Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Tập 1): Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.02 KB, 96 trang )

121

Chương 7
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC,
ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT" CỦA
ĐẾ QUỐC MỸ Ở MIỀN NAM (1961 - 1965)

1. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
1.1. Tình hình miền Bắc sau 5 năm quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Từ khi hồ bình lập lại, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã vươn lên
với một khí thế cách mạng mới, đã hoàn thành thắng lợi kế hoạch 3 năm cải
tạo và phát triển kinh tế.
Kết quả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc sau 5 năm có sự
phát triển rõ rệt trên tất cả các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập một cách căn
bản ở miền Bắc; thu nhập quốc dân tăng (năm 1960 tăng gấp đôi năm 1955);
văn hố xã hội phát triển quốc phịng, an ninh được củng cố...; nhà nước dân
chủ nhân dân không ngừng được tăng cường. Với những thành tựu trên, bộ
mặt chính trị và xã hội miền Bắc thay đổi một cách căn bản. Năng lực lãnh đạo
và uy tín của Đảng và Nhà nước được nâng lên. Những thành tựu ấy khẳng
định chủ trương của Đảng ta về khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, phát
triển văn hoá trong 5 năm đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn.
Tuy vậy, nhìn chung nền kinh tế miền Bắc vẫn là một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, chủ yếu dựa trên nền sản xuất nhỏ, cá thể. Công nghiệp mới
hình thành, nơng nghiệp và thủ cơng nghiệp cịn nghèo nàn, phân tán, sức lao
động phân bố không đều, trình độ văn hố của nhân dân cịn thấp, đời sống cịn
gặp nhiều khó khăn; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vừa mới được xác lập,
chưa được củng cố vững chắc.
Tình hình đó địi hỏi Đảng và nhân dân miền Bắc phải tiến hành xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiếp tục củng cố quan


hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.


122
1.2. Miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, bước đầu xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
Để thực hiện xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã thông
qua kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá (1961 - 1965) đối với miền Bắc.
Mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1961 - 1965) là: "Phấn đấu xây dựng
bước đầu cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước
cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa và hồn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội”1.
Để thực hiện mục tiêu trên, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Đảng đề ra
những nhiệm vụ cơ bản là:
- Ra sức phát triển công nghiệp nặng và nông nghiệp, thực hiện một
bước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nơng
nghiệp một cách tồn diện, phát triển cơng nghiệp nhẹ, phát triển giao thông
vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã,
chuẩn bị cơ sở để biến nước ta thành một nước công nghiệp và nơng nghiệp
xã hội chủ nghĩa.
- Hồn thành cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, tăng
cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao trình độ văn hố của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề,
nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động;
xúc tiến công tác khoa học kỹ thuật, thăm dò tài nguyên thiên nhiên và tiến

hành điều tra cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá xã hội
chủ nghĩa.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao
động, làm cho nhân dân ta được ăn no, mặc ấm, tăng thêm sức khoẻ, có thêm
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ III, tập 3, tr.187.


123
nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời
sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Đi đôi với phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường
trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm (1961-1965), Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá III) đã tiến hành một số hội nghị bàn giải pháp xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật và củng cố miền Bắc về mọi mặt.
Đầu tháng 1 năm 1961, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng thông qua những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1961,
năm mở đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ
quan trọng nhất là củng cố và phát triển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, phát
triển nông nghiệp một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp là cơ sở cho công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện một bước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát
triển cơng nghiệp nhẹ… Tháng 2 năm 1961, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc
chỉnh huấn mùa Xuân 1961. Đây là cuộc vận động chính trị sâu rộng nhằm xây
dựng quan điểm làm chủ tập thể, tất cả phục vụ cho sản xuất, cần kiệm xây
dựng đất nước, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Để
phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Ban Bí thư ra Nghị
quyết đẩy mạnh phong trào thi đua trong sản xuất, học tập, công tác. Các tổ

chức quần chúng tiến hành đại hội nhằm biểu dương thành tích, động viên tinh
thần hăng hái thi đua lao động sản xuất trong tất cả các ngành, các cấp. Tổng
Cơng đồn Việt Nam phát động phong trào phấn đấu trở thành tổ, đội lao
động xã hội chủ nghĩa. Nhà máy cơ khí Dun Hải (Hải Phịng) được cơng
nhận là lá cờ đầu trong phong trào thi đua hợp lý hố sản xuất, cải tiến kỹ
thuật của ngành cơng nghiệp. Hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình) là lá cờ
đầu phong trào thi đua trong nông nghiệp. Trong quân đội có phong trào thi
đua "ba nhất" (lập thành tích nhiều nhất, đều nhất, giỏi nhất). Trong giáo dục
có phong trào thi đua "hai tốt" (dạy tốt, học tốt), đi đầu là trường phổ thông
cấp 2 Bắc Lý (Hà Nam).


124
Tháng 4 năm 1961, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
bàn về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao năng lực tổ chức chỉ
đạo của các cấp, các ngành. Hội nghị nhấn mạnh vị trí, vai trị của tổ chức cơ
sở đảng phải chăm lo xây dựng chi bộ vững mạnh và quyết định mở cuộc vận
động xây dựng chi bộ "bốn tốt", nhằm tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của tổ
chức cơ sở đảng, giáo dục, rèn luyện đảng viên nêu cao vai trò tiền phong
gương mẫu trong việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tháng 7 năm 1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần
thứ 5 bàn về sản xuất nông nghiệp. Hội nghị đã phân tích, đánh giá ưu khuyết
điểm của nông nghiệp trong những năm qua. Hội nghị nhấn mạnh phải phát
triển nơng nghiệp tồn diện, mạnh mẽ và vững chắc nhằm phục vụ cho sự
nghiệp cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa và nâng cao đời sống vật chất, văn
hố của nhân dân, làm cho nơng nghiệp trở thành cơ sở vững chắc để phát triển
công nghiệp.
Nhiệm vụ và phương hướng phát triển nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm
là: Tích cực củng cố hợp tác xã nơng nghiệp và nông trường quốc doanh làm
cơ sở để phát triển nơng nghiệp. Kết hợp hồn thiện quan hệ sản xuất với phát

triển sức sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp. Kết hợp
chặt chẽ hợp tác hố với thuỷ lợi hố và cải tiến nơng cụ, cải tiến kỹ thuật,
từng bước cơ giới hoá nhằm mở rộng diện tích canh tác, bằng tăng vụ và khai
hoang, ra sức thực hiện thâm canh, tăng năng suất; giải quyết tốt vấn đề lương
thực là trọng tâm, hết sức coi trọng cây công nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi, mở
rộng thêm nghề rừng, nghề cá, nghề phụ, sử dụng tốt sức lao động tập thể là
chính, đồng thời tận dụng sức lao động gia đình của xã viên. Phấn đấu sau 5
năm, đưa mức sống của xã viên lên ngang với mức sống của trung nông lớp
trên, thay đổi bộ máy nông thôn.
Năm 1961, sản lượng lương thực trên miền Bắc đạt 5,8 triệu tấn, tăng
8,8% so với năm 1960. Ngày 23-11-1961, Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc
vận động "cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển nơng
nghiệp tồn diện, mạnh mẽ và vững chắc" trong thời gian 3 năm (1963-1965).
Mục đích của cuộc vận động là nhằm củng cố quan hệ sản xuất, tăng cường
lực lượng sản xuất của hợp tác xã, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời


