.
Đối tượng đi vay và cho vay của tín dụng thương nghiệp khơng phải là
tiền tệ mà là hàng hoá, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc, thiết bị…Vì

vậy, tín dụng thương nghiệp thơng thường là ngắn hạn. Việc mua, bán chịu
hàng hoá giữa các nhà tư bản, thực chất là nhà tư bản này cho nhà tư bản kia
vay một lượng giá trị tư bản chứa đựng trong hàng hố đó, nên người cho vay
có quyền địi hỏi người đi vay (người mua hàng chịu) phải trả lợi tức cho mình
giống như cho vay tư bản tiền tệ. Lợi tức được cộng vào giá bán, nên làm cho
giá hàng hoá bán chịu cao hơn giá hàng hoá bán lấy tiền ngay. Tuy nhiên, mục
đích của việc mua, bán chịu và tín dụng thương nghiệp không phải là để thu lợi
tức mà chủ yếu là để đẩy nhanh lưu thông và thực hiện giá trị hàng hoá.
Khi mua bán chịu hàng hoá, người ta lập giấy ghi nhận nợ, trong đó có
lượng tiền nợ, những cam kết kỳ hạn và phương thức trả - nhận tiền. Những
giấy tờ này gọi là hối phiếu hay kỳ phiếu thương mại. Trong thời gian kỳ phiếu
chưa đến hạn trả tiền, người chủ kỳ phiếu có thể dùng để mua hàng hoá, thanh
toán nợ bằng cách sang tên. Nếu cần tiền mặt ngay, người chủ đem kỳ phiếu tới
ngân hàng để chiết khấu lấy tiền mặt; đến kỳ hạn, ngân hàng sẽ thu nợ ở người
mua chịu cả vốn và lợi tức. Khi ngân hàng thu về kỳ phiếu chưa đến kỳ hạn
thanh tốn, có thể dùng để cho vay hoặc dựa vào đó để phát hành giấy bạc ngân
hàng. Vì vậy, kỳ phiếu thương nghiệp được sử dụng như là tiền tệ đối với các


105
chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh tốn, tạo điều kiện đẩy
nhanh lưu thơng hàng hố và sự phát triển của nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Tuy nhiên, tín dụng thương nghiệp thường là tín dụng ngắn hạn, nên các
nhà tư bản khơng thể dựa vào nó để mở rộng đầu tư kinh doanh; hơn nữa, nhà
tư bản vẫn cần phải có tiền để trả lương cho cơng nhân, đầu tư, thanh tốn nợ
nần, chi tiêu…Vì vậy, phải dựa vào tín dụng ngân hàng mới có thể vay, gửi
được tiền để đáp ứng các nhu cầu kinh doanh thu lợi nhuận của nhà tư bản.
b. Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hành là hình thức tín dụng giữa những người có tiền cho
những người sản xuất, kinh doanh vay thông qua ngân hàng làm trung gian môi

giới. Ở đây, ngân hàng vừa đại diện cho người đi vay, vừa đại diện cho người
cho vay. Đối tượng vay, mượn của tín dụng ngân hàng là tư bản tiền tệ.
Tín dụng ngân hàng ra đời do các nguyên nhân sau:
Do yêu cầu phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển
mạnh của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy sự ra đời hoạt động của tín
dụng thương nghiệp như việc bán chịu hàng hoá giữa các nhà tư bản kinh
doanh và việc lưu thông kỳ phiếu thương mại, làm cơ sở cho tín dụng ngân
hàng phát triển; nhưng nó cũng địi hỏi phải có ngân hàng để chiết khấu các kỳ
phiếu được dễ dàng để chuyển thành tiền mặt, thúc đẩy lưu thơng hàng hóa,
phục vụ kịp thời những yêu cầu của sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, dựa trên
việc nắm giữ các kỳ phiếu thương nghiệp cùng với các khoản tiền kim khí, tiền
giấy của nhà nước, là cơ sở để ngân hàng phát hành giấy bạc ngân hàng.
- Sự phát triển của nghề kinh doanh tiền tệ là một lĩnh vực đầu tư béo bở
thu lợi nhuận cao của các nhà tư bản. Xuất phát từ thực tế, những thao tác kỹ
thuật về đổi tiền, nhận thu và thanh toán hộ tiền để hưởng hoa hồng, những
người kinh doanh tiền tệ nhận thấy ln có sự chênh lệch giữa lượng tiền gửi
vào và lượng tiền rút ra một số kết dư trong một thời gian nhất định. Từ đó họ
tìm cách dùng số tiền dư đó để cho vay thu lợi tức.
- Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển đã khắc phục được những
nhược điểm của tín dụng thương nghiệp. Tín dụng thương nghiệp hạn chế về
khối lượng giá trị hàng hố trong lưu thơng và chủ yếu là tín dụng ngắn hạn,
phạm vi hoạt động hẹp chủ yếu trong lĩnh vực thương mại, nên khó mở rộng,
phát triển được. Trong khi đó, tín dụng ngân hàng khơng bị cản trở bởi những
giới hạn đó. Vì vậy, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất


106
kinh doanh, lưu thơng hàng hố và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa.
Dưới chủ nghĩa tư bản, ngồi hai hình thức tín dụng trên, cịn phát triển

mạnh các hình thức tín dụng tiêu dùng, tín dụng nhà nước, tín dụng cầm cố, tín
dụng quốc tế.
Tín dụng tiêu dùng, là hình thức bán chịu, bán trả góp đối với hàng
tiêu dùng. Sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đã tạo ra khối lượng hàng
hoá tiêu dùng cực lớn, càng thúc đẩy cạnh tranh để tiêu thụ nhanh hàng hố
đó. Mặt khác, nhu cầu tiêu dùng của người lao động cũng tăng lên, nhưng tài
sản và thu nhập của họ lại hạn chế. Đó là điều kiện thúc đẩy tín dụng tiêu
dùng phát triển và đã được các nhà tư bản tận dụng để đẩy nhanh tốc độ bán
hàng. Tín dụng tiêu dùng nhằm tăng tốc độ chu chuyển của tư bản thương
nghiệp, đồng thời là biện pháp để tăng cường sự bóc lột của tư bản với lao
động, vừa làm tăng sự lệ thuộc của người lao động vào các nhà tư bản.
Tín dụng nhà nước, là hình thức tín dụng mà nhà nước tư sản đứng ra vay
tiền của nhân dân thông qua phát hành trái phiếu hay cơng trái. Trong q trình
hoạt động, nhà nước tư sản phải thường xuyên chi phí nhiều khoản như chi phí
quân sự để chạy đua vũ trang, chi phí để duy trì bộ máy thống trị và đàn áp
nhân dân lao động, can thiệp quân sự ở nước ngồi, viện trợ để ni dưỡng các
lực lượng tay sai… Từ đó, làm cho ngân sách nhà nước bị thâm hụt, buộc nhà
nước tư sản phải vay tiền của dân để chi tiêu.
c. Vai trị của tín dụng tư bản chủ nghĩa
Dưới chủ nghĩa tư bản, tín dụng có vai trị to lớn trong việc thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Điều đó được thể hiện trên các nội dung sau:
- Tín dụng làm giảm chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ lưu thông tiền tệ,
lưu thông hàng hố và tuần hồn chu chuyển tư bản.
Xuất hiện tín dụng, phần lớn các giao dịch được thanh tốn bù trừ cho
nhau, hoặc dùng tiền tín dụng (kỳ phiếu thương nghiệp, séc chuyển khoản) thay
thế tiền mặt. Từ đó, đẩy nhanh tốc độ lưu thông tiền tệ, giảm bớt được lượng
tiền mặt cần thiết cho lưu thông; đồng thời cũng giảm ln được các chi phí sản
xuất, bảo quản, cất trữ tiền tệ. Mặt khác, tín dụng có tác dụng đẩy nhanh các
giao dịch và lưu thơng hàng hố, làm giảm thời gian lưu thơng và các khoản chi
phí bảo quản, lưu kho của hàng hố. Từ đó đẩy nhanh tốc độ của các giai đoạn



