Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Tập 2): Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 100 trang )

TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ



GIÁO TRÌNH
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
TẬP II
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ BÀI
HỌC KINH NGHIỆM TỔNG QUÁT CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
(Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội - bậc đại học)


2

BAN BIÊN SOẠN

1. Đại tá, PGS, TS Đoàn Ngọc Hải

Chủ biên, chương 7, 8

2. Đại tá, Th.S Đặng Văn Đức

Chương 1, 6

3. Đại tá, Th.S Nguyễn Cao Khải

Chương 4, 10

4. Đại tá, Th.S Nguyễn Quốc Khánh


Chương 5, 12

5.Thượng tá, TS Nguyễn Hữu Luận

Chương 9

6. Đại tá, TS Đặng Bá Minh

Chương 3

7.Thượng tá, Cử nhân Thân Văn Ninh

Chương 2, 11


3

LỜI NÓI ĐẦU

Nhằm đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu môn Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam của học viên ở các học viện, nhà trường trong Quân đội, Tổng cục
Chính trị tổ chức xuất bản Giáo trình: “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Tập II”- Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa và bài học kinh nghiệm
tổng quát của cách mạng Việt Nam (Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp
phân đội - bậc đại học), do tập thể giảng viên Khoa Lịch sử Đảng, Học viện
Chính trị qn sự biên soạn.
Trong q trình biên soạn, tập thể tác giả đã bám sát nội dung các văn
kiện, nghị quyết, quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện, tổng kết về cách mạng xã
hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự chỉ đạo của thủ trưởng các
cấp, có kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã cơng bố có

liên quan.
Dù tập thể tác giả đã rất cố gắng, song khó tránh khỏi những khiếm
khuyết. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp xây dựng của đơng đảo bạn đọc,
để giáo trình tiếp tục bổ sung, sửa chữa, hồn thiện trong lần tái bản sau.

TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ


4

Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở MIỀN BẮC - THÀNH TỰU VÀ KINH NGHIỆM

1. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
1.1. Đặc điểm miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong hoàn cảnh đất
nước tạm thời bị chia làm hai miền, mỗi miền có chế độ chính trị, xã hội khác
nhau. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954) miền Bắc hồn tồn
giải phóng, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về cơ bản đã hồn
thành, bước vào thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội. Đế quốc Mỹ thay chân
thực dân Pháp vào xâm lược miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu
mới và căn cứ quân sự của chúng. Tính chất xã hội miền Nam vẫn là thuộc địa
nửa phong kiến, nhiệm vụ cách mạng cơ bản chưa thay đổi.
Từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chiến tranh tàn phá nặng nề, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đồng thời miền Bắc còn phải thường
xuyên đối phó với chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Đây là đặc điểm lớn
nhất của miền Bắc khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình thế giới có nhiều thuận
lợi và cũng khơng ít những khó khăn, phức tạp. Cách mạng thế giới ở thế chiến

lược tiến cơng. Ba dịng thác cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ đang tấn
công vào dinh luỹ của chủ nghĩa đế quốc do đế quốc Mỹ đứng đầu.
2.2. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
Từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 9 năm 1960, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đảng ta đã tích lũy được những kinh
nghiệm bước đầu, từng bước xác lập nội dung cơ bản về đường lối cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở đó, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ III của Đảng (9.1960)
đã phân tích những đặc điểm cơ bản của miền Bắc khi bước vào thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, xác định đường lối chung cách mạng Việt Nam trong giai


5
đoạn mới, đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và
đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “Đoàn kết toàn
dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống đấu tranh anh dũng
và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm
no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho
cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ hồ bình ở Đơng Nam Á và trên thế giới.
Muốn đạt mục tiêu đó, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm
nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương
nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh,
thực hiện cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có cơng nghiệp hiện

đại, nơng nghiệp hiện đại, văn hố và khoa học tiên tiến”1.
Đường lối đó bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: xây dựng đời sống
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững
mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hồ bình thống nhất nước nhà; góp phần
tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hồ bình ở Đơng Nam Á và thế giới.
Con đường để đạt mục tiêu trên là: sử dụng chính quyền dân chủ nhân
dân làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản, để cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lí, đồng thời ra sức phát triển nơng nghiệp và công nghiệp nhẹ;
đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kĩ thuật, để biến
nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có cơng nghiệp hiện đại, nơng nghiệp
hiện đại, văn hóa, khoa học tiên tiến.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ của Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện đại hội, Tập 1, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, xuất bản 9-1960, tr 179-180.
1


6
Về nhịp độ và bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là:
tiến nhanh , tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vị trí quyết
định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự
nghiệp thống nhất nước nhà.
Đại hội đã đề ra nhiệm vụ, phương hướng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965), nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Thực chất đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Đại hội
lần thứ III của Đảng xác định là đường lối tiến hành cách mạng về quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất, về xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng

tầng, nhằm tạo ra một hình thái kinh tế - xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Những tư tưởng cơ bản của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc còn được Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển trong những năm tiếp theo.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 19 (1-1971) nhấn mạnh:
phải nắm vững chun chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ
sản xuất, cách mạng kĩ thuật và cách mạng tư tưởng, văn hố); khẳng định thời
kì q độ lên chủ nghĩa xã hội là lâu dài phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ
mà miền Bắc đang ở bước đi ban đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
kết hợp chặt chẽ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
2. Đảng chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ 1954 đến 1975
1.2. Thời kì khơi phục, cải tạo kinh tế (1954-1957)
Từ tháng 7-1954, miền Bắc hồn tồn giải phóng, Đảng quyết định đưa
miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong ba năm đầu
(1955 - 1957), Đảng chủ trương khôi phục kinh tế sau chiến tranh và hồn
thành những nhiệm vụ cịn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Hội nghị Bộ chính trị tháng 9/1954 chỉ rõ: nhiệm vụ to lớn là hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó khăn về
đời sống cho nhân dân, phát triển kinh tế có kế hoạch và làm từng bước; mở
rộng giao lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn. Đến tháng 8 - 1955, Hội
nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch 3 năm khôi