125
sống nông dân, đồng thời phải đạt ba yêu cầu lớn là: Cải tiến quản lý hợp tác
xã, cải tiến kỹ thuật; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của hợp tác xã;
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp và hợp tác
xã nông nghiệp.
Thực hiện cuộc vận động, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp được củng
cố thêm một bước. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng và chính quyền đối
với nơng nghiệp có nhiều tiến bộ. Đến năm 1965, 88,8% số hộ nông dân đã
vào hợp tác xã nơng nghiệp, trong đó có 71,7% số hộ lên hợp tác xã bậc cao.
Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh, năng suất thấp, nông nghiệp miền
Bắc đã phát triển tương đối toàn diện. Từ một nền sản xuất tự túc, tự cấp trở
thành nền sản xuất có tỷ suất hàng hố ngày càng cao, giải quyết được một
phần nhu cầu về lương thực, thực phẩm, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp

và một phần sản phẩm cho xuất khẩu, bảo đảm sự ổn định về kinh tế xã hội của
miền Bắc, phát huy vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất và tổ chức sản xuất nông nghiệp
cũng có những yếu kém do trình độ quản lý của cán bộ non yếu, cơ sở vật chất
nghèo nàn, nông cụ chủ yếu là thủ công.
Tháng 6 năm 1962, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần
thứ 7 (mở rộng) để bàn về việc xây dựng và phát triển công nghiệp trong kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất. Hội nghị chủ trương, trong thời gian đầu, khoảng
10 năm kể từ năm 1961: "phấn đấu thực hiện một sự chuyển biến căn bản
trong nền kinh tế quốc dân, tiến hành trang bị cơ khí và nửa cơ khí một cách
phổ biến, xố bỏ tình trạng thủ cơng lạc hậu lâu đời và tình trạng mất cân
đối nghiêm trọng hiện nay trong các ngành sản xuất, bảo đảm cho nông
nghiệp, công nghiệp và các ngành kinh tế khác phát triển nhịp nhàng và
mạnh mẽ, bảo đảm giải quyết một cách căn bản những nhu cầu thông thường
của nhân dân về ăn, mặc, bảo vệ sức khoẻ, học tập, có thêm nhà ở và chuẩn bị
mọi mặt về vật chất, kỹ thuật, cán bộ, công nhân …để tiếp tục phát triển kinh
tế toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc"1.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 355 356.
1


126
Ngày 24 tháng 7 năm 1961, Bộ Chính trị mở cuộc vận động "nâng cao ý
thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, cải tiến kỹ thuật;
chống tham ơ, lãng phí, quan liêu" trong ngành cơng nghiệp. Yêu cầu của cuộc
vận động trong ba năm (1963 - 1965) là, thực hiện một cuộc chuyển biến cách
mạng trên các mặt tư tưởng và tổ chức, đưa công tác quản lý lên một trình độ
mới, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao đời sống nhân dân.
Cuộc vận động gọi tắt là "Ba xây, ba chống".

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng (khố III)
về cơng nghiệp, miền Bắc đã thực hiện được một bước đáng kể xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Các ngành cơng nghiệp chủ yếu như
điện, cơ khí, luyện kim, hố chất, vật liệu xây dựng… hình thành và phát triển
nhanh. Tốc độ tăng bình qn hàng năm của cơng nghiệp là 13,6%. Mặt yếu
kém của công nghiệp là không hướng vào mục tiêu trọng tâm phục vụ nông
nghiệp và tiêu dùng, đã bộc lộ sự mất cân đối giữa công nghiệp và nông
nghiệp, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Tháng 12 năm 1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần
thứ 10 bàn về thương nghiệp và giá cả. Căn cứ vào thực tiễn 10 năm phấn đấu
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hội nghị đã bổ sung hai điểm quan
trọng vào đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Một là, trong điều kiện cịn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, lực lượng sản
xuất chưa phát triển; sản xuất xã hội chưa dồi dào, sản xuất chưa đáp ứng kịp
nhu cầu thì sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá ở miền Bắc nước ta là
một tất yếu khách quan.
Hai là, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, cách mạng về quan hệ sản
xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, lấy cách mạng kỹ
thuật làm then chốt. Căn cứ đường lối đó, cơng tác thương nghiệp và giá cả
phải phục vụ tốt đời sống nhân dân, thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy cách
mạng kỹ thuật, cải tiến tổ chức thương nghiệp, tăng cường thương nghiệp quốc
doanh và hợp tác xã mua bán, quản lý tốt thị trường.


127
Cuối năm 1964, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, kế
hoạch 5 năm mới thực hiện được 4 năm nhưng đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Ngồi những thành tựu về cơng nghiệp, nơng nghiệp, miền Bắc cũng đã
giành được nhiều thành tựu về văn hố, quốc phịng - an ninh, đối ngoại và xây
dựng đảng.

Về văn hố giáo dục, tồn miền Bắc có 4,5 triệu người đi học (trong 16
triệu dân), số trường học phổ thông các cấp năm 1965 là 10.290 trường (so với
7.066 trường của năm 1960), số học sinh phổ thông là 2.934.000. Năm 1960,
miền Bắc có 9 trường đại học với 8.000 sinh viên, năm 1965 có 18 trường đại
học và cao đẳng với 34 nghìn sinh viên. Số thư viện tăng 3 lần. Tồn miền Bắc
có gần 100 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp. Các tệ nạn xã hội giảm mạnh.
Đạo đức mới, nếp sống mới xã hội chủ nghĩa hình thành rõ nét.
Về quốc phịng - an ninh, ba thứ quân đã nâng cao một bước sức mạnh
chiến đấu. Dân quân, tự vệ được tổ chức rộng khắp với số lượng 1,4 triệu
người, trong đó 1/5 được trang bị vũ khí. 1,2 triệu người đăng ký vào lực
lượng dự bị. 30% ngân sách quốc phòng được đầu tư xây dựng các cơng trình
qn sự, nâng cao khả năng phòng thủ của miền Bắc. Các lực lượng làm nhiệm
vụ an ninh quốc gia và giữ vững trật tự an tồn xã hội hoạt động có hiệu quả.
Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã nâng cao địa vị quốc tế
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của
các nước anh em và nhân dân toàn thế giới đối với cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam.
Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, đấu tranh giải phóng
miền Nam và đoàn kết quốc tế… đặt ra những yêu cầu mới về xây dựng đảng,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đáp ứng yêu cầu đó, Đảng đã kiện toàn tổ
chức và cải tiến lề lối làm việc từ Trung ương đến cơ sở, bồi dưỡng và kết nạp
đảng viên mới (từ 1961 đến 1965 kết nạp 30 vạn đảng viên), trình độ của đảng
viên được nâng lên về lý luận, khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế… Tổ chức
đảng ở các cấp được củng cố và tăng cường.
Từ năm 1961 đến năm 1964, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc vượt
qua khó khăn, gian khổ, phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ


128
nhất, tạo ra sự chuyển biến nhiều mặt trên miền Bắc. "Miền Bắc nước ta đã

tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và
con người đều đổi mới".
Tuy nhiên quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chúng ta đã
bộc lộ những khuyết điểm, nhược điểm về xác định mục tiêu, bước đi và tổ
chức chỉ đạo những ngành kinh tế chủ yếu. Nhiều chỉ tiêu lớn của kế hoạch đặt
ra không thể thực hiện được. Khuyết điểm, nhược điểm đó là do nhận thức của
Đảng cịn chủ quan duy ý chí, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội mà khơng
tính đến điều kiện, khả năng, hồn cảnh của đất nước ta; chưa nhận thức sâu
sắc rằng, xây dựng ở miền Bắc là nhằm phục vụ sự nghiệp đánh thắng đế quốc
Mỹ, giải phóng miền Nam; thiếu chọn lọc trong việc vận dụng mơ hình, kinh
nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước anh em .
Tuy cịn có những hạn chế nhất định, nhưng thắng lợi của kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961-1965) đã đưa miền Bắc thực sự trở thành căn cứ địa của cả
nước, hậu phương lớn của cách mạng miền Nam; đã củng cố niềm tin, xây
dựng ý chí quyết tâm cho quân và dân cả nước bước vào thực hiện nhiệm vụ
trong giai đoạn mới.
2. Đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ ở
miền Nam
2.1. Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và chủ trương
của Đảng chuyển cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa sang chiến tranh
cách mạng
Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam.
Thắng lợi của công cuộc củng cố miền Bắc và cao trào "Đồng khởi" ở
miền Nam, đã đưa cách mạng Việt Nam phát triển lên một bước mới đầy triển
vọng. Mặc dù trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước châu Âu
có những biểu hiện trì trệ và trong phong trào cộng sản quốc tế xuất hiện sự bất
đồng, nhưng sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa vẫn là một dịng thác
cách mạng có sức ngăn chặn những âm mưu đen tối của chủ nghĩa đế quốc, là
chỗ dựa vững chắc cho cách mạng thế giới và cách mạng nước ta. Phong trào



129
giải phóng dân tộc giành thắng lợi ở hơn 60 nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ
La tinh, là đồng minh mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta. Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, hồ bình và tiến bộ xã
hội của công nhân và các tầng lớp nhân dân ở các nước tư bản chủ nghĩa là
một dịng thác, khơng ngừng tấn cơng vào chính sách phản động, gây chiến
của đế quốc Mĩ.
Trước tình hình trên, đầu năm 1961, Tổng thống Mỹ G.Kennơđi buộc
phải điều chỉnh chiến lược từ "trả đũa ồ ạt" sang "phản ứng linh hoạt", với
ba loại hình chiến tranh: "Chiến tranh đặc biệt", "Chiến tranh cục bộ" và
"chiến tranh tổng lực".
Mục tiêu chính của chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ thực hiện ở
miền Nam Việt Nam là"dập tắt" phong trào "đồng khởi", bình định miền Nam
trong 18 tháng với lực lượng chủ yếu là quân ngụy Sài Gòn, do Mỹ trang bị và
cố vấn Mỹ chỉ huy, sử dụng chiến thuật cơ động bằng trực thăng và thiết giáp
nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng, lập hệ thống “ấp chiến lược” để
ngăn cản phong trào nổi dậy; ngăn chặn chi viện của miền Bắc và cô lập miền
Bắc, khi cần sẽ ném bom phá hoại miền Bắc.
"Chiến tranh đặc biệt" là một thủ đoạn độc ác và nguy hiểm, gây nhiều
khó khăn cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Tuy nhiên, chiến lược "Chiến
tranh đặc biệt" ra đời trong thế bị động đối phó. Cao trào cách mạng miền Nam
đã chuyển sang thế tiến cơng. Ngụy quyền Sài Gịn đang khủng hoảng nghiêm
trọng, chiến lược chiến tranh mới của đế quốc Mỹ khơng những khơng phát
huy được tác dụng của nó, mà còn từng bước bị bẻ gẫy trước cao trào nổi dậy
và tiến công mở rộng quyền làm chủ của nhân dân ta ở miền Nam.
Để đưa cách mạng miền Nam tiến lên một bước mới, tháng 1 năm 1961,
Bộ Chính trị họp bàn chủ trương chuyển cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa
sang chiến tranh cách mạng. Ngày 23-1-1961, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam. Trung ương Cục là

một bộ phận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chỉ đạo trực tiếp cách
mạng miền Nam. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được chỉ định làm Bí thư Trung
ương Cục.


130
Việc thành lập Trung ương Cục là thực hiện chủ trương tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương về mọi mặt, tại chỗ, đáp ứng những đòi hỏi
mới của cuộc chiến tranh. Đây là một chủ trương đúng, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn của cách mạng miền Nam.
Ngày 31-1-1961, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ
công tác trước mắt của cách mạng miền Nam. Chỉ thị chủ trương đẩy mạnh
đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ trước mắt
của cách mạng miền Nam là nhanh chóng xây dựng lực lượng của ta về cả hai
mặt chính trị và quân sự; tập hợp đông đảo lực lượng chống Mỹ trong Mặt trận
dân tộc thống nhất, phát động phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của
quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta,
làm tan rã ngụy quyền, ngụy quân trên phạm vi ngày càng rộng, tiến lên làm
chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh
đấu tranh chính trị ở đô thị, tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để
đánh đổ chính quyền tay sai Mỹ, giải phóng miền Nam.
Tháng 2-1961, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự, Bộ
Chính trị chỉ rõ, thực hiện kiềm chế Mỹ và thắng Mỹ ở miền Nam, chuẩn bị
sẵn sàng đối phó với âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của địch.
Bộ Chính trị chủ trương củng cố quốc phòng trên miền Bắc, xây dựng ở
miền Nam một lực lượng vũ trang tập trung đủ mạnh; giúp cách mạng Lào xây
dựng lực lượng vũ trang và sẵn sàng tổ chức bộ đội tình nguyện sang phối hợp
chiến đấu khi bạn yêu cầu; kiện toàn bộ máy chỉ đạo quân sự của Đảng, bảo
đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối với lực lượng vũ trang, tổ
chức, hệ thống chỉ huy quân sự trực thuộc các cấp Đảng bộ ở miền Nam. Bộ

Chính trị quyết định giao cho Quân uỷ Trung ương nhiệm vụ chỉ đạo tồn bộ
cơng tác qn sự ở miền Nam.
Tháng 9-1961, Bộ Chính trị thơng qua đề án tăng cường cho miền Nam từ
3 đến 4 vạn cán bộ, chiến sĩ đã được huấn luyện chính quy trên miền Bắc; tăng
cường lực lượng, phương tiện cơ giới cho đoàn vận tải quân sự 559.
Quán triệt Chỉ thị của Bộ Chính trị, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ
nhất (tháng 10-1961) đã nhất trí khẳng định sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ


131
hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Hội nghị Thường vụ
Khu uỷ Khu V (tháng 5-1961) chủ trương đẩy mạnh tiến công địch cả về chính
trị và quân sự nhằm tiếp tục củng cố và mở rộng căn cứ địa miền núi, phá thế
kìm kẹp của địch ở đồng bằng, phát động và tổ chức quần chúng đưa phong
trào tiến lên.
Những nghị quyết và chỉ thị của Đảng nói trên đã cụ thể hố đường lối
cách mạng miền Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng vạch
ra, chủ động đưa phong trào cách mạng miền Nam chuyển từ khởi nghĩa sang
chiến tranh cách mạng.
2.2. Đảng chỉ đạo đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế
quốc Mỹ và sự lớn mạnh của cách mạng miền Nam
Đánh thắng kế hoạch Xtalây-Taylo.
Để thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Lầu Năm góc đã vạch ra
một kế hoạch chiến lược, được gọi là kế hoạch Xtalây- Taylo, nhằm bình định
miền Nam trong 18 tháng.
Để thực hiện kế hoạch trên, Mỹ tăng viện trợ quân sự lên gấp hai lần,
quân chính quy ngụy từ 15 vạn lên hơn 30 vạn. Lực lượng yểm trợ và cố vấn
Mỹ tăng từ 2.000 tên năm 1960 lên gần 1,2 vạn tên năm 1962. Ngày 8-21962, Mỹ chuyển cơ quan viện trợ (MAAG) thành Bộ Tư lệnh quân sự
(MACV). Thực chất là thiết lập Bộ Tư lệnh quân đội xâm lược Mỹ ở miền
Nam Việt Nam.

Mỹ - ngụy coi việc lập ấp chiến lược là "xương sống" của chiến lược
"Chiến tranh đặc biệt". Mục tiêu cơ bản của "ấp chiến lược" là kìm kẹp dân,
lùng bắt cán bộ, đảng viên, đánh phá tận gốc phong trào đấu tranh của quần
chúng. Chúng dự tính đến hết năm 1962, tập trung 10 triệu dân ở nông thôn
vào 16.000 ấp chiến lược. Để lập ấp chiến lược, Mỹ - ngụy đã tiến hành những
cuộc hành quân càn quét, dồn dân, có lực lượng yểm trợ của Mỹ. Thực hiện
các chiến thuật mới "trực thăng vận", "thiết xa vận", đóng thêm hơn 1.000
đồn bốt.


132
Để đối phó với âm mưu đen tối của Mỹ - ngụy, Đảng đã chỉ đạo nhân dân
ta đấu tranh kiên cường chống trả lại các hành động chiến tranh mới của địch,
đưa cách mạng tiến lên.
Đảng bộ miền Nam được kiện toàn với hệ thống tổ chức thống nhất, tập
trung từ Trung ương Cục đến các chi bộ. Các cấp uỷ quân khu, tỉnh uỷ, huyện
uỷ được củng cố, thay đồng chí yếu, bổ sung cho đủ số lượng và tăng cường
nhiều cán bộ có kinh nghiệm, phẩm chất vững vàng. Công tác phát triển Đảng
được quan tâm. Một số đảng bộ trưởng thành nhanh chóng trong đấu tranh
quyết liệt với quân thù, đủ sức lãnh đạo quần chúng đấu tranh thắng lợi.
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng mở rộng. Ở
các xã giải phóng, Uỷ ban Mặt trận đã làm chức năng của chính quyền cách
mạng, tổ chức nhân dân chiến đấu, sản xuất, xây dựng cuộc sống mới.
Lực lượng vũ trang đã hình thành với ba thứ quân rõ rệt. Ngày 15-2-1961,
các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam. Hệ thống chỉ đạo, chỉ huy quân sự thuộc cấp ủy
đảng từ Miền đến xã được tổ chức. Lực lượng vũ trang ba thứ quân được chú
trọng xây dựng. 50% số đảng viên toàn Đảng bộ miền Nam được điều động
vào làm nòng cốt xây dựng bộ đội tập trung. Phối hợp đấu tranh chính trị và
binh vận, lực lượng vũ trang đẩy mạnh hoạt động tiêu hao, tiêu diệt địch, đẩy

lùi nhiều cuộc càn quét của quân ngụy, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành và giữ
quyền làm chủ. Trong năm 1961, hơn 33,8 triệu lượt người tham gia đấu tranh
chính trị. Tính đến cuối năm 1961, ta đã phá thế kìm kẹp ở hơn 8.000 thơn,
giải phóng 6,5 triệu dân trong số 14 triệu dân ở miền Nam. Các đảng bộ lãnh
đạo thực hiện từng bước cải cách ruộng đất, chia thêm cho nông dân 4 vạn ha
đất canh tác.
Tháng 2-1962, Bộ Chính trị họp, khẳng định những thắng lợi to lớn trong
năm 1961, đề ra nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự,
giành và giữ thế chủ động, tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, ra sức phá
kế hoạch Xtalây-Taylo, tiến lên giành những thắng lợi lớn hơn nữa. Bộ Chính
trị cũng đã đề ra một loạt biện pháp cụ thể về đấu tranh vũ trang, đấu tranh
chính trị, cơng tác mặt trận, binh vận, công tác phát triển đảng,… nhằm không
ngừng tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta về mọi mặt.


133
Ngày 16-2-1962, Đại hội lần thứ nhất Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam họp cử ra Uỷ ban Trung ương do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm
Chủ tịch. Đại hội tuyên bố tiếp tục theo đuổi mục tiêu: đấu tranh giành độc lập
dân tộc, bảo vệ tự do dân chủ và đời sống ấm no cho nhân dân, thực hiện chính
sách ngoại giao hồ bình, trung lập.
Tháng 4 - 1962, Hội nghị Thường vụ Trung ương Cục, tiếp đó là Hội nghị
Khu uỷ Khu V (7-1962) đã qn triệt và cụ thể hố Nghị quyết Bộ Chính trị,
nhấn mạnh ba việc lớn cần tập trung giải quyết nhằm trực tiếp chống phá
những âm mưu nguy hiểm nhất của địch: tích cực phá ấp chiến lược; ra sức
xây dựng và mở rộng căn cứ địa; khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang ba
thứ quân, đẩy mạnh tác chiến tiêu hao, tiêu diệt địch.
Nhiều tỉnh cũng tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm chống càn, phá ấp chiến
lược, vận dụng phương châm đấu tranh "hai chân, ba mũi". Tháng 11-1962,
Trung ương Cục mở Hội nghị tổng kết kinh nghiệm chiến tranh du kích và xác

