Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Tập 1): Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 120 trang )

TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ

GIÁO TRÌNH

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Tập I
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN
(Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội - bậc đại học)

HÀ NỘI - 2007


2

BAN BIÊN SOẠN

1. Đại tá, TS Lê Mạnh Hùng

Chủ biên, chương 1, 6

2. Đại tá, TS Nguyễn Xuân Tú

Chương 9, 11

3. Đại tá, Ths Mai Văn Thanh

Chương 2,5

4. Đại tá, Ths Đỗ Xuân Viễn


Chương 3, 4

5. Trung tá, cử nhân Cao Đức Huệ

Chương 7

6. Thượng tá, Ths Đinh Hữu Nghị

Chương 8

7. Đại tá, TS Nguyễn Văn Sự

Chương 10


3

LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy các môn khoa học
xã hội và nhân văn trong các học viện, nhà trường quân đội. Tổng cục Chính
trị tổ chức biên soạn giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tập I,
Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930 - 1975), dùng cho
đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội - bậc đại học. Giáo trình do tập thể giảng
viên Khoa Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quân sự biên soạn.
Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam được biên soạn dựa trên cơ
sở kế thừa chọn lọc những kiến thức của các bộ giáo trình trước đây, đồng thời
tiếp thu kiến thức mới của Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cấp
quốc gia xuất bản năm 2001, cập nhật những tư liệu mới, những kết luận và
tổng kết quan trọng của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
Trung ương Đảng.

Tập I: Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930 – 1975),
được hồn thành có sự tham gia đóng góp tích cực của các nhà khoa học, cán
bộ giảng dạy, đặc biệt là sự cố gắng của đội ngũ biên soạn thuộc Khoa Lịch sử
Đảng, Học viện Chính trị quân sự. Xin chân thành cảm ơn các tác giả, các nhà
khoa học trong các Hội đồng đánh giá chất lượng giáo trình, các cơ quan
chuyên trách thuộc Tổng cục Chính trị và Học viện Chính trị quân sự, Nhà
xuất bản QĐND đã tạo điều kiện thuận lợi để xuất bản giáo trình này.

TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ


4
Chương 1
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP CỦA
MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Đối tượng nghiên cứu của môn học Lịch sử Đảng
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một mơn học, có đối tượng nghiên
cứu là những quy luật về sự ra đời, phát triển của Đảng và những quy luật về
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, giai đoạn
cách mạng. Thể hiện trên các vấn đề cơ bản sau:
Một là, môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu nhóm quy
luật về sự ra đời, phát triển, trưởng thành của Đảng, (nghiên cứu về bản thân
Đảng). Nhóm quy luật này địi hỏi phải làm rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là tất yếu khách quan do nhu cầu đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp phát
triển đến độ chín muồi địi hỏi phải có Đảng lãnh đạo; làm rõ quy luật ra đời
của Đảng, đó là sản phẩm của sự kết hợp lý luận Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Quy luật đó vừa phản ánh quy
luật chung về sự ra đời của các đảng cộng sản trên thế giới, vừa phản ánh tính
đặc thù về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ở nước thuộc địa nửa

phong kiến.
Hai là, nghiên cứu làm rõ quy luật xây dựng và phát triển của Đảng qua
các thời kỳ lịch sử. Đó là quy luật xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, xây dựng bản chất giai cấp công nhân của Đảng, mối quan hệ giữa số
lượng và chất lượng đảng viên, quy luật đấu tranh tự phê bình và phê bình
trong Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ…
Ba là, môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu nhóm quy
luật về hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng. Nhóm quy luật này
yêu cầu làm rõ nội dung lãnh đạo của Đảng; con đường, biện pháp Đảng lãnh
đạo giành thắng lợi một cách nhanh nhất, có lợi nhất, đỡ tốn kém nhất. Đó là
những vấn đề có tính quy luật về nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của
Đảng qua mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng.
Tuy nhiên trong xác định đối tượng môn học cần phân biệt rõ ranh giới
lịch sử Đảng với lịch sử dân tộc, lịch sử quân sự. Mặc dù giữa chúng có mối


5
liên hệ với nhau, nhưng môn học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có đối
tượng, nhiệm vụ nghiên cứu riêng của mình, khơng trùng lặp với các chun
ngành khác trong khoa học lịch sử. Vì vậy, cần nắm vững đối tượng nghiên
cứu của từng chuyên ngành lịch sử thì mới lựa chọn được nội dung hợp lý,
đồng thời làm cơ sở mở rộng nghiên cứu sang các lĩnh vực khác thuộc ngành
lịch sử, để hỗ trợ cho việc nghiên cứu, học tập hiệu quả hơn.
2. Chức năng, nhiệm vụ của môn học Lịch sử Đảng
2.1. Chức năng của môn học Lịch sử Đảng
a) Chức năng nhận thức
Chức năng nhận thức của môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam được
biểu hiện như sau:
- Tái hiện, miêu tả, giải thích hiện thực lịch sử một cách khách quan, khoa
học, phục vụ xã hội, con người. Qua đó, giúp cho mỗi người ngày càng nhận

thức sâu sắc hơn về đường lối, chủ trương của Đảng, về những khái niệm,
phạm trù, quy luật về sự phát triển của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Thông qua nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam còn
giúp người học nhận rõ xu hướng vận động, phát triển của cách mạng Việt
Nam và xã hội Việt Nam. Học lịch sử Đảng không những giúp người học
nhận thức được quá khứ, mà còn giúp hiểu được hiện tại và dự đoán được
tương lai. Đúng như V.I.Lênin đã chỉ rõ: "Khi xem xét bất cứ một hiện
tượng xã hội nào trong q trình phát triển của nó, thì bao giờ người ta cũng
tìm thấy trong đó vết tích của quá khứ, những cơ sở của hiện tại và những
mầm mống của tương lai" 1.
b) Chức năng giáo dục
Thực hiện tốt chức năng nhận thức là cơ sở thực hiện chức năng giáo dục.
Vấn đề bao trùm, nổi bật chức năng giáo dục của môn học Lịch sử Đảng là
giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,
định hướng hành động đúng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân,

1

V. I.Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, 1974, tr. 218.


6
phục vụ các nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài. Nội dung giáo dục bao
gồm những vấn đề cơ bản sau:
- Giáo dục nâng cao sự giác ngộ sâu sắc về mục tiêu cách mạng, lý tưởng
của Đảng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân là vấn đề quan trọng
hàng đầu trong giáo dục chính trị, tư tưởng; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng, của xã hội Việt Nam.

- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính, chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ
nghĩa, chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sô vanh nước lớn; không ngừng giáo
dục chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí
Minh, giáo dục lịch sử, truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc
Việt Nam.
- Giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng, góp phần nâng cao giác ngộ
xã hội chủ nghĩa, giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, xây dựng
niềm tin tuyệt đối của quần chúng vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng của
Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nêu cao ý chí quyết
tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
2.2. Nhiệm vụ của môn học lịch sử Đảng
a) Trình bày đường lối cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, giai đoạn
cách mạng
Đây là nhiệm vụ đầu tiên, nhiệm vụ quan trọng nhất của môn học Lịch sử
Đảng. Đảng lãnh đạo cách mạng trước hết bằng đường lối, chủ trương, chính
sách lớn. Hoạch định đường lối là nội dung căn bản nhất trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo, đưa cách mạng
tiến lên. Yêu cầu trình bày nhiệm vụ này phải khách quan, khoa học, cần làm
rõ những nội dung chủ yếu sau:
- Trình bày hồn cảnh lịch sử hình thành đường lối của Đảng trong từng
thời kỳ, giai đoạn cách mạng.


7
Trình bày hồn cảnh lịch sử là dựng lại bức tranh chân thật của lịch sử;
đi sâu làm rõ tình hình, đặc điểm có liên quan, chi phối đến sự hình thành
đường lối của Đảng.
Trình bày hồn cảnh lịch sử là làm rõ căn cứ thực tiễn để Đảng vận dụng
sáng tạo lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm thế giới vào

hồn cảnh cụ thể Việt Nam để định ra đường lối, chủ trương, chính sách trong
mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng cho phù hợp.
- Trình bày q trình hình thành, phát triển, hồn thiện đường lối.
Đường lối của Đảng không phải ngay từ đầu đã đầy đủ và hồn chỉnh,
đường lối đó phải có q trình hình thành, từng bước được bổ sung, phát triển
đi đến hoàn thiện qua chỉ đạo thực tiễn. Đường lối ban đầu của Đảng có thể
đúng trên những vấn đề cơ bản, sau đó tiếp tục phát triển và ngày càng hồn
thiện. Nhưng cũng có trường hợp đường lối ban đầu đúng, nhưng phải qua một
thời gian dài mới được kiểm chứng, phát triển đi lên; có những điểm trong
đường lối ban đầu đúng, nhưng sau này không thừa kế được. Qua tổ chức thực
tiễn, tổng kết thực tiễn, đường lối đó dần được bổ sung, phát triển đi đến hoàn
chỉnh. Thực tiễn cho thấy đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được
hình thành từ Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt thơng qua tại Hội nghị
thành lập Đảng (3-2-1930); đến Luận cương chính trị (tháng 10-1930) và các
Nghị quyết Trung ương 6 (11-1939), Trung ương 7 (11-1940), Trung ương 8
(5-1941) bổ sung; đến Đại hội II (2-1951) mới hoàn chỉnh. Các đường lối cụ
thể khác của Đảng cũng diễn ra quá trình hình thành, phát triển, từ chưa hồn
chỉnh đến hồn chỉnh.
- Trình bày Đảng tổ chức thực hiện đường lối (hay còn gọi là tổ chức thực
tiễn). Quá trình tổ chức thực tiễn, biến đường lối thành hiện thực bao gồm
nhiều công đoạn xen kẽ lẫn nhau như công tác tư tưởng, công tác tổ chức, phát
động các phong trào quần chúng. Đảng lãnh đạo toàn diện các mặt của đời
sống kinh tế, xã hội. Đảng lãnh đạo, Nhà nước cụ thể hố đường lối bằng pháp
luật, chủ trương, chính sách cụ thể. Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, thực hiện sự kiểm tra của mình đối với Nhà nước
và các tổ chức chính trị xã hội, qua đó kịp thời phát hiện, uốn nắm những lệch


8
lạc, phát hiện những nhân tố mới, những kinh nghiệm mới bổ sung và hồn

chỉnh đường lối.
b) Trình bày phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo
của Đảng
Trong tiến trình cách mạng nếu chỉ một mình đội tiền phong của giai cấp
cơng nhân khơng thể hồn thành được nhiệm vụ của đội tiền phong. Muốn
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, Đảng phải biết tổ chức, phát động đông đảo
quần chúng đứng lên đấu tranh theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Đồng thời,
Đảng nhận thức rõ vai trị quần chúng nhân dân trong lịch sử, ln quán triệt
quan điểm "lấy dân làm gốc" trong mọi hoạt động lãnh đạo của mình. Sức
mạnh của quần chúng nhân dân chỉ được phát huy khi quần chúng được tổ
chức lại, được giáo dục và có sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng. Nếu khơng được
tổ chức lại thì quần chúng dù là đông đến đâu cũng không thể phát huy được
sức mạnh. Trình bày phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo
của Đảng gồm những vấn đề sau đây:
- Trình bày quá trình Đảng đã vận động, tuyên truyền, giáo dục và tổ chức
quần chúng thông qua việc đề ra nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh sát hợp với
nguyện vọng, khả năng của quần chúng với nhiều hình thức tổ chức phong
phú, đa dạng phù hợp với tình hình trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử.
- Trình bày phong trào cách mạng quần chúng đúng với hoàn cảnh lịch sử
diễn ra đi từ thấp đến cao, có khi đạt tới cao trào cách mạng, nhưng cũng có
lúc tổn thất, mất mát, thậm chí có khi thối trào, nhưng cuối cùng sẽ đi đến
thắng lợi hồn tồn.
- Qua phong trào cách mạng tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa Đảng và
quần chúng. Có Đảng lãnh đạo, giúp cho phong trào quần chúng hành động có
mục đích, có tổ chức, đó là phong trào tự giác của quần chúng, có sức mạnh vơ
địch. Ngược lại, quần chúng không chỉ là người thực hiện đường lối của Đảng,
mà cịn góp phần vào sự tổng kết, bổ sung phát triển đường lối của Đảng. Ví
dụ đường lối đổi mới do Đại hội lần thứ VI của Đảng khởi xướng được hình
thành từ phong trào và sáng kiến của quần chúng, được Đảng tổng kết đúc rút
thành đường lối, đó là sự tương đồng giữa ý Đảng và lịng dân. Làm rõ sự lãnh