7
phục và phát triển kinh tế-văn hoá (1955-1957). Phương châm chỉ đạo: khơi
phục là chính, đồng thời phát triển trong phạm vi cần thiết và có thể được;
trọng tâm là khôi phục nông nghiệp, dựa trên cơ sở khôi phục nông nghiệp mà
khôi phục các ngành khác. Phấn đấu sau 3 năm khôi phục đạt và vượt mức sản
xuất trước chiến tranh (năm 1939). Trong nông nghiệp, trọng tâm là giải

quyết lương thực. Trong công nghiệp, chú trọng tiểu thủ cơng nghiệp, đồng
thời tăng cường các xí nghiệp quốc doanh, xây dựng một số cơ sở mới về
công nghiệp một cách vững chắc phục vụ sản xuất, dân sinh và quốc phòng.
Thực hiện chủ trương của Đảng trong sản xuất nơng nghiệp, giai cấp
nơng dân phấn khởi phục hố, khai hoang, làm thuỷ lợi, đẩy mạnh sản xuất
tăng nhanh sản lượng lương thực. Đến năm 1957, sản lượng lương thực ở miền
Bắc vượt mức trước chiến tranh 2,4 triệu tấn. Trong thời kì này, Đảng cịn chỉ
đạo xây dựng thí điểm 44 hợp tác xã và 8 vạn tổ đổi công.
Về sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, được sự giúp đỡ của các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, miền Bắc vừa khơi phục xí nghiệp cũ vừa xây
dựng thêm một số xí nghiệp mới. Hầu hết các cơ sở cơng nghiệp, nhà máy, xí
nghiệp quan trọng đi vào hoạt động có hiệu quả, giai cấp cơng nhân phấn khởi
làm chủ cơ sở sản xuất.
Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc được hình thành; giao
thơng vận tải được khơi phục và phát triển; văn hố, giáo dục, y tế phát triển
nhanh chóng.
Đồng thời, Đảng chú ý bồi dưỡng, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ.
Hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng và củng cố. Công
tác xây dựng Đảng được chú trọng, Nhà nước dân chủ nhân dân được tăng
cường làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vơ sản. Khối đại đồn kết tồn
dân trong Mặt trận được củng cố. Khuynh hướng tư tưởng tư sản và các tư
tưởng văn hoá lạc hậu bị đánh bại, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn
xã hội.
Về thực hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất, từ năm 1953 khi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đến giai đoạn quyết định, Đảng đã chủ trương phát
động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất. Trong hai năm 1954 1956, cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tiếp tục tiến hành với 4 đợt (từ đợt 2
đến đợt 5) trên phạm vi 3.314 xã. Qua 5 đợt cải cách ruộng đất, Hội nghị lần


8

thứ 10 (từ ngày 25 - 8 đến 18 - 10 - 1956) và Hội nghị lần thứ 14 (11-1958)
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ: thắng lợi của cải cách ruộng
đất là thắng lợi to lớn và căn bản. Toàn bộ giai cấp địa chủ, phong kiến, đối
tượng của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân bị đánh đổ, 81 vạn ruộng đất,
nhiều trâu bò, nông cụ chia cho hơn 2 triệu hộ nông dân. Giai cấp nơng dân
được giải phóng, lên địa vị làm chủ, đánh dấu hoàn thành nhiệm vụ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc, tạo tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội
thuận lợi để miền Bắc làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quá
trình chỉ đạo cải cách ruộng đất đã mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng, ảnh
hưởng đến tư tưởng, tình cảm cách mạng của nhân dân. Đảng ta đã công khai
nhận khuyết điểm trước đồng bào cả nước và kiên quyết sửa sai.
2.2. Thời kì cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội (1958-1960)
Với thắng lợi của khôi phục, phát triển kinh tế (1954-1958), tháng 111958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 bàn về kế
hoạch 3 năm (1958-1960) cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh
tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, thành phần kinh tế tư bản tư doanh, người
buôn bán nhỏ.
Hội nghị xác định khâu chính trong cải tạo là cải tạo nơng nghiệp, ra sức
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh. Đồng thời với cải tạo và phát triển
kinh tế phải tiến hành cơng tác giáo dục, văn hố, tư tưởng, coi đó là một bộ
phận quan trọng, khăng khít của nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Quá trình cải tạo các thành phần kinh tế là quá trình xác lập chế độ cơng
hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức chủ yếu: sở hữu nhà nước (tồn dân)
và sở hữu tập thể, nhằm hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Tháng 4 - 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
16 bàn về cải tạo nông nghiệp cá thể ở miền Bắc theo hướng hợp tác hoá xã
hội chủ nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư
doanh, thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp. Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 16 chỉ rõ: miền Bắc cần và có thể tiến hành hợp tác hố
nơng nghiệp trong điều kiện chưa cơ giới. Cuộc vận động hợp tác hố nơng

nghiệp phải kết hợp chặt chẽ với vận động cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao
động. Nguyên tắc chỉ đạo xây dựng hợp tác xã nông nghiệp là tự nguyện, cùng


9
có lợi và quản lý dân chủ. Phương châm tiến hành cải tạo là tích cực, vững
chắc, qui hoạch về mọi mặt, sát với từng vùng. Trong thời gian đầu phải đi từ
thấp đến cao, qua ba bước: tổ đổi công, hợp tác xã bậc thấp, hợp tác xã bậc cao
để cho nông dân làm quen với lối làm ăn tập thể và phù hợp với trình độ quản
lý của cán bộ.
Đối với ngư nghiệp, ngày 16-6-1960, Bộ chính trị đã ra chỉ thị về thành
lập hợp tác xã nghề cá ở vùng biển. Bộ Chính trị chỉ rõ: xây dựng hợp tác xã
nghề cá phải bao gồm cả cải tạo quan hệ sản xuất và phát triển sản xuất, lấy
phát triển sản xuất để đẩy mạnh phong trào hợp tác xã.
Chủ trương cải tạo về nông nghiệp đúng đắn của Đảng đã lôi cuốn đông
đảo nông dân xin gia nhập hợp tác xã. Các nông trường quốc doanh cũng được
tổ chức lại và quản lí thống nhất của Bộ Nơng trường. Phong trào làm thuỷ lợi,
phân bón, cải tiến kĩ thuật canh tác phát triển mạnh.
Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, Đảng quyết định cải tạo
bằng phương pháp hồ bình. Điểm mấu chốt về kinh tế trong cải tạo bằng
phương pháp hồ bình là chính sách chuộc lại tư liệu sản xuất mà tư sản nắm,
không tịch thu, đồng thời sắp xếp việc làm cho các nhà tư bản và giai cấp tư
sản. Bước đi của cải tạo cũng từ thấp đến cao. Điều kiện chủ chốt phải tăng
cường kinh tế quốc doanh, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, củng cố
liên minh công - nông và giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong
công, thương nghiệp tư bản tư doanh nhanh chóng giành thắng lợi.
Đối với thủ công nghiệp, Đảng chủ trương đưa thợ thủ công đi theo con
đường hợp tác hoá, cải tiến kĩ thuật, tận dụng khả năng của thủ công nghiệp
phục vụ nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Trong những

