Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Một số vấn đề đặt ra qua sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.9 KB, 11 trang )

Một số vấn đề đặt ra qua sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế
Thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 c ủa Bộ Chính
trị về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã giai đoạn
2019 – 2022, tỉnh Thừa Thiên Huế là một trong những địa phương đi đầu
sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp xã. Kết quả đạt được bước đầu là khả
quan và nhận sự đồng tình, ủng hộ của đa số cán bộ, công chức và Nhân
dân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, trong q trình s ắp xếp cũng gặp nhiều
khó khăn, bất cập, cần được đánh giá, phản ánh cũng như sự quan tâm
nghiên cứu, điều chỉnh của các cấp, ngành, đơn vị chức năng có liên quan
nhằm bảo đảm hiệu quả tốt nhất cho quá trình sắp xếp đơn vị hành chính
trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh.

Ảnh minh họa. Nguồn: huecity.gov.vn.
Thực trạng q trình sắp xếp
Tính đến ngày 31/12/2018, t ỉnh Thừa Thiên Huế có 152 đơn vị hành chính
(ĐVHC) cấp xã,gồm 105 xã, 39 phư ờng và 08 thị trấn. Trong đó, s ố ĐVHC
cấp xã đạt cả hai tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên và quy mơ dân số có 30


đơn vị; số ĐVHC cấp xã chưa đạt tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mơ
dân số theo quy định có 122 đơn vị; số ĐVHC cấp xã chưa đạt tiêu chuẩn
về diện tích tự nhiên và quy mơ dân s ố nhưng có cả 2 tiêu chuẩn đều đạt từ
50% trở lên có 42 đơn vị; số ĐVHC cấp xã có một tiêu chuẩn đạt từ 50%
trở lên, tiêu chuẩn cịn lại chưa đạt 50% có 73 đơn v ị. Trong 73 ĐVHC cấp
xã này có 44 đơn vị chưa đạt 50% tiêu chuẩn diện tích tự nhiên, 29 xã chưa
đạt 50% tiêu chuẩn quy mô dân số. Số ĐVHC cấp xã có cả hai tiêu chuẩn
về diện tích tự nhiên và quy mơ dân số đều chưa đạt 50% theo quy đ ịnh
gồm có 7 xã. Tính đến ngày 31/6/2021, s ố lượng ĐVHC cấp xã của tỉnh là
145, gồm: 98 xã (giảm 7 xã so với trước), 39 phường và 8 thị trấn 1 .
Từ thực tiễn sắp xếp ĐVHC cấp xã tại Thừa Thiên Huế trong thời gian qua


đã xuất hiện một số hạn chế, bất cập sau:
Thứ nhất, quy trình triển khai, tham vấn ý kiến Nhân dân trong sắp xếp
ĐVHC cấp xã.
Thực hiện Nghị quyết số 834/NQ-UBTVQH14 ngày 17/12/2019 c ủa
UBTVQH về việc sắp xếp ĐVHC cấp xã thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, ngày
16/8/2019, Ủy ban nhân dân (UBND) t ỉnh Thừa Thiên Huế ban hành Đề án
số 196/ĐA-UBND sắp xếp ĐVHC cấp xã trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
giai đoạn 2019 – 2021 và một số văn bản quy định về chế độ, chính sách
trong thực hiện sắp xếp ĐVHC. Để thể chế hóa chủ trương, chính sách và
phổ biến, tun truyền về việc sắp xếp ĐVHC cấp xã tỉnh Thừa Thiên Huế,
Hội đồng nhân dân tỉnh (HĐND) tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Nghị
quyết số 13/2019/NQ-HĐND ngày 19/8/2019 quy đ ịnh chính sách h ỗ trợ
đối với cán bộ, công chức (CBCC), viên chức, người hoạt động không
chuyên trách cấp xã dôi dư do s ắp xếp ĐVHC cấp xã và thực hiện Nghị
định số 34/2019/NĐ-CP của Chính phủ…
Với quyết tâm chính trị cao, ngày 29/6/2019, UBND t ỉnh Thừa Thiên Huế
đã tổ chức Hội nghị triển khai chủ trương cho cán bộ chủ chốt trực tiếp bị
tác động; qua phương ti ện truyền thông đại chúng để quán triệt, tuyên
truyền đến CBCC và Nhân dân toàn tỉnh nhằm tạo sự đồng thuận, ủng hộ
việc thực hiện sắp xếp các ĐVHC cấp xã.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát dư luận xã hội có đến 71,7% Nhân dân rất
đồng thuận và đồng thuận, song cũng có đ ến 21,2% chưa đồng thuận, và có
đến 8,5% phản ứng. Việc lấy ý kiến cử tri đại đa số đồng thuận cao, kết
quả lấy ý kiến cử tri ở 14 xã sáp nhập được đồng thuận cao. Có 9 xã cử tri


đồng thuận trên 80%, 4 xã cử tri đồng thuận từ 60% – 80%. Nhiều xã đạt tỷ
lệ rất cao như: xã Hương Hòa: 97,78%, Vinh Giang: 97,8%, Vinh Thái :
99,38%. Tuy nhiên, kết quả lấy ý kiến cử tri có một số địa phương kết quả
thấp có đến 43,11% không đồng ý (Hồng Tiến, thị xã Hương Trà) và xã