đạo của Đảng, đồng thời cũng phải làm rõ vai trò của quần chúng nhân dân


9
trong lịch sử. Quần chúng và phong trào cách mạng của quần chúng ln có
những đóng góp quan trọng vào cơng tác xây dựng Đảng.
c) Trình bày nhiệm vụ xây dựng Đảng qua các thời kỳ, giai đoạn cách
mạng
Nhiệm vụ này địi hỏi phải trình bày lịch sử xây dựng Đảng về chính trị,
tư tưởng, tổ chức, đảm bảo cho Đảng ln ngang tầm với địi hỏi của đất nước,
thời đại. Nội dung đó bao gồm những vấn đề sau đây:
- Trình bày quá trình hình thành, phát triển và hoàn chỉnh đường lối trong
mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng; quá trình hình thành, củng cố các tổ chức
đảng; trình bày những bài học kinh nghiệm về xây dựng Đảng qua các thời kỳ,
giai đoạn cách mạng.
- Lịch sử xây dựng Đảng ta là lịch sử xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì vậy, trình bày nhiệm vụ xây
dựng Đảng phải bắt đầu từ nhiệm vụ chính trị của Đảng trong mỗi thời kỳ, đó
là căn cứ để Đảng đặt ra yêu cầu về xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị đặt ra. Trên cơ sở đó,
trình bày sự phát triển nhận thức, thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm xây dựng
Đảng kiểu mới Mác - Lênin ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến đi lên chủ
nghĩa xã hội.
d) Trình bày kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng qua từng thời kỳ, giai đoạn
lịch sử và bài học kinh nghiệm tổng quát của cách mạng Việt Nam
Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng được khái quát từ thực tiễn phong trào
cách mạng của quần chúng và thực tiễn xây dựng Đảng qua các thời kỳ lịch sử.
Nó có giá trị to lớn trong cơng tác lãnh đạo của Đảng và rèn luyện đội ngũ
đảng viên. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Cần phải nghiên cứu
kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát

triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ, dồi dào thêm"1.
Trong lịch sử Đảng trình bày kinh nghiệm là một nhiệm vụ hết sức quan
trọng, được tổng kết ở các cấp độ khác nhau:
Cấp độ thứ nhất: Là kinh nghiệm lịch sử của từng thời kỳ, thường xuất
phát từ diễn biến, sự kiện lịch sử để tổng kết thành những kinh nghiệm. Cấp độ
1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 417.


10
thứ hai: Là bài học lịch sử được tổng kết ở trình độ cao hơn thành những vấn
đề mang tính quy luật, những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam. Cấp độ
này tổng kết những bài học kinh nghiệm tổng quát của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Trình bày quá trình hình thành nên những kinh nghiệm, có kinh nghiệm
chỉ diễn ra trong một thời kỳ lịch sử nhất định, nhưng cũng có kinh nghiệm
được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhiều thời kỳ lịch sử.
Trình bày kinh nghiệm phải hết sức khách quan, tránh phương pháp lựa
chọn sự kiện gượng ép "gọt chân cho vừa giầy". Vì vậy, khi trình bày phải tơn
trọng sự thật lịch sử, trong đó có cả kinh nghiệm thành cơng, cả kinh nghiệm
sai lầm, thiếu sót.
- Cần phân biệt giữa lý luận và kinh nghiệm. Lý luận định hướng hoạt
động thực tiễn, còn kinh nghiệm được nghiên cứu, khái quát từ thực tiễn trên
cơ sở lý luận gắn với hoạt động thực tiễn. Vì vậy, khi vận dụng kinh nghiệm
phải tính đến hiệu quả thiết thực. Có những kinh nghiệm đúng với thời kỳ
này, đúng với nước này, nhưng sẽ là sai lầm khi vận dụng máy móc vào thời
kỳ khác, nước khác.
3. Nguyên tắc, phương pháp của mơn học Lịch sử Đảng
3.1. Ngun tắc tính đảng, tính khoa học

Nắm vững nguyên tắc tính đảng, tính khoa học có ý nghĩa to lớn, quyết
định chất lượng, hiệu quả nghiên cứu, giảng dạy, học tập lịch sử của Đảng.
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ đạo mọi hoạt động nghiên cứu, giảng
dạy, học tập lịch sử Đảng.
- Tính đảng trong khoa học Lịch sử Đảng địi hỏi phải đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân để xem xét, đánh giá khách quan, trung thực các
sự kiện, q trình lịch sử, phục vụ cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động, đấu tranh triệt để chống các quan điểm cơ hội, xét lại dưới mọi màu
sắc; bảo vệ Đảng, sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đúng như V.I.Lênin đã chỉ
rõ: "Tính phi đảng trong xã hội tư sản chỉ là biểu hiện giả dối, che đậy, tiêu cực
của tình trạng đứng trong đảng của những kẻ no bụng, đứng trong đảng của