năm 1959-1960, việc tập thể hố tiểu thủ cơng nghiệp đã cơ bản hồn thành.
Đối với những người bn bán nhỏ, Đảng chủ trương giáo dục, giúp đỡ
làm cho họ tự nguyện và tham gia cải tạo xã hội chủ nghĩa, tích cực tổ chức họ
lại dưới hình thức hợp tác xã, đồng thời chuyển dần một số sang sản xuất.
Đồng thời với cải tạo xã hội chủ nghĩa, Đảng chỉ đạo phát triển thành
phần kinh tế quốc doanh, phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và thương
nghiệp xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục, y tế được


10
Đảng, Nhà nước quan tâm xây dựng. Hệ thống y tế hình thành cơ bản trên
khắp các địa phương miền Bắc.
Trong 3 năm (1958-1960), công tác xây dựng Đảng được đẩy lên một
bước, chuẩn bị tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Việc xây dựng Nhà nước và các đoàn thể quần chúng được xúc tiến mạnh
mẽ. Ngày 29-4-1958, Quốc hội thông qua Luật tổ chức chính quyền địa
phương, bãi bỏ cấp trung gian là khu, liên khu để các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương. Tháng 12-1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới. Các tổ
chức quần chúng trong Mặt trận dân tộc thống nhất đều được củng cố và hoạt
động tích cực. Quân đội nhân dân Việt Nam được đặc biệt quan tâm xây dựng,
từng bước tiến lên chính qui, hiện đại.
2.3. Đảng thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
Đồng thời với xác định đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là: Thực hiện một bước cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất kĩ thuật của
chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch là: Ra sức phát triển công nghiệp và nông

nghiệp, thực hiện một bước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra
sức phát triển nông nghiệp tồn diện, phát triển cơng nghiệp nhẹ, phát triển
giao thơng vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp
hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở tiến lên xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa;
Hồn thành cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh,
tăng cường kinh tế quốc doanh, tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong tồn bộ
nền kinh tế quốc dân;
Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo bồi dưỡng
cán bộ, nhất là cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao


11
trình độ quản lý kinh tế, xúc tiến cơng tác khoa học và kỹ thuật, thăm dò tài
nguyên và tiến hành điều tra cơ bản phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, văn
hoá xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời với phát triển kinh tế, ra sức củng cố quốc phòng, giữ vững trật
tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phấn đấu đạt được một số chỉ tiêu chủ
yếu là: Giá trị tổng sản phẩm công nghiệp và thủ công nghiệp tăng 148% so
với năm 1960, bình quân hàng năm tăng khoảng 20%. Giá tri tổng sản lượng
lương thực dự tính tăng 10%. Về xây dựng cơ bản, Nhà nước đầu tư 48%
ngân sách. Thu nhập thực tế bình quân đầu người tăng khoảng 30% so với
năm 1960.
Sau Đại hội, Đảng đã chỉ đạo cụ thể để thực hiện đường lối chung về
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965).
Mùa xuân năm 1961, Bộ Chính trị mở đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn

trong tồn Đảng, toàn dân nhằm khắc phục những tư tưởng trở ngại, tạo nên
khí thế cách mạng mới, nâng cao ý thức làm chủ và tinh thần tập thể xã hội chủ
nghĩa; xây dựng quan điểm phục vụ sản xuất; quan điểm cần, kiệm xây dựng
nước nhà; quan điểm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội. Từ đây phong trào thi đua yêu nước phát triển mạnh mẽ.
Ngày 26-1-1961, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết về việc đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước bảo đảm hoàn thành toàn diện và vượt mức
kế hoạch nhà nước năm 1961 và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Thực hiện chủ
trương của Đảng, phong trào thi đua đã phát triển sâu rộng và ngày càng thiết
thực. Đáng kể nhất là các phong trào thi đua “Sóng Duyên Hải” trong cơng
nghiệp, “Gió Đại Phong” trong nơng nghiệp, thi đua đuổi kịp và vượt Thành
Công trong thủ công nghiệp, thi đua giành cờ “Ba nhất” trong quân đội, thi đua
giành “Hai tốt” trong ngành giáo dục. Qua phong trào thi đua, những tổ, đội lao
động xã hội chủ nghĩa, những chiến sĩ thi đua xuất hiện ngày càng nhiều.
Ngày 9 - 2 - 1963, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về cuộc vận động cải tiến
quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển nông nghiệp tồn diện,
mạnh mẽ và vững chắc. Ngày 24-7-1963, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về cuộc
vận động “Nâng cao ý thức trách nhiệm tăng cường quản lý kinh tế tài chính,


12
cải tiến kỹ thuật, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu” gọi tắt là cuộc vận động
“Ba xây, ba chống” với mục đích tăng cường và quản lý kinh tế tài chính, cải
tiến kĩ thuật, đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động. Ngồi hai cuộc vận
động này, cịn có cuộc vận động đồng bào miền xi lên phát triển kinh tế
miền núi.
Tháng 7-1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 5
bàn về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp. Hội nghị chỉ ra vấn đề mấu chốt phải
xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới ở nông thôn, nhằm đẩy mạnh
phát triển nông nghiệp, bảo đảm các yêu cầu chủ yếu về cung cấp lương thực,

thực phẩm, cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp và một số sản phẩm xuất
khẩu để đổi lấy máy móc thiết bị, làm cho nơng thơn trở thành thị trường tiêu
thụ rộng lớn của công nghiệp. Phấn đấu sau 5 năm đưa mức sống của xã viên
lên ngang mức sống của trung nông lớp trên, thay đổi bộ mặt nông thôn; làm
cho nông nghiệp trở thành cơ sở vững chắc để phát triển công nghiệp, đưa
nông nghiệp tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Phương châm phát triển nông nghiệp là: phát triển toàn diện, lấy lương thực
làm trọng tâm; thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu; củng cố và phát triển các hợp
tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh là vấn đề có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp.
Về công nghiệp, sau một thời gian phục hồi, cải tạo, xây dựng và phát
triển, căn cứ vào thực tế tình hình và yêu cầu phát triển của công nghiệp, tháng
6-1962 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 7 bàn về xây
dựng và phát triển công nghiệp. Hội nghị chủ trương trong thời kỳ đầu của
“…phấn đấu thực hiện một sự chuyển biến căn bản trong nền kinh tế quốc
dân, tiến hành trang bị cơ khí và nửa cơ khí một cách phổ biến, xố bỏ tình
trạng thủ cơng lạc hậu lâu đời và tình trạng mất cân đối nghiêm trọng hiện
nay trong các ngành sản xuất, bảo đảm cho nông nghiệp, công nghiệp và các
ngành kinh tế khác phát triển nhịp nhàng và mạnh mẽ” 1.
Nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất là: phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội, thực hiện một bước cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa và hồn
thành cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh,
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.355.