định phương hướng chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng.
Từ thực tiễn cuộc kháng chiến, ngày 6-12-1962, Bộ Chính trị họp, khẳng
định ta có khả năng kiềm chế và thắng địch trong "Chiến tranh đặc biệt",
nhưng phải sẵn sàng đối phó với mọi hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm của đế
quốc Mỹ.
Bước sang năm 1963, cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam giành
được nhiều thắng lợi lớn. Mở đầu là trận Ấp Bắc (Mỹ Tho) ngày 2-1-1963, lần
đầu tiên tại vùng đồng bằng, lực lượng vũ trang phối hợp với lực lượng chính
trị đánh bại cuộc càn quét lớn của Mỹ - ngụy, mở ra khả năng đánh bại chiến
thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng và thiết giáp của chúng. Nhân thắng lợi
này, Trung ương Cục phát động phong trào "thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập
cơng". Hàng nghìn ấp chiến lược chuyển thành làng chiến đấu. Phong trào đấu
tranh ở nông thôn tác động mạnh đến các đô thị, thúc đẩy phong trào đấu tranh
của công nhân, nhân dân lao động, sinh viên, phật tử chống Mỹ – ngụy diễn ra
trên toàn miền Nam.
Ngày 1-11-1963, Mỹ đạo diễn cuộc đảo chính giết Diệm và Nhu. Ngụy
quyền Sài Gịn khủng hoảng trầm trọng. Kế hoạch Xtalây- Taylo bị phá sản,
chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ bước đầu bị thất bại.


134
Đảng chỉ đạo đánh bại hoàn toàn chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của
đế quốc Mỹ.
Sau đảo chính, tình hình chính trị ở Sài Gịn tiếp tục rối ren. Những cuộc
đảo chính tiếp tục xảy ra ở miền Nam, ngụy quyền tiếp tục khủng hoảng, ngụy
quân bị thua to trên các chiến trường. Trong khi đó, phong trào cách mạng phát
triển mạnh mẽ, lực lượng cách mạng tiến bộ nhanh, kiểm sốt được một số địa
bàn quan trọng.
L.Giơnxơn lên làm Tổng thống Mỹ thay Kennơđi và tiếp tục thực hiện
chính sách xâm lược Việt Nam của Kennơđi một cách điên cuồng, trắng

trợn hơn.
Tháng 3-1964, L.Giôn xơn thông qua kế hoạch do Mắc Namara và Hội
đồng Tham mưu trưởng liên quân chuẩn bị, tăng cường và mở rộng cuộc
"Chiến tranh đặc biệt" ở Nam Việt Nam. Kế hoạch đó gồm những nội dung
chính:
- Tăng cường sự chỉ huy trực tiếp của Mỹ, hệ thống yểm trợ, hậu cần,
tăng viện trợ vũ khí, trang bị kỹ thuật cho quân ngụy.
- Tăng quân số cho quân đội ngụy.
- Xúc tiến lập ấp chiến lược, ra sức bình định tập trung xung quanh Sài
Gịn, cố gắng ổn định trong 2 năm (1964-1965).
- Dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam và Lào, đe doạ, gây sức
ép hòng buộc miền Bắc phải ngừng tăng viện cho miền Nam.
Để thực hiện kế hoạch này, tháng 6-1964, L.Giônxơn cử tướng Taylo,
Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, chức vụ cao nhất của quân đội
Mỹ, "quân nhân số 1" của nước Mỹ, sang Sài Gòn thay Cabốtlốt làm đại sứ,
được toàn quyền hành động cả về quân sự và chính trị để trực tiếp thực hiện
chiến lược và kế hoạch chiến tranh do chính Taylo đề ra. L.Giônxơn cho tăng
số quân Mỹ và cố vấn từ 21.500 vào giữa năm lên 26.200 vào cuối năm 1964,
trong đó có 10.300 cố vấn. Ngân sách viện trợ cho quân ngụy Sài Gòn cũng
được tăng lên 624 triệu đô la. Tổng số quân ngụy lên tới hơn 563.000. Vũ khí
và phương tiện chiến tranh yểm trợ của Mỹ cũng được tăng lên ồ ạt.


135
L.Giơnxơn và tập đồn cầm quyền Mỹ cũng ráo riết chuẩn bị một kế
hoạch oanh tạc bằng không quân và sử dụng hải quân bắn phá miền Bắc Việt
Nam.
Phân tích đúng đắn tình hình, âm mưu và kế hoạch chiến tranh mới của
Mỹ, Hội nghị lần thứ 9 của Trung ương Đảng, tháng 12-1963, bàn về cách
mạng miền Nam, tiếp tục khẳng định phương châm của cuộc chiến tranh giải

phóng là kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Trong đó, đấu tranh
vũ trang có vị trí quyết định trực tiếp tiêu diệt lực lượng quân địch và đề ra
phương hướng phấn đấu là tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong
thời gian tương đối ngắn. Hội nghị nhấn mạnh: tiến hành cuộc chiến tranh cách
mạng giải phóng miền Nam là nhiệm vụ của cả nước, nhưng do ta chủ trương
kiềm chế và thắng địch ở miền Nam nên cách tham gia của mỗi miền khác
nhau. Nhân dân và lực lượng vũ trang trên miền Bắc phải tăng cường hơn nữa
tiềm lực kinh tế, quốc phòng, đẩy mạnh chi viện miền Nam về mọi mặt, đồng
thời khẩn trương chuẩn bị để đánh bại hành động mở rộng chiến tranh xâm
lược của địch. Thực hiện phương châm chiến lược ba vùng ở miền Nam,
nhưng vận dụng phải linh hoạt, không để cho địch phân vùng, phân tuyến.
Ngày 27 tháng 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị
Chính trị đặc biệt. Người chỉ rõ âm mưu và hành động chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ, khẳng định sự thất bại của "Chiến tranh đặc biệt" là không thể
tránh khỏi. Cách giải quyết đúng đắn vấn đề Việt Nam là chấm dứt sự can
thiệp Mỹ, quân đội và vũ khí Mỹ phải rút khỏi miền Nam. Người tuyên bố: nếu
đế quốc Mỹ liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm
hại. Quân và dân miền Bắc nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, "làm việc
bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt".
Tháng 6 năm 1964, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị "tăng cường
sẵn sàng chiến đấu, phá tan âm mưu khiêu khích, đánh phá miền Bắc của
khơng qn địch".
Ngày 2-8-1964, bộ đội hải quân đã anh dũng đánh đuổi tàu chiến Mỹ xâm
phạm vùng biển miền Bắc.