11
bọn thống trị, đứng trong đảng của bọn bóc lột… Tính phi đảng là tư tưởng tư
sản. Tính đảng là tư tưởng xã hội chủ nghĩa"1.
Tính đảng nói chung là sự thể hiện tập trung của tính giai cấp, tuy nhiên
cần phân biệt tính đảng trong nghiên cứu khoa học, trong cơng tác tun
truyền, giảng dạy và tính đảng trong sinh hoạt Đảng.
- Tính khoa học, là sử dụng các phương pháp khoa học để phản ánh khách
quan, trung thực các sự kiện lịch sử, quá trình lịch sử của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tính khoa học trong lịch sử Đảng đòi hỏi phải tuân thủ phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, nguyên tắc,
phương pháp luận sử học mácxít để trình bày khách quan trung thực về lịch sử
hình thành, phát triển, tồn tại của Đảng; về hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cách
mạng của Đảng qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử.
Tính đảng và tính khoa học là hai phạm trù khác nhau, nhưng giữa chúng
có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Vì lợi ích giai cấp, dân tộc và của Đảng, đòi hỏi khoa học Lịch sử Đảng

phải nghiên cứu, phản ánh sự thật lịch sử. Tìm ra quy luật vận động, phát triển
của lịch sử và hành động theo quy luật đó. Mặt khác, mục đích khoa học cũng
phải tìm ra sự thật lịch sử, quy luật lịch sử. Do đó, tính khách quan, trung thực
chẳng những là biểu hiện của tính khoa học mà cịn là sự biểu hiện cao nhất
của tính đảng.
Tuy vậy, tính đảng và tính khoa học cũng có sự khác nhau nhất định,
không thể đồng nhất là một. Tính đảng, tính khoa học thống nhất với nhau đều
là phản ánh trung thực, khách quan lịch sử. Nhưng khác nhau ở hình thức vận
động của tính đảng, tính khoa học và được thể hiện qua năng lực chủ quan của
mỗi nhà khoa học, mỗi tổ chức chính trị xã hội. Do đó, để đảm bảo sự thống
nhất ngày càng cao giữa tính đảng, tính khoa học địi hỏi mỗi người, mỗi tổ
chức khơng ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt, giữ vững lập trường giai cấp
cơng nhân.

1

V.I.Lênin, Tồn tập, tập 12, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr. 165.


12
Nắm vững tính đảng, tính khoa học giúp cho việc nghiên cứu, dạy - học
lịch sử Đảng có tính định hướng chính trị đúng đắn, khơng tuỳ tiện, phiến diện,
chủ quan. Đồng thời với việc nắm vững tính đảng, tính khoa học, phải nắm
vững nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tiễn, lịch sử gắn với hiện thực v.v.
3.2. Phương pháp môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Lịch sử Đảng là một khoa học, thuộc môn lý luận Mác - Lênin, vì vậy
phương pháp nghiên cứu, dạy - học phải dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, dựa trên cơ sở những phương pháp
chung của các khoa học xã hội và nhân văn. Đồng thời, khoa học Lịch sử Đảng
là bộ phận của khoa học lịch sử, do đó, phải tn theo phương pháp luận sử

học Mác xít. Trong đó, phương pháp chủ yếu nhất là phương pháp lịch sử,
phương pháp lơgíc và sự kết hợp hai phương pháp đó với nhau.
Phương pháp lịch sử, là phương pháp nghiên cứu các sự kiện lịch sử, quá
trình lịch sử trong bối cảnh lịch sử, theo trình tự thời gian lịch sử, trong quá
trình vận động, phát triển và mối quan hệ biện chứng với nhau. Phương pháp
lịch sử yêu cầu làm rõ quá trình phát sinh, phát triển và hình thức vận động của
mỗi sự kiện lịch sử, quá trình lịch sử và mối liên hệ của chúng với các sự kiện,
quá trình lịch sử khác, đồng thời phân biệt được sự khác nhau giữa các sự kiện,
quá trình lịch sử.
Phương pháp lơgíc, là phương pháp nghiên cứu các sự kiện lịch sử, quá
trình lịch sử dưới hình thức lý luận trừu tượng, khái quát thành những nguyên
lý lý luận, nhằm chỉ rõ bản chất, quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng. Thông qua các sự kiện lịch sử, quá trình lịch sử để tìm ra bản chất, quy
luật phát triển của sự vật, hiện tượng, để tìm ra chân lý khoa học.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc là hai phương pháp khác nhau,
nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau, được sử dụng nhằm tìm ra chân lý
khách quan sự phát triển của lịch sử. Do đó, để nghiên cứu, dạy - học mơn lịch
sử Đảng có chất lượng, hiệu quả cao phải kết hợp chặt chẽ hai phương pháp đó
với nhau. Theo Ph.Ăngghen, Phương pháp lơgíc chẳng qua cũng là phương
pháp lịch sử, có điều là đã thốt khỏi hình thái lịch sử và khỏi những hiện
tượng ngẫu nhiên gây trở ngại mà thơi. Lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy cũng
bắt đầu từ đó và sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự phản ánh quá
trình lịch sử dưới một hình thức trìu tượng và nhất quán về lý luận.


13
Cùng với phương pháp lịch sử, phương pháp lơgíc và sự kết hợp hai
phương pháp đó trong khoa học Lịch sử Đảng, còn sử dụng các phương pháp
khác như: Phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp lịch đại, đồng đại,
phương pháp khảo sát thực tiễn v.v.. để nâng cao chất lượng nghiên cứu, dạy học lịch sử Đảng. Thông thường các phương pháp trên được kết hợp, sử dụng

trong từng chương, từng phần, nhưng tuỳ theo từng nội dung cụ thể có thể sử
dụng các phương pháp cụ thể khác nhau phải rất uyển chuyển, linh hoạt, không
cứng nhắc. Do vậy, nghiên cứu, dạy - học lịch sử Đảng mới sinh động, chất
lượng hiệu quả mới cao.

CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích đối tượng, nhiệm vụ của khoa học Lịch sử Đảng trong dạy học và nghiên cứu ?
2. Trình bày phương pháp của mơn học Lịch sử Đảng và những vấn đề
vận dụng vào học tập, giảng dạy lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ?