13
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Phương châm phát triển là: vừa

đi ngay vào kĩ thuật hiện đại, vừa đi tuần tự từ sản xuất thủ cơng lên nửa cơ khí
và đại cơ khí; kết hợp xây dựng xí nghiệp qui mơ lớn với xí nghiệp qui mô vừa
và nhỏ; kết hợp kĩ thuật hiện đại với kĩ thuật thơ sơ; kết hợp xây dựng những
xí nghiệp mới với việc tận dụng những xí nghiệp cũ; kết hợp phát triển công
nghiệp địa phương với phát triển công nghiệp trung ương.
Tháng 4-1963, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 8
bàn về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm (1961-1965). Hội nghị đưa
ra phương hướng nhiệm vụ, những chỉ tiêu và biện pháp chủ yếu của kế hoạch
5 năm lần thứ nhất; làm sâu sắc thêm đường lối, bước đi, tốc độ của cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; phát triển một số vấn đề về phương
hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội như: quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng,
quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, quan hệ giữa xây dựng kinh tế và
củng cố quốc phịng; phương hướng tích luỹ, đầu tư, xây dựng cơ bản…theo
tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng đất nước, khắc phục những non yếu
trong nền kinh tế.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc, cuộc
đấu tranh của nhân dân miền Nam chống “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc
Mĩ diễn ra rất quyết liệt. Trước nguy cơ sụp đổ của nguỵ quân, nguỵ quyền, đế
quốc Mĩ một mặt đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, mặt khác tăng
cường phá hoại ra miền Bắc. Trước tình hình mới, ngày 27-3-1964, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Tại Hội nghị này, Hồ
Chủ tịch kêu gọi mỗi người “Làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền
Nam ruột thịt”.
Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ngày 18-4-1964, Ban Bí thư
Trung ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua “Mỗi người làm việc
bằng hai” đưa phong trào thi đua yêu nước xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và chi viện cho miền Nam lên một bước mới. Thực hiện Chỉ thị của Ban
Bí thư, phong trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai” đã nhanh chóng lan
rộng khắp miền Bắc, nhiều điển hình tiên tiến trong sản xuất và công tác xuất
hiện. Phong trào thi đua đã góp phần thúc đẩy hồn thành thắng lợi kế hoạch

nhà nước năm 1964 và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.


14
Tháng 12-1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
10 chuyên bàn về thương nghiệp và giá cả. Căn cứ vào đường lối chung xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hội nghị nhấn mạnh: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc phải tiến hành tồn diện trên tất cả các mặt khơng được xem
nhẹ mặt nào. Thương nghiệp, giá cả phải góp phần xây dựng các mối quan hệ
lớn và giải quyết những mâu thuẫn trên con đường tiến lên để xây dựng, củng
cố quan hệ sản xuất mới, phục vụ xây dựng kinh tế kết hợp củng cố quốc
phòng; phải nhận rõ sự phát triển kinh tế hàng hoá ở miền Bắc trong cả thời kỳ
quá độ là khách quan; phải dựa vào thị trường trong nước là chính, trước mắt
và chủ yếu là thị trường nông thôn; phải mở rộng giao lưu hàng hố trong nước
và với nước ngồi; phải tiếp tục tăng cường lực lượng thương nghiệp quốc
doanh và hợp tác xã mua bán; phải coi trọng cả hai mặt giá trị sử dụng và giá
trị của hàng hoá; kết hợp chặt chẽ thị trường thống nhất toàn miền Bắc.
Thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, miền Bắc đã giành được những
thắng lợi to lớn đưa miền Bắc thực sự trở thành căn cứ địa của cách mạng cả
nước và hậu phương lớn của cách mạng miền Nam. Thắng lợi đó chứng minh
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc của Đảng là đúng đắn, củng
cố thêm niềm tin, xây dựng ý chí quyết tâm cho quân dân cả nước vào thực
hiện nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
2.4. Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1965 đến 1975
a. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng chuyển hướng xây dựng kinh tế ở
miền Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968).
Đến năm 1965, miền Bắc đã có hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội,
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất sắp hồn thành thì đế quốc Mỹ chuyển sang
“chiến tranh cục bộ” và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Bom đạn của
đế quốc Mĩ đe doạ trực tiếp những thành quả của chủ nghĩa xã hội được xây

dựng hơn 10 năm qua. Trước tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
liên tiếp họp Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 (3-1965) và lần
thứ 12 (12- 1965) xác định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đối với miền
Bắc, phương hướng nhiệm vụ chung là: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược”. Nhiệm vụ cụ thể là:
Xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc của cách mạng miền
Nam, đồng thời bảo đảm đời sống cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu hậu cần tại chỗ.


15
Đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế
quốc Mỹ.
Tăng cường chi viện cho miền Nam, tích cực giúp đỡ cách mạng Lào và
cách mạng campuchia.
Miền Bắc vẫn tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội song phải chuyển
hướng xây dựng kinh tế phù hợp với tình hình cả nước có chiến tranh. Sự
chuyển hướng đó thể hiện trên các mặt sau:
Về kinh tế, chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp với tình
hình miền Bắc có chiến tranh phá hoại, bảo đảm được yêu cầu chiến đấu, sẵn
sàng chiến đấu, tăng cường chi viện cho miền Nam, song vẫn bảo đảm được
phương hướng lâu dài của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về quốc phòng, tăng cường về mọi mặt; phát động phong trào tồn dân
phịng tránh, tồn dân chống chiến tranh phá hoại của địch. Tranh thủ sự giúp
đỡ về vũ khí và phương tiện chiến tranh của các nước anh em.
Về tư tưởng và tổ chức, làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận rõ âm mưu của
địch, chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến.
Giao thơng vận tải phải tăng cường lực lượng cán bộ, phương tiện và vật
chất. Trên các tuyến đường giao thông thực hiện khẩu hiệu “địch phá, ta cứ
đi”, “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”.
Chủ trương của Đảng được quán triệt trong toàn Đảng, toàn dân. Phong