107
chuyển hố hình thái của tư bản, dẫn đến làm tăng tốc độ tuần hoàn chu chuyển
của tư bản, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận cho nhà tư bản và
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tín dụng tạo động lực cho cạnh tranh, phân phối lại tư bản và tham gia
bình qn hố tỷ suất lợi nhuận.
Dưới chủ nghĩa tư bản, động lực của cạnh tranh là lợi nhuận. Tín dụng tạo
điều kiện mở rộng đầu tư, kích thích cải tiến kỹ thuật, áp dụng cơng nghệ mới,
tiết kiệm chi phí sản xuất và lưu thơng hàng hoá, tạo động lực cho cạnh tranh.
Mặt khác, cũng do động lực lợi nhuận đã thúc đẩy việc di chuyển tư bản từ
ngành này sang ngành khác, vùng này sang vùng khác. Nhưng nếu tồn tại dưới
hình thái tư bản sản xuất bằng hiện vật thì khó di chuyển, cịn thơng qua tín
dụng thì tư bản tiền tệ được huy động và phân phối lại một cách năng động
giữa các ngành, vùng. Vì vậy, tín dụng tạo điều kiện đẩy mạnh bình qn hố
tỷ suất lợi nhuận.
- Tín dụng là cơng cụ đẩy mạnh tích tụ mà tập trung tư bản.
Nếu để từng nhà tư bản tự tích luỹ giá trị thặng dư đến khi đủ lớn mới mở
rộng sản xuất thì sẽ phát triển rất chậm. Nhờ có tín dụng, đã nhanh chóng tập
trung được những lượng giá trị thặng dư phân tán ở nhiều nhà tư bản và huy
động được hầu hết các khoản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nhân dân để biến
thành tư bản có lượng đủ lớn để đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc xây
dựng mới ở những xí nghiệp tư bản cần thiết. Điều đó đã được các nhà tư bản
lớn lợi dụng có hiệu quả để tăng cường sức cạnh tranh, bóp chết các nhà tư bản
vừa và nhỏ. Cũng trên cơ sở đó, tín dụng tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời, phát
triển các công ty cổ phần, tập trung nhanh tư bản để đẩy nhanh việc áp dụng
khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển lực lượng sản xuất.
- Tín dụng là cơng cụ để nhà nước tư sản điều tiết nền kinh tế thị trường.
Bằng việc sử dụng các nghiệp vụ tín dụng, thanh tốn… mà hệ thống ngân

hàng có thể giám sát và nắm chắc được hoạt động của tư bản công nghiệp,
thương nghiệp và nền kinh tế. Đó là cơ sở để nhà nước có thể tác động điều tiết
nền kinh tế theo các chương trình đề ra.


108

2.2. Ngân hàng và vai trị của nó trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
a. Ngân hàng
Ngân hàng dưới chủ nghĩa tư bản là xí nghiệp kinh doanh tiền tệ, làm môi
giới giữa người cho vay và người đi vay. Hoạt động của các ngân hàng cũng
nhằm mục đích thu lợi nhuận như các loại doanh nghiệp công nghiệp, thương
nghiệp tư bản khác.
* Nguồn gốc ra đời của ngân hàng tư bản chủ nghĩa:
- Từ những thương nhân kinh doanh tiền tệ trước chủ nghĩa tư bản, họ
thực hiện các hoạt động như mua - bán vàng, bạc, đổi tiền đúc, bảo quản tiền,
thanh toán và di chuyển tiền cho tư bản công, thương nghiệp…, đồng thời nhận
gửi được lượng tư bản tiền nhàn rỗi khá lớn của xã hội. Huy động được nguồn
vốn lớn, họ tìm cách cho vay thu lợi tức. Hoạt động kinh doanh tiền tệ dưới
hình thức đi vay để cho người khác vay dần phát triển thành các ngân hàng.
- Các hội tín dụng tư bản công nghiệp, thương nghiệp lập nên. Do các nhà
tư bản cơng, thương nghiệp khơng thể kinh doanh có hiệu quả nếu dựa vào
nguồn vốn đi vay nặng lãi, muốn vậy họ phải liên kết lại với nhau để lập nên
các hội tín dụng. Cơng việc đầu tiên mà họ phải làm là đảm bảo các giao dịch
như: nhận tiền gửi và thanh tốn chuyển khoản khơng dùng tiền mặt, chiết khấu
kỳ phiếu thương nghiệp…Về sau phát triển thêm các nghiệp vụ cho vay và
kinh doanh tín dụng, từ đó trở thành ngân hàng.
* Chức năng cơ bản của ngân hàng.
Do nắm độc quyền phát hành tiền tệ và lượng lớn tư bản tiền tệ, ngân hàng
có chức năng phát hành, quản lý tiền tệ, vàng bạc và ngoại tệ. Mặt khác, ngân

hàng làm chức năng kinh doanh tư bản tiền tệ, là chủ thể trung gian giữa người
cho vay và người đi vay, biến các nguồn thu nhập và tiết kiệm của các tầng lớp
dân cư thành tư bản cho vay, làm trung gian thanh toán giữa các doanh
nghiệp…
* Nguồn vốn huy động của ngân hàng.
- Tư bản tiền tệ là vốn tự có của ngân hàng.
- Tư bản tiền tệ được huy động trong xã hội như: Tư bản tiền tệ nhàn rỗi
của các nhà tư bản công nghiệp, thương nghiệp; tư bản tiền tệ của các nhà tư
bản thực lợi; bộ phận tiền tệ của ngân sách nhà nước tạm thời chưa dùng đến;
số tiền tiết kiệm, tiền nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư.