14
Chương 2
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ
XX
1.1. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
Sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược, cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa và bình định
nước ta.
Về kinh tế, để bóc lột được lợi nhuận thuộc địa tối đa, thực dân Pháp duy
trì phương thức sản xuất phong kiến, thiết lập một cách hạn chế phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chúng thực hiện chính sách độc quyền về kinh tế:
xuất nhập khẩu, khai thác mỏ, giao thơng vận tải, ngân hàng, tài chính, muối,
rượu, thuốc phiện, chiếm đất lập đồn điền, lập ra hàng trăm thứ thuế vơ
lý...Chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tuỷ, khiến cho nhân dân ta ngày
càng nghèo khổ, nước ta xơ xác, tiêu điều, nền kinh tế của Việt Nam bị kìm
hãm trong vịng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.
Về chính trị, chúng tiếp tục chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp
nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người

Pháp, từ Toàn quyền Đông Dương, Thống đốc Nam Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ,
Thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà
án...biến vua quan Nam Triều, tư sản mại bản thành bù nhìn, tay sai đắc lực.
Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu
tranh của nhân dân ta trong biển máu, chúng tiếp tục thi hành chính sách chia
để trị rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng
và nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đơng
Dương thuộc Pháp, xố tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và
thù hận giữa Bắc, Trung, Nam; giữa các tơn giáo, các dân tộc, các địa phương,
thậm chí giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo
Đơng Dương.
Về văn hố, chúng thi hành triệt để chính sách văn hố nơ dịch, gây tâm
lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại
tục, du nhập “văn hoá thực dân”. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều
bị cấm đốn. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền
văn hố tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để


15
dễ bề thống trị. Tuy nhiên, chúng khơng thể hồn toàn ngăn chặn được trào lưu
tư tưởng tiến bộ và những tri thức khoa học - kỹ thuật mới tràn vào Việt Nam.
Những chính sách trên của thực dân làm cho xã hội Việt Nam thay đổi từ
một xã hội phong kiến độc lập trở thành một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Về cơ cấu xã hội, bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông
dân đã tồn tại từ lâu, xuất hiện giai cấp công nhân, giai cấp tiểu tư sản thành thị
và giai cấp tư sản, với sự phân hoá giai cấp ngày càng sâu sắc hơn.
Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản
thực dân vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn khơng xố bỏ
mà vẫn bảo tồn và duy trì giai cấp địa chủ phong kiến để làm cơ sở cho chế độ
thuộc địa. Tuy nhiên, do chính sách kinh tế và chính trị phản động của thực

dân Pháp, giai cấp địa chủ càng bị phân hoá khá rõ rệt: đại địa chủ thành tay
sai đế quốc; trung, tiểu địa chủ cũng bị chèn ép về quyền lợi. Vốn sinh ra và
lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu nước, chống ngoại
xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế nên một
bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ khơng chịu nỗi nhục mất nước, có
mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống
thực dân và bọn phản động tay sai.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa
chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã bị bọn tư
bản thực dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền về kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô
cao, thuế nặng, chế độ cho vay nặng lãi… của đế quốc và phong kiến đã đẩy
nông dân vào con đường bần cùng hố, khơng lối thốt. Một số ít bán sức lao
động, làm thuê trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi làm phu tại
các thuộc địa khác của đế quốc Pháp. Còn số đông vẫn phải gắn với đồng
ruộng và gánh chịu sự bọc lột vô cùng nặng nề ngay trên mảnh đất mà trước
đây là sở hữu của chính họ.
Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nơng dân có mâu thuẫn với đế quốc
và phong kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ
vừa có yêu cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về
độc lập dân tộc là bức thiết nhất. Giai cấp nông dân có truyền thống đấu tranh
kiên cường bất khuất là lực lượng to lớn nhất, một động lực cách mạng mạnh
mẽ. Nông dân không thể lãnh đạo được cách mạng, nhưng khi được tổ chức lại
và có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, họ sẽ phát huy vai trò


16
cực kỳ quan trọng của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân
tộc Việt Nam.
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một

tầng lớp nhỏ bé. Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt.
Ra đời trong điều kiện bị tư sản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số
lượng tư sản Việt Nam không nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị
yếu đuối. Giai cấp tư sản Việt Nam phân làm hai bộ phận: tư sản mại bản và tư
sản dân tộc.
Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao
thầu những cơng trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có
đồn điền lớn hoặc có nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tơ. Vì có quyền lợi
kinh tế và chính trị gắn liền với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng
lớp đối lập với dân tộc.
Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm tư sản
loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công
nghiệp và cả tiểu thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của
dân tộc Việt Nam, nhưng do chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp
nên không thể phát triển được. Xét về mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản
dân tộc phải chịu số phận mất nước, có mâu thuẫn về quyền lợi với bọn đế
quốc thực dân và phong kiến, nên họ có tinh thần chống đế quốc và phong
kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách mạng khơng thể thiếu trong
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Mặt khác, họ có thái độ cải lương.
Họ khơng có khả năng lãnh đạo dân tộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến
giành độc lập dân tộc, dân chủ tự do và giải phóng người lao động khỏi áp bức
bóc lột.
Giai cấp tiểu tư sản bao gồm tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ cơng, viên
chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do. Giữa những
bộ phận có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn chung địa vị
kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn bị đe doạ phá sản, thất nghiệp. Họ có tinh
thần yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột và khinh
rẻ nên rất hăng hái cách mạng. Đặc biệt, tầng lớp trí thức rất nhạy cảm với thời
cuộc, dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết bảo
vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào công nông