trào thi đua thi đua: Mỗi người làm việc bằng hai, ra sức xây dựng và bảo vệ
miền Bắc, tích cực chi viện cho cách mạng miền Nam của Hồ Chủ tịch, trở
thành phong trào cách mạng tự giác trong các ngành, các đoàn thể thi đua xây
dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện cho miền Nam.
Trong nơng nghiệp có phong trào thi đua “tay cày tay súng” phấn đấu đạt
3 mục tiêu (5 tấn thóc, 2 con lợn, 1 lao động trên 1 héc ta gieo trồng), nhiều
điển hình sản xuất, thâm canh giỏi xuất hiện. Trong công nghiệp, phong trào
thi đua “tay búa tay súng” đã giữ vững sản xuất, một số ngành có phát triển.
Các lĩnh vực thương nghiệp, tài chính, giao thơng vận tải, văn hố, giáo dục, y
tế vẫn duy trì hoạt động và đạt hiệu quả cao. Các đồn thể nhân dân thi đua sơi
nổi, khẩn trương với lịng nhiệt tình cách mạng và tinh thần quyết thắng cao.
Hàng vạn thanh niên với tinh thần “Ba sẵn sàng” được điều động vào chiến


16
đấu và phục vụ chiến đấu. Phụ nữ đảm bảo xây dựng hậu phương với tinh thần
“Ba đảm đang”. Phụ lão có phong trào “Ba hăng hái”…
Trong 4 năm (từ 5-8-1964 đến 1-11-1968), quân và dân miền Bắc vừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chi viện mọi mặt cho miền Nam với tinh thần
“Thóc khơng thiếu một cân, qn khơng thiếu một người”. Miền Bắc cịn đánh
thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ vào miền Bắc,
bắn rơi 3.234 máy bay, diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mỹ. Bắn chìm và
bắn cháy 143 tàu chiến. Bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc, đế quốc
Mĩ buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc kể từ ngày 31-3-1968 và
ngừng hoàn toàn ném bom trên miền Bắc từ ngày 1-11-1968.
b. Đảng lãnh đạo xây dựng miền Bắc, chi viện cho miền Nam, đánh thắng
chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ từ năm 1969 đến năm 1973.
Bị thất bại nặng nề trong chiến tranh cục bộ, từ ngày 1-11-1968, đế quốc
Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện ném bom phá hoại miền Bắc
từ Vĩ tuyến 20 trở ra. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung lần

thứ 19 của Đảng (1-1971) đã xác định: khôi phục và phát triển kinh tế ở miền
Bắc là nhằm bảo đảm cho miền Bắc làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối
với tiền tuyến lớn miền Nam, đối với cách mạng Lào và cách mạng
campuchia. Hội nghị đề ra đường lối phát triển kinh tế trong bước đi ban đầu
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: Ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
xây dựng kinh tế trung ương, đồng thời phát triển kinh tế địa phương, kết hợp
kinh tế với quốc phịng.
Phương hướng, nhiệm vụ khơi phục và phát triển kinh tế trong những
năm trước mắt (1971-1973) là: tập trung sức đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp,
sản xuất hàng tiêu dùng, khôi phục và phát triển công nghiệp nhẹ; khôi phục và
phát triển những ngành công nghiệp nặng chủ chốt phục vụ thiết thực cho nông
nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng; khôi phục và phát triển giao thông vận tải
phục vụ kịp thời cho chiến đấu, sản xuất, xây dựng và đời sống.
Sau Hội nghị lần thứ 19, đầu năm 1972 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp Hội nghị lần thứ 20 bàn về cải tiến quản lý kinh tế nhằm từng bước xây
dựng hệ thống quản lý kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của miền Bắc. Hội


17
nghị chỉ ra nhiệm vụ cải tiến công tác quản lý ở tất cả các khâu như: kế hoạch,
hạch toán kinh tế, khoa học kỹ thuật, tổ chức bộ máy quản lý…
Giữa lúc nhân dân ta đang dồn sức khôi phục kinh tế và đẩy mạnh cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
vĩnh biệt chúng ta tại Hà Nội. Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, học tập và làm theo Di chúc của Bác, biến đau thương
thành hành động cách mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã tập trung
sức khôi phục và phát triển kinh tế, chi viện cho miền Nam. Chủ trương khôi
phục kinh tế được biến thành hành động cách mạng rộng lớn của quần chúng
và đã đạt được những kết quả rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, công

nghiệp, giao thông vận tải, giáo dục, văn hố, y tế, quốc phịng an ninh.
Trong khi nhân dân miền Bắc tranh thủ điều kiện có hồ bình khơi phục
và phát triển kinh tế đạt được những thành tựu mới, tăng cường tiềm lực cho
cuộc chống Mỹ cứu nước, nhân dân miền Nam cũng giành được những thắng
lợi có ý nghĩa chiến lược trong Xuân - Hè 1970 và năm 1971. Đặc biệt là cuộc
tiến công chiến lược năm 1972 đã làm cho chiến lược “Việt Nam hoá chiến
tranh” của đế quốc Mỹ đứng trước nguy cơ phá sản.
Để cứu vãn nguy cơ thất bại, từ tháng 4-1972 đế quốc Mĩ đánh phá trở lại
miền Bắc. Cuối năm 1972, đế quốc Mĩ đã huy động một lực lượng lớn khơng
qn chiến lược tập kích vào Hà Nội, Hải Phòng, các khu dân cư lớn với mức
độ tàn phá, huỷ diệt nhằm ngăn chặn và cắt đứt sự chi viện của miền Bắc đối
với mền Nam, phá hoại tiềm lực kinh tế, quân sự, uy hiếp tinh thần quyết thắng
Mĩ của nhân dân ta. Trước tình hình đó, ngày 1- 6 - 1972 Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương chuyển hướng mọi mặt ở miền Bắc,
quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong mọi tình huống, đẩy mạnh sản
xuất và chiến đấu phù hợp với thời chiến.
Thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân miền Bắc đã nhanh chóng
chuyển mọi hoạt động sang thời chiến; mở rộng thêm lực lượng phòng không
và các lực lượng vũ trang nhân dân, đánh bại chiến tranh phá hoại của địch,
bảo đảm yêu cầu tuyển quân và lao động phục vụ chiến trường, bảo đảm hậu
cần tại chỗ; tăng cường công tác tư tưởng, xây dựng quyết tâm trong toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.