136
Sau hàng loạt hành động khiêu khích phá hoại có hệ thống và dựng lên
"sự kiện Vịnh Bắc bộ" đánh lừa Quốc hội, nhân dân Mỹ và dư luận thế giới,
ngày 5-8-1964, Chính phủ Mỹ chính thức tuyên bố dùng không quân đánh phá

miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn, dài ngày
và vô cùng tàn bạo với một nước độc lập, có chủ quyền.
Với tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, được chuẩn bị tốt về mọi mặt, các
đơn vị bộ đội hải qn, phịng khơng và lực lượng vũ trang các địa phương đã
nổ súng kịp thời, anh dũng đánh trả các đợt tiến công của địch, bắn rơi 8 máy
bay hiện đại, bắn bị thương một số chiếc khác, bắt sống một số giặc lái. Chiến
thắng ngày 5 tháng 8 năm 1964, đã cổ vũ mạnh mẽ khí thế chiến đấu, củng cố
niềm tin đánh thắng đế quốc Mỹ của quân và dân cả nước.
Tháng 9 năm 1964, Bộ Chính trị họp, nhận định tình hình, quyết định
động viên tồn Đảng, toàn dân, toàn quân tập trung mọi khả năng, đẩy mạnh
tác chiến tập trung quy mô chiến dịch, giành thắng lợi quyết định ở miền Nam
trong một vài năm tới. Tháng 9 năm 1964, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Uỷ
viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, cùng nhiều cán bộ quân sự cao cấp được
Bộ Chính trị cử vào miền Nam trực tiếp phụ trách, chỉ đạo phong trào.
Chấp hành chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 11-10-1964, Quân uỷ
Trung ương chỉ thị "mở đợt hoạt động Đông - Xuân 1964 - 1965 trên khắp
chiến trường miền Nam", nhằm tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực ngụy, phá
mạnh "ấp chiến lược", mở rộng vùng giải phóng, đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh
chính trị làm cho địch thêm khủng hoảng suy sụp.
Ở Khu V (gồm cả Tây Nguyên và Trị Thiên), quân và dân ta giành thắng
lợi liên tiếp trong các trận đánh, các chiến dịch An Lão, Đèo Nhông - Dương
Liễu, Việt An, Ba Gia… Ở Nam Bộ, thắng lợi nổi bật là các chiến dịch Bình
Giã, Đồng Xồi với lực lượng tập trung quy mơ nhiều trung đồn trong chiến
dịch, tiêu diệt nhiều tiểu đoàn địch. Ở thành thị, bộ đội đặc công, biệt động,
đánh sâu, đánh hiểm vào một loạt căn cứ, hậu cứ, sân bay, kho tàng, nơi ở của
phi công, nhân viên kỹ thuật Mỹ, gây cho địch nhiều thiệt hại về sinh lực và
phương tiện chiến tranh.
Ngụy quân, ngụy quyền đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt và sụp đổ, không
thể thực hiện được chức năng công cụ chủ yếu để tiến hành chiến tranh xâm



137
lược thực dân mới của đế quốc Mỹ. Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế
quốc Mỹ bị phá sản hoàn toàn.
Thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam Việt Nam có
ý nghĩa quốc tế quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá "Chiến tranh đặc
biệt" mà Mỹ đang thí nghiệm ở miền Nam Việt Nam đã thất bại thì chúng cũng
sẽ thất bại ở bất kỳ nơi nào khác.
CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Phân tích nội dung cơ bản của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (19611965)? Ý nghĩa lịch sử của kế hoạch này?
2. Chủ trương chuyển hướng cách mạng miền Nam của Đảng ta từ khởi
nghĩa sang chiến tranh cách mạng được thể hiện như thế nào?


138
Chương 8
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG MIỀN BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
ĐIỀU KIỆN CHIẾN TRANH, ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH
CỤC BỘ" CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965-1968)

1. Chuyển hướng xây dựng miền Bắc, chi viện miền Nam
1.1. Chủ trương của Đảng về chuyển hướng xây dựng miền Bắc trong
hoàn cảnh chiến tranh
Sau gần 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III,
đến cuối năm 1964 đầu năm 1965, quân và dân miền Bắc đã cơ bản hoàn thành
các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Miền Bắc đã trở thành
hậu phương lớn vững chắc cho cách mạng miền Nam.
Trước âm mưu và hành động leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ mở
rộng ra miền Bắc nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngăn
chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam và làm suy giảm ý chí quyết

tâm chống Mỹ của nhân dân ta, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội
nghị lần thứ 11 (3-1965), quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc
từ thời bình sang thời chiến, tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện chiến tranh. Đảng ta hạ quyết tâm: Động viên lực lượng cả
nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất
cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hồn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hồ bình
thống nhất nước nhà.
Nhiệm vụ của quân và dân miền Bắc lúc này được Hội nghị lần thứ 11
của Trung ương Đảng xác định:
1. Xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương lớn, vững chắc của cách
mạng miền Nam, đồng thời bảo đảm đời sống cho nhân dân và đáp ứng nhu
cầu hậu cần tại chỗ.
2. Đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
3. Tăng viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và cho cách mạng Lào.


139
Để thực hiện phương hướng xây dựng kinh tế phù hợp với thời chiến, Hội
nghị lần thứ 11 của Trung ương Đảng quyết định: Chuyển hướng xây dựng
kinh tế sang thời chiến, chuyển hướng tư tưởng, tổ chức, tăng cường lực
lượng quốc phịng cho phù hợp với tình hình mới và nhiệm vụ cấp bách của
miền Bắc.
Về kinh tế: đẩy mạnh việc phát triển nông nghiệp, chú trọng phát triển
công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp, xây dựng những xí nghiệp cơng
nghiệp nhỏ và vừa, tích cực xây dựng và phát triển kinh tế theo từng vùng
chiến lược quan trọng, làm cho mỗi vùng có khả năng tự giải quyết phần lớn
những nhu cầu ăn, mặc, ở, học tập, bảo vệ sức khỏe, bảo đảm đời sống nhân
dân, phục vụ sản xuất, xây dựng và chiến đấu. Điều chỉnh lại các chỉ tiêu xây
dựng cơ bản trong công nghiệp và danh mục các cơng trình đang hoặc dự định

xây dựng cho phù hợp với tình hình mới.
Về quốc phịng: phải tăng cường lực lượng quốc phịng, tăng cường cơng
tác phòng thủ, đánh trả để bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cơng tác phịng khơng
nhân dân, kiên quyết đánh bại kế hoạch ném bom đánh phá, phong tỏa miền
Bắc bằng không quân và hải quân của địch, tăng cường công tác chống gián
điệp, bảo vệ trật tự trị an, tăng thêm bộ đội thường trực, đối tượng gọi nhập
ngũ, tăng thời hạn nghĩa vụ quân sự, phát triển dân quân.
Về tư tưởng và tổ chức: chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp
với tình hình mới. Điều chỉnh cán bộ, công nhân viên chức giữa các ngành và
các địa phương, tăng cường cán bộ cho các tỉnh trung du, miền núi, cải tiến bộ
máy và sửa đổi lề lối làm việc.
Về ngoại giao: đẩy mạnh công tác đấu tranh ngoại giao, tích cực tranh thủ
sự ủng hộ, giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, năm 1965, cả miền Bắc chuyển nhanh sang thời chiến. Tuy có tổn thất
do địch đánh phá ác liệt, nhưng toàn Đảng, toàn quân và tồn dân ta trên miền
Bắc đã bình tĩnh, ngoan cường bước vào cuộc chiến đấu mới .