17
đã thức tỉnh, họ bước vào trận chiến đấu dân tộc ngày một đơng đảo và đóng
một vai trị quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô
thị. Giai cấp tiểu tư sản là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu
tranh vì độc lập, tự do của dân tộc.
Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc
địa của Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm
giữ. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp ở nước ta,
giai cấp cơng nhân đã hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai,
giai cấp công nhân đã phát triển nhanh chóng về số lượng. Tuy cịn non trẻ, số
lượng ít (chỉ chiếm khoảng 1% số dân), trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng
cơng nhân sống tập trung tại các thành phố, các trung tâm công nghiệp và các
đồn điền.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công
nhân quốc tế, đồng thời cịn có những đặc điểm riêng của mình như: phải chịu
ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ; phần lớn vừa
mới từ nơng dân bị bần cùng hố mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt
với nơng dân. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân
tộc, nên nội bộ thuần nhất, không bị phân tán về lực lượng và sức mạnh. Sinh
ra và lớn lên ở một đất nước có nhiều truyền thống văn hoá tốt đẹp, nhất là
truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa văn
hoá tiên tiến của thời đại mới để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện
cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh
thần cách mạng triệt để. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ và khi liên
minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc
cho khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được
tổ chức lại và hình thành được một đảng tiền phong cách mạng, được vũ trang

bằng một học thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp
cơng nhân thực sự trở thành người lãnh đạo cách mạng.
Chính sách thống trị của Pháp và bọn tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến: mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nhân dân
Việt Nam, chủ yếu là giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Mâu
thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với bọn thực dân Pháp và


18
bè lũ tay sai đắc lực nhất. Độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu
cơ bản của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến, nhưng độc lập dân tộc
là yêu cầu chủ yếu trước mắt, phản ánh nguyện vọng bức thiết của các tầng
lớp, giai cấp trong dân tộc.
1.2. Phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX
a. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
Ngay từ khi thực dân Pháp vào xâm lược nước ta, với tinh thần yêu nước
nồng nàn, bất chấp chủ trương đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân dân ta
đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Chúng đã vấp phải một phong trào
đấu tranh vũ trang quyết liệt và kéo dài, dưới ngọn cờ của các sĩ phu u nước.
Ngày 5-7-1885, phái kháng chiến cịn sót lại trong triều đình Huế do Tơn
Thất Thuyết dẫn đầu đánh đồn Mang Cá và toà Khâm sứ Trung Kỳ. Bị thất
bại, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra vùng núi Quảng Trị. Ngày 13-71885, nhà vua xuống chiếu “Cần Vương”. Phong trào “Cần Vương” nhanh
chóng lan ra nhiều địa phương ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ và cả Nam Kỳ. Ngày 1-111888, vua Hàm nghi bị Pháp bắt. Phong trào “Cần Vương” còn kéo dài cho
đến khi cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng thất bại (1896).
Trong thời gian này, cũng diễn ra các cuộc khởi nghĩa của nông dân
chống Pháp ở khắp các miền đất nước. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất, tiêu biểu cho
ý chí chiến đấu bất khuất, kiên cường, bền bỉ của nông dân Việt Nam là cuộc
khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Thực dân Pháp đã bốn lần

dùng lực lượng lớn tiến công Yên Thế, nhưng đều bị nghĩa quân đánh bại. Chỉ
sau khi Hoàng Hoa Thám hy sinh (10-3-1913), cuộc khởi nghĩa Yên Thế kéo
dài 30 năm (1883-1913) mới kết thúc.
Sự thất bại của phong trào “Cần Vương” và phong trào yêu nước của
nông dân trong thời kỳ này đã chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến
trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
b. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài,
chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp, giành độc lập dân tộc, thành lập một nhà
nước theo mơ hình qn chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy Tân
(1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908). Chủ trương dựa vào đế quốc
Nhật để chống Pháp không thành, ông về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó


19
Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc bùng nổ và thắng lợi (1911). Ông về
Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912), từ bỏ lập trường quân
chủ lập hiến, chuyển sang lập trường dân chủ tư sản với chủ trương võ trang
bạo động đánh đuổi giặc Pháp, thành lập Cộng hồ dân quốc Việt Nam. Ơng
có cảm tình với nước Nga Xô Viết, chủ nghĩa xã hội và có ý đặt hy vọng vào
Nguyễn Ái Quốc.
Con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã không thành công. Trong bản
hồi ký cuối đời ông viết: “Than ôi! Cuộc đời của tôi là một trăm thất bại mà
không một thành công”.
Phan Châu Trinh là nhà yêu nước dân chủ nhiệt thành. Ông kịch liệt tố
cáo bọn quan lại phong kiến sâu mọt, kết tội vua bù nhìn Khải Định và tố cáo
tội ác của thực dân Pháp. Ông chủ trương dùng những cải cách văn hố, mở
mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa
trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho đất nước giàu mạnh lên, buộc thực dân
Pháp phải trao trả độc lập cho Việt Nam. Ở Bắc Kỳ có việc mở trường học,

giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là
trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội. Ở Trung kỳ có cuộc vận động Duy
Tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh
chống thuế (1908). Phan Châu Trinh phản đối bạo động và muốn dựa vào Pháp
để chống phong kiến. Dù là cải lương, ông vẫn bị thực dân Pháp bắt giam, đày
đi Côn Đảo. Con đường cứu nước của cụ Phan Châu Trinh cũng nhanh chóng
thất bại.
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh có điểm giống nhau là chưa tiếp cận
được xu thế của thời đại mới, do đó khơng tìm ra con đường cứu nước mới,
con đường giành độc lập triệt để cho nhân dân lao động làm chủ đất nước, lấy
sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhưng lịng u nước và gương hoạt động của
hai cụ Phan đã cổ vũ cho nhân dân ta qua nhiều thế hệ.
Phong trào cách mạng quốc gia tư sản (1927-1930) gắn liền với sự ra đời
và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn đảng này
là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn
Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất cho
khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản,
địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp. Về tư tưởng, họ mô
phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tơn Trung Sơn. Về chính trị, họ chủ