18
Vượt lên khó khăn, đau thương và sự ác liệt chưa từng có của những cuộc
ném bom, phong toả, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong cuộc chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ 6-4-1972 đến 15-1-1973) miền Bắc đã
giành thắng lợi to lớn, đặc biệt là trận “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm
1972 trên bầu trời Hà Nội, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (27-1-1973) rút hết

quân Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta. Nhân dân ta đã thực hiện được quyết tâm
“đánh cho Mỹ cút”, để tiến lên “đánh cho nguỵ nhào”.
c. Đảng lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển
kinh tế, ra sức chi viện cho miền Nam (1973-1975).
Sau Hiệp định Pari, nhân dân miền Bắc được sống trong hồ bình, phấn
khởi, tin tưởng, tự hào, lại tiếp tục hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục
và phát triển kinh tế, văn hố làm trịn nhiệm vụ hậu phương lớn của mình.
Thực tiễn địi hỏi Đảng ta phải có đường lối thích hợp, vừa kiên quyết đẩy
mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Tháng 6-1973, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp,
quyết định 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế (1973-1975) nằm trong quá
trình thực hiện bước đi ban đầu của thời kỳ cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc. Tiếp theo Hội nghị Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng họp Hội nghị lần thứ 21 (7-1973) và Hội nghị lần thứ 22 (12-1973) xác
định nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn
cách mạng mới là : nâng cao cảnh giác sẵn sàng đánh bại âm mưu của đế quốc
Mỹ và tay sai, ra sức làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn
miền Nam, làm tròn nhiệm vụ quốc tế với cách mạng Lào và cách mạng
Campuchia. Hội nghị thông qua kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế miền
Bắc trong 2 năm 1973-1974 nhằm đạt 3 yêu cầu chính:
Một là, động viên và tổ chức mọi lực lượng lao động xã hội vào sản xuất,
xây dựng khí thế sơi nổi đẩy mạnh sản xuất, đưa sản xuất lên bằng hoặc cao
hơn mức đã đạt được năm 1965. Phấn đấu đến năm 1975 thu nhập quốc dân đủ
cho quỹ tiêu dùng xã hội, bảo đảm tốt yêu cầu chi viện cho miền Nam.
Hai là, củng cố một bước quan hệ sản xuất trong cả hai khu vực quốc
doanh và tập thể.


19

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý nhà nước,
chấn chỉnh công tác quản lý kinh tế từ Trung ương đến cơ sở.
Thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân miền Bắc hăng hái lao động
sản xuất, ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Sau 2 năm (1973-1974), miền Bắc
đã cơ bản khôi phục xong các cơ sở kinh tế. Trong nông nghiệp, các cơng trình
thuỷ nơng được khơi phục xong. Giao thông vận tải đã sửa chữa, khôi phục và
mở rộng nhiều tuyến đường, năng lực vận tải và khối lượng hàng hố vận
chuyển tăng lên rõ rệt. Trong cơng nghiệp, tồn bộ các nhà máy được phục hồi.
Văn hố, giáo dục, y tế đều được khôi phục và phát triển tốt.
Để đáp ứng ngày càng đầy đủ yêu cầu chi viện cho các chiến trường, từ
tháng 3-1973 đến đầu năm 1975 chương trình mở rộng và hồn thiện hệ thống
đường chiến lược Đông và Tây Trường Sơn được xúc tiến mạnh. Với tinh thần
“Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, chưa bao giờ sức người, sức của từ hậu phương
lớn đổ ra tiền tuyến nhiều như thế. Thế và lực của cách mạng miền Nam đã áp
đảo địch. Trên cơ sở đó, tháng 1-1975 Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng
hồn tồn miền Nam trong 2 năm 1975-1976, đồng thời dự kiến khi thời cơ
xuất hiện có thể giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Trong những năm 1973 - 1975, nhân dân miền Bắc đã đạt được những
thắng lợi cực kỳ to lớn trong khôi phục và phát triển kinh tế và chi viện cho
miền Nam, đồng thời là nhân tố quyết định sự nghiệp giải phóng miền Nam
vào mùa Xuân năm 1975.
3. Thành tựu và kinh nghiệm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc (1954 - 1975)
3.1. Thành tựu, khuyết điểm và nguyên nhân
a. Thành tựu
Trải qua hơn 20 năm bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà
thực sự chỉ có 8 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong hồ bình, nhưng miền
Bắc đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào trên các mặt chủ yếu sau.
Đã xố bỏ được chế độ người bóc lột người, xác lập được chế độ sở hữu
xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức chủ yếu là sở hữu tồn dân và sở hữu tập

thể. Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm 99,7% tài sản cố định, giữ vị


20
trí then chốt và vai trị quyết định trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở vật chất,
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng bước đầu theo phương hướng
tiến lên sản xuất hiện đại và một nền kinh tế độc lập tự chủ. Những cơ sở đầu
tiên của công nghiệp nặng quan trọng đã được xây dựng. Một số ngành cơng
nghiệp nhẹ hình thành và phát triển. Mạng lưới giao thông vận tải được mở
rộng. Trong nơng nghiệp, cùng với phong trào hợp tác hố, các cơng trình thuỷ
lợi được xây dựng. Nhiều thành tựu khoa học được ứng dụng vào sản xuất góp
phần tăng năng suất lao động. Một cơ cấu kinh tế mới phù hợp với bước đi ban
đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang từng bước hình thành. Sự
nghiệp giáo dục, văn hố, y tế, phát triển mạnh.
Cơng cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã bước đầu
kiến lập được một hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa với quan hệ sản
xuất mới và những cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa xã hội, với
một Nhà nước chun chính vơ sản được củng cố, cùng với hệ tư tưởng và nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa, đem lại những thay đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực.
Miền Bắc đã làm tròn nghĩa vụ của hậu phương đối với tiền tuyến. Hàng
triệu thanh niên miền Bắc đã hăng hái lên đường vào Nam chiến đấu cùng
quân dân miền Nam. Con em nhân dân miền Bắc thuộc nhiều thế hệ đã có mặt
trên khắp chiến trường miền Nam hoạt động trên nhiều lĩnh vực: chiến đấu,
phục vụ chiến đấu, vận tải, y tế, giáo dục, nghệ thuật, thơng tin liên lạc… góp
phần xây dựng hậu phương tại chỗ ở miền Nam trong các vùng giải phóng và
giúp đỡ cách mạng Lào, cách mạng Campuchia.
Miền Bắc không chỉ chi viện cho miền Nam nguồn nhân lực dồi dào, mà
còn chi viện một khối lượng vật chất khổng lồ: hàng triệu tấn vũ khí, lương
thực, phương tiện kỹ thuật khác, đáp ứng đầy đủ và kịp thời cho chiến trường
miền Nam ở mọi thời điểm lịch sử.