109
Nguồn vốn của tư bản ngân hàng tồn tại dưới các hình thức: tiền mặt, gồm
tiền vàng, tiền giấy; các chứng khốn như: kỳ phiếu thương nghiệp, tín phiếu
kho bạc, trái phiếu công ty, cổ phiếu, công trái nhà nước, các văn tự cầm cố, vật
thế chấp.
Nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng.
Nghiệp vụ nhận gửi (nghiệp vụ nợ), thu hút các nguồn tiền vào quỹ của
ngân hàng, tạo nên nguồn vốn để cho vay. Nó tồn tại dưới dạng tiền gửi khơng
kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền mà người gửi
có thể rút ra bất cứ lúc nào, lợi tức thường rất thấp, thậm chí có nhà tư bản
khơng thu lợi tức, vì họ chỉ lợi dụng ngân hàng làm thủ quỹ hộ và thanh toán
các giao dịch. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền mà người gửi chỉ được rút ra sau
một thời gian nhất định, nó tạo thành nguồn vốn khá ổn định để ngân hàng cho
vay thu lợi tức; vì vậy ngân hàng phải trả lợi tức cho loại tiền gửi này theo các
mức khác nhau tuỳ từng loại thời hạn.
- Nghiệp vụ cho vay được ngân hàng thực hiện dưới nhiều dạng như
chiết khấu các kỳ phiếu thương nghiệp, cho vay có bảo đảm hoặc khơng có
bảo đảm. Ngân hàng thường cho vay dưới các hình thức như cho vay bằng

tiền mặt, phát hành séc, mở tài khoản, phát hành kỳ phiếu để cho vay. Ngày
nay, ngân hàng cịn phát triển thêm các hình thức tín dụng mới như cho thuê
tài chính, cho vay dài hạn để đầu tư trực tiếp vào các dự án kinh doanh béo
bở… Ngồi ra, ngân hàng cịn kinh doanh các hoạt động dịch vụ như chuyển
tiền, thu - chi hộ, mua - bán hộ, kinh doanh chứng khoán trên thị trường
chứng khoán…
Lợi nhuận ngân hàng: Các ngân hàng thương mại dưới chủ nghĩa tư bản là
các doanh nghiệp kinh doanh tư bản tiền tệ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, khi thực hiện nghiệp vụ nhận gửi, ngân
hàng trả lợi tức nhận gửi với người cho vay; khi thực hiện nghiệp vụ cho vay,
ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Trong đó lợi tức cho vay kinh doanh
bao giờ cũng lớn hơn lợi tức nhận gửi. Số chênh lệch giữa lợi tức cho vay và
lợi tức nhận gửi, cộng với thu nhập từ các hoạt động kinh doanh tiền tệ khác
(chuyển tiền, uỷ thác, thu hộ, kinh doanh chứng khoán…), trừ đi các chi phí
hoạt động của ngân hàng là lợi nhuận ngân hàng.
PNH = Z cho vay - Z nhận gửi +  thu nhập từ kinh doanh tiền tệ
khác - Chi phí hoạt động nghiệp vụ, lương của nhân viên và các loại thuế


110
Tỷ suất lợi nhuận ngân hàng là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận ngân hàng
thu được trong một năm với tư bản tự có của ngân hàng
P’NH =