20
trương đánh đuổi đế quốc, xoá bỏ chế độ vua quan, thành lập chính thể dân
quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ
chức, họ chủ trương xây dựng các cấp từ trung ương đến cơ sở, nhưng cũng
chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất.
Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát
tên trùm mộ phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng
bố phong trào yêu nước. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất.
Trong tình thế hết sức bị động, các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng quyết

định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận chiến đấu cuối cùng với tư tưởng
“không thành công cũng thành nhân”. Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên
Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái với cuộc tiến cơng trại lính Pháp của
qn khởi nghĩa. Ở một số địa phương như Thái Bình, Hải Dương… cũng có
những hoạt động phối hợp.
Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị
thực dân Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng
cùng hàng nghìn chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Vai trị của Việt
Nam Quốc dân Đảng trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam chấm
dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Mặc dù bị thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm
cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu
nước, nhất là lớp thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa một con đường cứu
nước mới.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), tính chất thời đại thay đổi, đòi
hỏi con đường giải quyết mâu thuẫn xã hội phải thay đổi và giai cấp lãnh đạo
cách mạng cũng phải thay đổi.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước
đã diễn ra sâu sắc, trầm trọng trên đất nước ta. Các con đường cứu nước đều
thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo và đường lối cách mạng không phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại mới và nguyện vọng của đa số quần chúng
nhân dân. Việc tìm lối ra cho cuộc khủng hoảng là nhu cầu nóng bỏng nhất của
nhân dân ta lúc bấy giờ.


21
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng
2.1. Quá trình tìm kiếm con đường cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở Kim Liên, huyện Nam Đàn,

tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn
Tất Thành. Lớn lên giữa lúc nước mất, nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than
của đồng bào, Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải
phóng dân tộc. Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời đất nước ra đi tìm
đường cứu nước.
Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua những bước
ngoặt lớn trên lộ trình tìm đường cứu nước.
Nguyễn Ái Quốc sớm nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời.
Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Hoàng Hoa Thám…, nhưng không đồng ý đi theo con đường của một
người nào. Trong khi nhiều người còn ngưỡng mộ cách mạng tư sản, Nguyễn
Ái Quốc với nhãn quan chính trị sắc bén, đã vượt qua sự hạn chế tầm nhìn của
họ, quyết chí ra đi tìm con đường cứu nước mới.
Với tên gọi Nguyễn Văn Ba, Người đã qua nhiều quốc gia trên thế giới,
nhất là các nước tư bản phát triển. Một cuộc khảo sát có một khơng hai ở Mỹ,
Anh, Pháp đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhận ra là ở đâu cũng có hai loại người:
người giàu và người nghèo, người áp bức và người bị áp bức. Càng ngày
Người càng hiểu sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa đế quốc.
Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh Châu Phi, tận mắt trông thấy
những cảnh khổ cực, chết chóc của người da đen dưới roi vọt của bọn thực
dân, Nguyễn Ái Quốc nghĩ: đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc
địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu.
Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Ái Quốc tới nước Mỹ. Cuối năm 1913,
Người từ Mỹ sang Anh và cuối năm 1917 trở về Pháp. Người dành một phần
thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập,
nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ (1776), Cách mạng tư sản Pháp (1789), đồng
thời tham gia đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao
động thuộc đủ các màu da. Người nhận thấy các cuộc cách mạng tư sản Mỹ và
Pháp là “những cuộc cách mạng chưa đến nơi” vì quần chúng nhân dân vẫn
đói khổ.



22
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), các nước đế quốc
thắng trận họp Hội nghị Véc-xây (1919) để phân chia quyền lợi. Tại Hội nghị,
Tổng thống Mỹ Uynxơn (Wilson) đưa ra chương trình 14 điểm với chiêu bài
dân tộc tự quyết để tranh giành ảnh hưởng thuộc địa với các đế quốc khác.
Thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đưa đến Hội
nghị bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của dân
tộc Việt Nam. Bản yêu sách đó khơng được Hội nghị Vécxây đáp ứng, nhưng
được báo chí tiến bộ Pháp cơng bố rộng rãi và gây ảnh hưởng chính trị vang
dội. Đó là địn tiến công trực diện đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc vào bọn trùm
đế quốc. Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận quan trọng là:
những lời tuyên bố dân tộc tự quyết của bọn đế quốc chỉ là trò bịp bợp; các dân
tộc bị áp bức muốn được độc lập tự do thực sự, trước hết phải dựa vào lực
lượng của bản thân mình, phải tự mình giải phóng cho mình. Đầu năm 1919,
Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ hồi bấy giờ,
Người có dịp tiếp xúc, hoạt động với nhiều nhà chính trị nổi tiếng ở Pháp.
Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu và hoạt động trong phong trào công nhân, liên lạc và
cùng hoạt động với nhiều nhà cách mạng ở nhiều thuộc địa Pháp.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị lớn
nhất của thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại
thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản.
Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái
Quốc ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó và kính phục Lênin. Người đã tham gia
nhiều cuộc vận động ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng. Tháng
3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba) ra đời, có ảnh hưởng lớn đến
phong trào cách mạng thế giới. Năm 1920, cuộc đấu tranh giữa hai con đường
diễn ra quyết liệt trong nhiều đảng công nhân và ngay trong Đảng Xã hội

Pháp: tiếp tục theo Quốc tế thứ hai tức là tiếp tục con đường cải lương hay đi
theo Quốc tế thứ ba, con đường cách mạng.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I Lênin. Luận cương đã giải
đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp
Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, nhận rõ
lập trường của V.I.Lênin và Quốc tế thứ ba khác hẳn với những lời tuyên bố
suông của Quốc tế thứ hai. Luận cương của V.I.Lênin đã có ảnh hưởng quyết