140
Để tiếp tục hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện chiến tranh và quyết tâm chống Mỹ, cứu nước, Hội nghị
lần thứ 12, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-1965) khẳng định: Chống
Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc. Hội nghị tiếp tục bổ
sung nhiệm vụ của miền Bắc là: đánh bại chiến tranh phá hoại, tăng cường lực
lượng quốc phòng, phát động chiến tranh nhân dân và thực hiện quốc phịng
tồn dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ các tuyến giao thông
chiến lược, các mục tiêu kinh tế và chính trị, tạo điều kiện đẩy mạnh sản xuất,
động viên sức người, sức của cho cách mạng miền Nam. Ra sức xây dựng
miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng. Trong bất kỳ tình huống nào

cũng phải đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp địa phương, thủ công
nghiệp…
Chủ trương chuyển hướng xây dựng miền Bắc của Đảng là cơ sở quan
trọng để các ngành, các cấp, các địa phương chỉ đạo thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ chiến đấu, lao động sản xuất và chi viện lực lượng cho miền Nam.
1.2. Đảng chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đánh thắng
chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, chi viện cho miền Nam
Từ đầu tháng 2-1965, đế quốc Mỹ liên tục dùng không quân và hải quân
đánh phá miền Bắc nhằm cứu nguy cho sự thất bại của chúng ở miền Nam. Đế
quốc Mỹ đã huy động một lực lượng không quân và hải quân rất lớn, với các
loại vũ khí hiện đại có sức tàn phá và sát thương lớn, đánh vào tất cả các mục
tiêu, kể cả nơi tập trung đông dân cư, tất cả các thành phố lớn ở miền Bắc, kể
cả thủ đô Hà Nội.
Trên cơ sở quyết tâm chống Mỹ, cứu nước và chủ trương lãnh đạo chuyển
hướng xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh chiến tranh. Đảng
ta đã nhanh chóng, kịp thời chỉ đạo nhân dân miền Bắc thực hiện quân sự hoá
trong sản xuất và đời sống. Cơng tác phịng khơng, sơ tán được đẩy mạnh,
hàng triệu người dân sống ở các khu đô thị, khu trọng điểm đã được sơ tán về
nơi an toàn, ổn định sinh hoạt và tiếp tục sản xuất.
Vừa chiến đấu, vừa sản xuất, nhân dân ta kiên cường bám ruộng đồng,
nhà máy, tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện miền
Bắc có chiến tranh. Nền kinh tế quốc dân đã được chuyển hướng tích cực từ


141
thời bình sang thời chiến. Mặc dù chúng ta gặp nhiều khó khăn nhưng tổng giá
trị sản lượng năm 1968 vẫn xấp xỉ như năm trước chiến tranh, quan hệ sản xuất
không ngừng được củng cố theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống nhân
dân miền Bắc trong chiến tranh vẫn ổn định. Miền Bắc đã động viên cao độ
mọi nguồn lực vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, để vừa chiến đấu bảo vệ

miền Bắc vừa chi viện và cùng với miền Nam đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc.
Quán triệt chủ trương kiên quyết đánh bại chiến tranh phá hoại, sẵn sàng
đối phó với tình huống địch mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước, tiếp tục
xây dựng chủ nghĩa xã hội và ra sức chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng
miền Nam, quân và dân miền Bắc đã kiên cường tiến hành cuộc chiến tranh
nhân dân ngày càng phát triển cao, xây dựng thành cơng hệ thống phịng khơng
nhân dân và phịng thủ vững chắc các mục tiêu, với sự tham gia của các lực
lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Kết hợp chặt chẽ
các phương thức tác chiến cùng với những hình thức chiến thuật mưu trí và
sáng tạo, quân và dân miền Bắc đã đánh bại các bước leo thang đánh phá của
địch, lập nên nhiều chiến công vang dội.
Trong khi cuộc chiến đấu đất đối không diễn ra ác liệt và giành thắng lợi
giịn giã, thì trên vùng ven biển miền Bắc, qn và dân ta cũng trừng trị đích
đáng các tàu chiến Mỹ - ngụy. Mặc dù kẻ địch có ưu thế về không quân và hải
quân nhưng chúng đã vấp phải một hệ thống phòng thủ vùng biển vững chắc
của chiến tranh nhân dân.
Tháng 1- 1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá III) quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ
hơn nữa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, khoét sâu
mâu thuẫn trong nội bộ địch, cô lập cao độ phái hiếu chiến trong giới cầm
quyền Mỹ, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, quân sự của quân và dân ta trên
chiến trường.
Trong 4 năm miền Bắc chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế
trong điều kiện có chiến tranh, chống trả quyết liệt với cuộc chiến tranh phá
hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, chế độ xã hội chủ nghĩa được tăng cường,
miền Bắc vẫn vững vàng là hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam.


142

2. Đánh bại chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ trên
chiến trường miền Nam
2.1. Âm mưu của đế quốc Mỹ và quyết tâm chiến lược của Đảng
Sau khi quyết định sử dụng bộ binh Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến
trường miền Nam Việt Nam. Từ năm 1965, đế quốc Mỹ đưa một lực lượng
quân sự lớn bao gồm quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam
nước ta, cộng với quân ngụy Sài Gòn, nâng tổng số quân Mỹ, ngụy trong
"Chiến tranh cục bộ" lúc cao nhất trên chiến trường miền Nam (năm 1968) lên
gần 1,5 triệu quân, được trang bị hiện đại. Riêng quân Mỹ lúc cao nhất có hơn
nửa triệu. Mỹ gấp rút triển khai kế hoạch "tìm và diệt", với âm mưu nhanh
chóng tiêu diệt chủ lực qn giải phóng, bình định miền Nam, buộc ta phải
ngồi đàm phán theo điều kiện của Mỹ.
Trước âm mưu và thủ đoạn mới của Mỹ, cùng với việc đề ra chủ trương
chuyển hướng xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện có chiến
tranh, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) đã xác
định quyết tâm chiến lược lãnh đạo quân và dân hai miền Nam Bắc đánh bại
chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Thực hiện nhiệm vụ: Tích
cực kiềm chế và thắng địch ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực
lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian
tương đối ngắn, đồng thời sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc "Chiến tranh
cục bộ" ở miền Bắc nếu địch gây ra, tiếp tục xây dựng miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ vào
miền Bắc… Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-1965)
đã nhận định: Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta
sẽ diễn ra gay go quyết liệt lớn, nhưng đế quốc Mỹ tăng cường và mở rộng
chiến tranh trong thế thua, thế bị động theo một chiến lược đầy mâu thuẫn và
bế tắc giữa mục đích cứu vãn chế độ thực dân mới với biện pháp quân sự theo
lối thực dân cũ. Hơn nữa, tiến hành cuộc chiến tranh phi nghĩa, lính Mỹ chiến
đấu khơng có mục đích, lại bị nhân dân Việt Nam, nhân dân Mỹ và cả loài
người tiến bộ lên án. Nước Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự rất mạnh nhưng

không thể và không cho phép huy động với bất cứ khả năng nào vào cuộc
chiến tranh Việt Nam. Trong khi đó, lực lượng cách mạng của ta đã lớn mạnh
về mọi mặt và đang ở thế thuận lợi. Vùng giải phóng khơng ngừng được mở