PNN
vốn tự có của ngân hàng

 100%

Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, do cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận ngân

hàng cũng ngang bằng tỷ suất lợi nhuận bình quân. Nếu tỷ suất lợi nhuận ngân
hàng cao hơn các lĩnh vực kinh doanh khác thì tư bản ở các ngành khác sẽ
chuyển vốn đầu tư vào kinh doanh ngân hàng và ngược lại.
Lao động của nhân viên làm thuê trong lĩnh vực ngân hàng tuy không tạo
ra giá trị và giá trị thặng dư, nhưng họ cũng bị chủ ngân hàng bóc lột. Bởi vì
trong q trình làm việc, họ cũng giúp chủ ngân hàng chiếm được một phần giá
trị thặng dư do công nhân làm thuê trong lĩnh vực sản xuất tạo ra mà tư bản
công, thương nghiệp thu được phải nhượng trả cho tư bản ngân hàng- do sử
dụng tư bản tiền tệ của tư bản ngân hàng.
* Dưới chủ nghĩa tư bản có các loại ngân hàng
- Ngân hàng thương mại: Là ngân hàng cho các nhà tư bản công, thương
nghiệp kinh doanh vay vốn ngắn hạn, chủ yếu từ nguồn vốn huy động bằng tiền
gửi và hoạt động chiết khấu kỳ phiếu thương mại
- Ngân hàng cầm cố: Là ngân hàng cho vay được đảm bảo bằng tài sản,
thường là bất động sản (ruộng đất, nhà cửa, vật dụng có giá trị...). Sự ra đời và
hoạt động của loại ngân hàng này thường gắn liền với sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản trong nông nghiệp, trong đó chủ ngân hàng trực tiếp bóc lột nơng dân.
- Ngân hàng phát hành (ngân hàng Trung ương): là ngân hàng nắm độc
quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và quản lý dự trữ vàng, ngoại tệ của quốc
gia. Nó thường có quan hệ nghiệp vụ vay mượn với các ngân hàng thương mại
và kiểm soát việc cung ứng tiền và hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Ngân hàng phát hành giữ vai trò là ngân hàng của các ngân hàng.
b. Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
Dưới chủ nghĩa tư bản, ngân hàng có vai trị quan trọng đối với q trình
phát triển của nền sản xuất xã hội và nâng cao trình độ bóc lột của tư bản với
lao động làm thuê. Điều này được thể hiện trên các mặt sau:


111
Thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ và hoạt động kinh doanh, ngân

hàng góp phần làm tăng nhanh tốc độ ln chuyển vốn, giảm bớt chi phí lưu
thơng tiền tệ và đẩy nhanh tích tụ, tập trung tư bản; tạo điều kiện để tư bản lớn
chèn ép, thơn tính tư bản nhỏ, tăng cường bóc lột cơng nhân làm thuê và tước
đoạt tư liệu sản xuất của những người sản xuất nhỏ.
Do nắm được hầu hết lượng tiền mặt của xã hội và giữ vai trị mơi giới
về tín dụng, ngân hàng nắm chắc tình hình của nền kinh tế để phân phối tư
bản vào các ngành, vùng để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Vì vậy, thông
qua hoạt động của ngân hàng, nhà nước tư sản nắm được thực trạng nền kinh
tế, đề ra giải pháp phù hợp điều tiết phát triển nền kinh tế, phục vụ lợi ích
giai cấp tư sản.
Thơng qua hệ thống ngân hàng để hình thành tỷ giá hối đối thích hợp với
từng loại ngoại tệ nhằm đẩy mạnh xuất, nhập khẩu và mở rộng thị trường quốc
tế. Đồng thời, mở rộng sự liên kết, hợp tác giữa các ngân hàng trong nước với
các ngân hàng quốc tế để mở rộng các dịch vụ tiền tệ, ngoại hối, tín dụng,
thanh tốn quốc tế, di chuyển tiền, thanh toán, thu chi uỷ thác… thúc đẩy mở
rộng các quan hệ kinh tế quốc tế.
Như vậy, tín dụng, ngân hàng là những cơng cụ quan trọng đẩy mạnh sự
phát triển lực lượng sản xuất lên trình độ xã hội hố ngày càng cao. Đồng thời
cũng làm gay gắt thêm các mâu thuẫn vốn có của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa và cuộc đấu tranh để giải quyết những mâu thuẫn đó là tiền đề cho sự
ra đời một phương thức sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển cao của
lực lượng sản xuất.
* Phân biệt tư bản cho vay và tư bản ngân hàng
Tư bản cho vay

Tư bản ngân hàng

- Là tư bản tiềm thế

- Là tư bản chức năng


- Lợi tức được xác định ngay từ đầu
theo quan hệ cung – cầu

- Lợi nhuận ngân hàng vận động
theo quy luật tỷ suất lợi nhuận

- Chỉ bao gồm những tư bản nhàn rỗi
trong nền kinh tế xã hội

- Bao gồm tư bản nhàn rỗi, kim
loại q, chứng khốn có giá…


×