Sự lớn mạnh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa còn là nguồn cổ vũ động
viên tinh thần vô cùng to lớn đối với miền Nam trong cuộc đấu tranh trực tiếp
chống đế quốc Mỹ và tay sai.
Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã tạo ra một hậu
phương tại chỗ vững chắc, củng cố và phát triển tiềm lực quốc phòng để tiến
hành cuộc chiến tranh nhân dân chia lửa với miền Nam giành thắng lợi. Đồng


21
thời chứng tỏ sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội, quyết tâm và sức mạnh
của chân lý “Không có gì q hơn độc lập tự do” của nhân dân ta.
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đứng vững trong chiến tranh còn
là nhịp cầu nối liền các nước xã hội chủ nghĩa với cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta; tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn có hiệu quả
của các nước anh em bè bạn trên thế giới đối với cách mạng Việt Nam.
Thành tựu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc là
thực tiễn sinh động, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo và độc lập, tự
chủ của Đảng ta trong việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai
miền đất nước; vận dụng kết hợp hai quy luật : quy luật của chiến tranh cách
mạng và quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b. Khuyết điểm
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề ra cơ bản là đúng. Tuy
nhiên, khi tổ chức thực hiện Đảng chưa kịp thời cụ thể hoá và vận dụng tốt vào
các kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, vào phương hướng, nhiệm vụ và bước
đi của từng ngành, từng địa phương và cơ sở. Quá trình lãnh đạo và chỉ đạo
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa quán triệt đầy đủ đặc điểm miền
Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, do đó nhận thức chưa đầy đủ những vấn đề
có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, trong chỉ đạo chưa nắm vững và giải quyết đúng đắn mối quan

hệ giữa cải tạo quan hệ sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất. Phương
hướng và chỉ đạo xây dựng hợp tác xã nơng nghiệp chưa phù hợp, thậm chí
đưa quy mô hợp tác xã lên quá cao, không tương xứng với lực lượng sản xuất,
làm kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan điểm, chủ trương công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa chưa được thấu
suốt trong mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, mới chỉ được coi là nhiệm vụ
của Nhà nước, của thành phần kinh tế quốc doanh. Quá trình đầu tư cho phát
triển tràn lan, đề ra mục tiêu, quy mô lớn, chưa hướng vào phục vụ đắc lực cho
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế trung ương và kinh
tế địa phương, chưa chú ý phát triển đúng mức kinh tế địa phương.


22
Bộ máy quản lý và tổ chức thực hiện kém năng lực, pháp chế xã hội chủ
nghĩa lỏng lẻo. Trình độ quản lý kém, phương hướng sản xuất không rõ ràng,
kế hoạch sản xuất chưa cụ thể; việc tổ chức lao động và thực hiện phân công
lao động chưa tốt; quản lý kinh tế theo lối quan liêu, hành chính, xem nhẹ năng
suất, hiệu quả và chất lượng; tổ chức thủ công, phân tán, chia cắt; cách làm
việc chưa sát thực tế, chưa sát quần chúng, cịn hình thức giấy tờ.
Trong lĩnh vực lưu thơng, phân phối, tài chính, ngân hàng, giá cả, tiền
lương... có những nhận thức và thực hiện không đúng làm cản trở việc đẩy
mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân.
Nguyên nhân khuyết điểm
Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng xã hội mới, đời sống mới về
mọi mặt ở miền Bắc là việc làm mới đối với Đảng và nhân dân miền Bắc.
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nền
kinh tế sản xuất nhỏ, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá không qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa phải vượt qua nhiều khó khăn, phải giải quyết
nhiều vấn đề phức tạp nên rất khó tránh khỏi những khuyết điểm, vấp váp.

Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa hơn 20 năm nhưng thực
chất thời gian cho hồ bình xây dựng chỉ có 8 năm, thời gian cịn lại chủ yếu
phải dồn sức, dồn lực để chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và thực
hiện nhiệm vụ quốc tế.
Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng
ta chưa kịp thời tổng kết kinh nghiệm để rút ra những bài học cần thiết và
những nguyên tắc chỉ đạo cho mọi hoạt động cách mạng.
Cơng tác điều tra, nghiên cứu tình hình, nắm vững thực tế đất nước làm
cơ sở chắc chắn cho việc định ra chủ trương, thiết lập qui hoạch, xác lập kế
hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội chưa được chú ý. Bộ máy quản lý và
tổ chức thực hiện tỏ ra kém cỏi, kém hiệu lực. Mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong
hệ thống chuyên chính vơ sản chưa thực hiện tốt chức năng của mình. Pháp
chế xã hội chủ nghĩa không được đề cao. Mối quan hệ Đảng, Nhà nước và
nhân dân chưa được phân định rõ ràng.
Công tác xây dựng Đảng, công tác tư tưởng, công tác tổ chức, cán bộ
chưa gắn liền xây dựng bộ máy với xây dựng chức trách, cải tiến lề lối làm