143
rộng và ngày càng được củng cố, Đảng bộ miền Nam có cơ sở rộng khắp, vững
chắc và được tơi luyện trong chiến đấu, có mối liên hệ chặt chẽ với quần
chúng, đã có nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh chính trị, quân sự, trong tổ
chức thực hiện đường lối cách mạng của Đảng. Qua 10 năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội và thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đã thực sự trở
thành hậu phương lớn, căn cứ địa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta ngày càng được sự đồng tình
và ủng hộ mạnh mẽ, tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân
dân u chuộng hồ bình và cơng lý trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.
Từ sự phân tích trên, Đảng ta khẳng định: Mặc dù Mỹ đưa vào miền Nam
nước ta hàng chục vạn quân Mỹ và chư hầu, nhưng so sánh lực lượng giữa ta
và địch vẫn không thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay
go, ác liệt, nhưng nhân dân ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững và liên tục giành
thế chủ động trên chiến trường, có khả năng và điều kiện để đánh bại âm mưu
trước mắt cũng như lâu dài của đế quốc Mỹ. Quyết tâm chiến lược của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta là: Động viên lực lượng cả nước kiên quyết
đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống
nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hồn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hồ bình, thống nhất nước
nhà. Chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc.
Phương châm chiến lược chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước là: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cần
phải cố gắng cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc
tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian

tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Về phương châm đấu tranh, Đảng ta xác định: Cần phải tiếp tục kiên trì
phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực
hiện ba mũi giáp công. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác
dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.
Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên
quyết tiến công và liên tục tấn công quân địch trên các mặt trận đấu tranh
chính trị, quân sự, ngoại giao.


144
Về mối quan hệ nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam - Bắc, Đảng ta chỉ rõ:
trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, miền Nam là tiền
tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và nhiệm
vụ giải phóng miền Nam không tách rời nhau mà luôn quan hệ mật thiết gắn
bó với nhau; đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, bất kỳ chúng đặt chân ở đâu
trên đất nước Việt Nam thì mọi người Việt Nam đều có nghĩa vụ tiêu diệt
chúng; khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là "Tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược", "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta
cịn phải chiến đấu qt sạch nó đi".
Hội nghị nhấn mạnh, việc tăng cường công tác tư tưởng và tổ chức đảng,
đáp ứng yêu cầu cao của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
2.2. Đảng chỉ đạo đánh bại chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế
quốc Mỹ ở miền Nam
a. Chỉ đạo đánh thắng 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966
và mùa khô 1966-1967
Sau khi đã đưa vào miền Nam nước ta một số lượng lớn quân viễn chinh
Mỹ và chư hầu, cùng với sự chuẩn bị kỹ càng, bắt đầu từ tháng 1-1966, quân
Mỹ chính thức tiến hành thực hiện kế hoạch "tìm và diệt", kế hoạch "bình
định" mà chúng đã vạch ra. Mở đầu là cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất

(mùa khô 1965-1966) với sự tham chiến của 72 vạn tên Mỹ- ngụy cùng 2000
máy bay, 1300 xe tăng, 1000 khẩu pháo yểm trợ, phản công cùng một lúc trên
hai hướng miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Khu V, nhằm tiêu diệt bộ phận
quan trọng quân chủ lực của ta, giành thế chủ động trên tồn chiến trường
miền Nam, “bình định” các vùng nông thôn và đồng bằng quan trọng.
Nắm chắc tư tưởng chiến lược tiến công của Đảng, Đảng bộ miền Nam đã
dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng và phát triển trên 3 vùng
chiến lược, kết hợp chặt chẽ các hình thức tác chiến của bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương và dân quân du kích. Lực lượng vũ trang ta đã liên tục chặn đánh,
kìm chân, phản cơng và tiến cơng qn địch làm thất bại nhiều cuộc hành quân
"tìm diệt" của quân Mỹ và chư hầu. Đồng thời kết hợp chặt chẽ 3 mũi giáp
cơng (qn sự, chính trị, binh vận), quân và dân ta đã phá vỡ kế hoạch lập ấp
chiến lược của địch năm 1966.


145
Thất bại trong cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất khiến cho một số
quan chức Mỹ từ chỗ hoài nghi đi tới chỗ phải thừa nhận: Sức mạnh quân sự
của Mỹ không thể kết thúc chiến tranh sớm và giành thắng lợi cho Mỹ như dự
tính ban đầu. Song với dã tâm xâm lược nước ta, với bản chất hiếu chiến và
ngoan cố, đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục đưa thêm quân viễn chinh cùng vũ khí trang
bị hiện đại vào miền Nam nước ta, gấp rút chuẩn bị mở cuộc phản công chiến
lược lần thứ hai.
Cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ được thực hiện với một
lực lượng lớn gồm 20 sư đoàn và 10 lữ đồn chủ lực (trong đó có 7 sư đồn, 6
lữ đoàn quân Mỹ), 4000 máy bay, 2500 xe tăng, xe bọc thép, hơn 2000 khẩu
pháo tập trung phản công vào miền Đông Nam Bộ. Mục tiêu của Mỹ là tiêu
diệt chủ lực quân giải phóng và cơ quan đầu não cuộc kháng chiến của nhân
dân ta ở miền Nam, đẩy mạnh "bình định", mở rộng vành đai an tồn ra các
tỉnh quanh Sài Gòn- Gia Định. Phối hợp với cuộc ra qn lần này, khơng qn

Mỹ cịn leo thang đánh phá ác liệt miền Bắc, vừa để ngăn chặn chi viện vừa để
gây sức ép cao nhất đối với ta.
Trước âm mưu và hành động leo thang chiến tranh cực kỳ nguy hiểm
của đế quốc Mỹ, để tăng cường lực lượng quốc phòng, đẩy mạnh kháng chiến
nhằm đánh bại quân địch, tháng 7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh động
viên cục bộ.
Cuối tháng 10-1966, Bộ Chính trị họp phân tích tình hình và nhận định:
Năm 1967 có một tầm quan trọng lớn đối với cả ta và địch. Địch sẽ cố gắng
cao để giành thắng lợi, tạo thế cho tập đồn Giơnxơn giải quyết những khó
khăn ở nước Mỹ để bước vào cuộc tranh cử tổng thống, còn ta cũng phải cố
gắng rất lớn, đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch, tạo thời
cơ để tiến lên giành thắng lợi quyết định.
Để kịp thời chỉ đạo cuộc chiến tranh, tháng 11-1966, Bộ Chính trị và
Quân uỷ Trung ương đã tổng kết sâu sắc những kinh nghiệm từ chiến trường
và đề ra 6 phương thức tác chiến chiến lược là: mở các chiến dịch vừa và lớn,
tiến công hoặc phản công tiêu diệt lớn quân địch; đẩy mạnh chiến tranh du
kích tiêu diệt, tiêu hao, ghìm chân và phân tán quân địch; đánh phá căn cứ hậu
cần, sân bay, kho tàng, hải cảng và cơ quan chỉ huy của địch; triệt phá giao


×