23
định đến lập trường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Sau này người viết: “luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói
to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.
Từ đó tơi hồn toàn tin theo V.I Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”1.
Tháng 12-1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (Tours), Nguyễn
Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc
đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, mở
đường giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Qua 10 năm sống và làm việc ở nhiều nước trên thế giới, qua nhiều lục
địa, đặc biệt là ở những nước tư bản phát triển, Nguyễn Ái Quốc khơng chống
ngợp trước sự giàu có của giai cấp tư sản mà lại nhận thấy chế độ tư bản có
nhiều khuyết tật. Người khẳng định dứt khốt chủ nghĩa tư bản không cứu
được nước, không cứu được dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917 đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Người chỉ rõ: “muốn

cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản” 2
2.2. Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và chuẩn bị
thành lập Đảng
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm
vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc
tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách
mạng vơ sản của chủ nghĩa Mác-Lênin để truyền bá vào nước ta, từng bước
chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính đảng cộng
sản ở Việt Nam.
Tháng 5-1921, khi cịn ở Pháp, trong bài “Đơng Dương”, Nguyễn Ái
Quốc cho rằng “chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở
Đơng Dương nói riêng khơng”3. Tháng 7-1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 127.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 314.
3
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, Sđd, 2000, tr.33.
1
2


24
chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa Pháp lập Hội liên hiệp thuộc địa.
Tuyên ngôn của Hội do Người khởi thảo đã nêu bật tư tưởng tự lực tự cường:
“cơng cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của
bản thân anh em”. Hội quyết định xuất bản tờ báo “Người cùng khổ” (Le
paria), do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút.
Báo “Người cùng khổ” đã tạo “một luồng gió mới thổi đến nhân dân các
nước bị áp bức”, “đã làm cho nước Pháp chân chính biết rõ những việc xảy ra

trong các thuộc địa”, “đã thức tỉnh đồng bào chúng ta”.
Ngoài việc viết bài cho báo “Người cùng khổ”, Nguyễn Ái Quốc còn viết
bài cho các báo “Nhân Đạo”, “Đời sống công nhân”. Người đã dự đại hội
lần thứ nhất và lần thứ hai của Đảng Cộng sản Pháp. Người tiếp tục chỉ ra sai
lầm của Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề thuộc địa. Năm 1922, Ban Nghiên
cứu thuộc địa trực thuộc Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Pháp được
thành lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban Nghiên cứu về vấn
đề Đông Dương.
Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu viết tác phẩm nổi tiếng
“Bản án chế độ thực dân Pháp” ( Le Proce`s de la colonisation fran caise ) và
được xuất bản lần đầu ở Pari năm 1925. Bằng những dẫn chứng cụ thể, sinh
động, tác phẩm đã tố cáo những tội ác tày trời của thực dân Pháp đối với các
nước thuộc địa và kêu gọi “dân bản xứ không cam chịu nhục được mãi, phải
vùng lên”. Người nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng
giải phóng dân tộc qua hình ảnh chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi.
Muốn giết con vật ấy “ người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ
cắt một vịi thơi, thì cái vịi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản,
con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra” 1. Tác phẩm “Bản
án chế độ thực dân Pháp” có giá trị lớn về mặt lý luận, thực tiễn, đồng thời có
giá trị về văn hoá.
Năm 1922, qua truyện ngắn Lời than vãn của Bà Trưng Trắc, vở kịch
“Con rồng tre”, Nguyễn Ái Quốc đã lên án vua Khải Định là “đớn hèn, bất lực
và ngu dốt”, cam tâm làm tôi tớ cho thực dân Pháp.
Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Pêtơrơgrát (Liên Xơ). Ở đó, Người
có điều kiện học tập, nghiên cứu sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác - Lênin. Người
phát triển thêm những quan điểm chính trị của mình đã hình thành ở Pháp.
1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.120.



25
Người tiếp tục tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc. Qua bài “Hành hình kiểu
Linsơ”, Người coi tội ác đó “chiếm vị trí vinh dự trong tồn bộ những tội ác
của nền văn minh Mỹ”. Người vạch trần “chính sách thực dân trá hình” của đế
quốc Anh muốn chiếm cả Trung Quốc, phê phán đế quốc Ý đồng loã với đế
quốc Pháp đàn áp phong trào cách mạng ở Bắc Phi.
Tháng 10-1923, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế nông
dân. Đại hội bầu người vào Ban chấp hành Quốc tế Nông dân và Ban chấp
hành cử Người làm uỷ viên Đoàn chủ tịch. Năm 1924, Người dự các Đại hội
của Thanh niên, Phụ nữ Quốc tế, Công hội đỏ và Đại hội lần thứ V của Quốc
tế Cộng Sản. Người tiếp tục phê bình thiếu sót của nhiều đảng cộng sản ở Tây
Âu về vấn đề thuộc địa và thẳng thắn nêu thiếu sót đó của cả Quốc tế Cộng
sản. Người chỉ rõ rằng: Nơng dân bị áp bức bóc lột nặng nề, nạn đói ln xảy
ra, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nơng dân bản xứ đã chín
muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng
bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nơng dân vẫn cịn ở trong tình trạng tiêu cực,
thì ngun nhân là vì họ cịn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng
sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ
và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”
Người rất chú ý nghiên cứu chế độ mới ở Liên Xô. Người nhận rõ lúc này
dù thiếu thốn, nhân dân Liên Xô đã dành cho trẻ em những “cái gì tốt nhất”,
nhà nước hết sức chăm lo việc giáo dục và y tế cho nhân dân. Người viết nhiều
bài báo nêu cao công lao vĩ đại, đạo đức cao cả của Lênin.
Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) làm
nhiệm vụ đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản và trực tiếp chuẩn bị thành lập
Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Tại đây, Người cùng với một số nhà cách mạng
lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, do ông Liêu Trọng Khải
(Trung Quốc) làm Hội trưởng và Người làm bí thư.
Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hạt

nhân là Cộng sản đoàn, nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Nam có
xu hướng cộng sản chủ nghĩa, chuẩn bị thành lập Đảng, cơ quan tuyên truyền
của Hội là tuần báo Thanh niên. Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp
huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách
mạng Việt Nam. Sau các khoá học một số được chọn đi học ở Trường Đại học
Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, một số được cử đi học Trường Quân sự


×