23
việc và nâng cao chất lượng đảng viên. Phương thức lãnh đạo và công tác của
Đảng chậm cải tiến, công tác đoàn thể quần chúng chưa bám sát sản xuất và
đời sống xây dựng chủ nghĩa xã hội …
3.2. Những kinh nghiệm của quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc
Thứ nhất, đánh giá đúng hiện thực khách quan, xác định đúng nhiệm vụ,
mục tiêu cách mạng
Để đưa cách mạng đến thành cơng, điều có ý nghĩa quan trọng đối với
Đảng cách mạng phải nhận định, đánh giá đúng hiện thực khách quan.
Thực tế hơn 20 năm lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc của
Đảng cho thấy, có đánh giá đúng hiện thực khách quan mới định ra đường lối,

chủ trương, chính sách đúng đắn và mang lại thắng lợi cho cách mạng.
Sau năm 1954, miền Bắc được giải phóng, Đảng sớm xác định phương
hướng và quyết tâm đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Đó là mục tiêu, phương hướng đúng đắn, sáng tạo
phù hợp với thực tiễn miền Bắc khi đã cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân.
Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc phải
trải qua nhiều kế hoạch kinh tế, xã hội khác nhau, song nguyên tắc chiến lược
không thay đổi của Đảng là đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, qua tìm tịi,
khảo sát, tiếp cận với thực tiễn, Đảng đã hoạch định được đường lối cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phù hợp với thực tiễn đất nước và con người Việt
Nam thể hiện tập trung ở Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng. Đảng còn
thành công trong việc xác định các nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể cho từng thời
kỳ, từng kế hoạch cải tạo, xây dựng, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó, Đảng đã huy động và phát huy tối đa sức mạnh dân tộc kết hợp với
sức mạnh thời đại, tiến hành cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo nhân
quyết quyết định đưa sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
đến thắng lợi.
Thực tiễn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ 19541975 cũng cho thấy, khi Đảng đánh giá không đúng hiện thực khách quan,


24
không thấy rõ đặc điểm của miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền
kinh kế nông nghiệp lạc hậu đề ra chủ trương, mục tiêu quá cao, khơng thực tế
thì khơng phát huy tối đa sức lao động của nhân dân, làm chậm tiến trình đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, trên cơ sở xác định đúng nhiệm vụ, mục
tiêu, chiến lược của cách mạng, đồng thời phải xác định và từng bước bổ sung,
phát triển mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho phù hợp với từng thời kỳ cụ thể.

Thứ hai, chỉ đạo chiến lược chính xác, kịp thời, phù hợp với từng thời kỳ
lịch sử.
Ngay từ Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (8-1955),
Đảng đã xác định trong bất kỳ tình huống nào miền Bắc cũng đi lên chủ nghĩa
xã hội. Thực hiện quyết tâm đó, Đại hội lần thứ III của Đảng đã vạch ra đường
lối chung cho cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đó là những vấn đề
chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Từ sau Đại hội lần thứ III của Đảng, đường lối, mục tiêu chiến lược cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc được Đảng tiếp tục bổ sung và phát triển.
Để thực hiện đường lối, mục tiêu chiến lược, quá trình chỉ đạo cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đảng ln bám sát thực tiễn phát triển của tình
hình, chỉ đạo chiến lược kiên quyết, chính xác kịp thời phù hợp với từng thời
kỳ lịch sử, do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã giành thắng lợi.
Năm 1954, miền Bắc được giải phóng. Căn cứ vào điều kiện thực tế của
miền Bắc, Đảng chủ trương trong 3 năm (1954 - 1957) phải tập trung khôi
phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh mà trọng tâm là khôi phục và
phát triển nông nghiệp. Bước chỉ đạo chiến lược này tạo cơ sở kinh tế - xã hội
cho bước phát triển tiếp theo. Do đó, nền kinh tế miền Bắc khơng những được
phục hồi mà cịn tạo điều kiện cho phát triển trong những năm tiếp theo.
Tiếp theo đó, thành cơng nổi bật trong chỉ đạo chiến lược của Đảng là
chuyển hướng xây dựng kinh tế, tiếp tục sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện cả nước có chiến tranh (1965-1973). Sự chỉ đạo đúng đắn,
chính xác, kịp thời của Đảng đã đảm bảo cho miền Bắc vừa duy trì được sản
xuất; vừa chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng; vừa giữ vững, ổn định đời
sống và trật tự, an toàn xã hội. Kết hợp mục tiêu chiến lược đúng đắn với chỉ
đạo chiến lược sáng tạo, linh hoạt, Đảng đã phát huy được sức mạnh tổng hợp


25
của lý tưởng độc lập thống nhất và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước và

quốc tế xây dựng và bảo vệ miền Bắc, chi viện tích cực cho miền Nam và làm
tròn nhiệm vụ quốc tế với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.
Trong từng lĩnh vực sản xuất, xây dựng và chiến đấu, Đảng cũng thành
công lớn trong chỉ đạo chiến lược.
Đối với nông nghiệp, Đảng xác định đây là lĩnh vực quan trọng cần được
duy trì sản xuất ở mức độ thích hợp, tập trung cho phát triển trồng trọt, đưa
chăn nuôi lên thành ngành sản xuất chính, gắn trồng trọt với chăn ni; điều
chỉnh các kế hoạch hiện đại hố nơng nghiệp, hướng nơng nghiệp vào phục vụ
cho yêu cầu chiến tranh và giữ vững đời sống nhân dân trong chiến tranh.
Đối với công nghiệp, đây là lĩnh vực có thể đáp ứng yêu cầu lớn cho quốc
phòng, chiến tranh và đời sống nhân dân, đồng thời cũng là mặt trận mà kẻ thù
tập trung chống phá. Đảng chỉ đạo tạm dừng xây dựng những cơng trình lớn,
phân tán, sơ tán những xí nghiệp, cơ sở sản xuất có thể làm được cịn lại phải
bảo vệ để duy trì sản xuất ổn định. Một số các cơ sở công nghiệp quan trọng
như: điện, than, cơ khí, giao thơng vận tải phải đặc biệt chú ý giữ vững và đẩy
mạnh sản xuất. Tăng cường công nghiệp địa phương và công nghiệp nhẹ, công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nhằm đảm bảo nhu cầu tại chỗ và đáp ứng yêu
cầu đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, về chỉ đạo chiến lược trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc vẫn còn nhiều yếu kém trong xác định bước đi của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, trong nhận thức chưa thấu hiểu đầy đủ
phương châm “ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” lên chủ nghĩa xã hội, do
đó có lúc đã đưa quan hệ sản xuất đi quá xa so với lực lượng sản xuất làm ảnh
hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và toàn bộ q trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Những thành cơng và những khuyết điểm, yếu kém trong chỉ đạo chiến
lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc hơn 20 năm cho thấy: muốn chỉ
đạo chiến lược đúng đắn phải nắm vững mục tiêu chiến lược và thực tiễn của
đất nước ở mỗi giai đoạn, thời kỳ cách mạng cụ thể; phải chủ động, nhạy bén
và giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh. Đồng thời phải nêu cao

nguyên tắc độc lập tự chủ, phòng và chống tư tưởng “tả” hoặc hữu khuynh.


×