Hương Giang (Nam Đông) ch ỉ 69,76% đồng ý 2 .
Sở dĩ có tình trạng trên là do cơng tác tuyên truy ền nhằm ổn định tư tưởng
người dân về kinh tế – xã hội nếu chia tách, sáp nh ập ĐVHC không hi ệu
quả, làm cho người dân hoang mang v ề điều kiện, hoàn cảnh sinh sống sau
sắp xếp. Từ đó, có thể thấy, do nhận thức của một bộ phận CBCC và người
dân vận động cử tri không đồng thuận, phải bỏ phiếu 2 lần, ảnh hưởng đến
tiến độ sắp xếp. Qua khảo sát ở một số địa phương, chính quyền các cấp
trong q trình triển khai quy trình chưa th ật sự bám sát địa bàn, thậm chí
“khốn trắng” cho CBCC trên địa bàn. Điều này cho thấy, quy trình thực
hiện lấy ý kiến cử tri thiếu chặt chẽ; công tác vận động, tuyên truyền chủ
trương đến người dân chưa thật sự có hiệu quả, nhất là vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc ít người, (qua kết quả khảo sát Biểu 1 dưới đây, có đến 25%
người được khảo sát xác định khơng được chính quyền lấy ý kiến và 0,9%
Nhân dân không đư ợc tham gia bàn bạc) 3 .

Thứ hai, sắp xếp CBCC, người hoạt động không chuyên trách


Cùng với sắp xếp tổ chức đảng, các tổ chức chính trị – xã hội, các địa
phương sắp xếp, cơ cấu lại chính quyền cấp xã một cách khẩn trương, cụ
thể: HĐND cấp xã mới hình thành trên cơ s ở đại biểu HĐND của các xã cũ.
HĐND ở xã mới hoạt động cho đến hết nhiệm kỳ 2016 – 2021 theo quy
định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương với số lượng đại biểu giữ
nguyên số lượng đại biểu HĐND hai xã cũ. HĐND sau b ầu cử nhiệm kỳ
2021 – 2016 được thực hiện theo luật định, số lượng giảm đi gần 50%. Số
cán bộ không đủ tiêu chuẩn, thiếu năng lực không giới thiệu bầu vào
HĐND nhiệm kỳ mới. UBND cấp xã mới thành lập tại kỳ họp thứ nhất của
HĐND mới tiến hành bầu chủ tịch UBND; bầu phó chủ tịch, ủy viên UBND
để điều hành hành chính.
Về sắp xếp, bố trí nhân sự được tiến hành như sau:

– Đối với cán bộ: tổ chức sắp xếp CBCC theo 3 hư ớng cơ bản:
Cán bộ cấp xã được bố trí, sắp xếp lại trên nguyên tắc phải đủ tiêu chuẩn
để tái cử nhiệm kỳ cấp ủy 2020 – 2025 và các chức danh lãnh đạo HĐND,
UBND nhiệm kỳ 2021 – 2026 hoặc điều động, bố trí ở đơn vị khác. Đối
với cán bộ khơng đủ điều kiện (tuổi, tiêu chuẩn tái cử), đủ điều kiện nghỉ
hưu thì vận động nghỉ hưu; đối với cán bộ khơng đủ điều kiện chuyển qua
cơng chức thì vận động nghỉ theo chế độ quy định. Sau sắp xếp, trên 7 xã
mới dôi dư 58 cán bộ. Đến ngày 31/12/2021,t ỉnh Thừa Thiên Huế đã sắp
xếp cơ bản, chỉ còn 12 cán bộ đang tiếp tục thực hiện điều chuyển, chờ
nghỉ hưu theo chế độ.
– Đối với công chức: nguyên tắc bố trí đúng vị trí việc làm hoặc điều
chuyển. Số khơng bố trí được tạm thời bố trí theo chức danh và chấp nhận
tăng số lượng. Tuy nhiên, số tăng thêm khơng đư ợc vượt q số lượng hiện
có sau khi sáp nhập.
Qua sắp xếp, công chức chuyên môn các xã m ới có số lượng gần gấp đơi,
số dôi dư đã tổ chức sát hạch, điều động về các cơ quan cấp huyện, cấp
tỉnh hoặc qua các xã khác được: 32 người; tinh giản biên chế: 31 người và
công chức nghỉ hưu: 14 ngư ời. Tuy nhiên số lượng cơng chức đến ngày
31/12/2021 chưa bố trí được cịn: 54 người, cá biệt huyện A Lưới dôi dư 42
công chức 4 . Hiện nay,số công chức chuyên môn trên 7 xã bình qn m ột vị
trí từ 3 – 4 người, có vị trí dơi dư gấp 3 lần định mức…
– Đối với người hoạt động không chuyên trách (KCT) cấp xã: số lượng
người làm việc KCT 14 xã sáp nhập là 215 người, đã bố trí được theo quy


định 85 người, dôi dư 130 ngư ời. Đến ngày 31/12/2021, cơ b ản đã giải
quyết nghỉ theo quy định.
Qua thực tế cho thấy quá trình sắp xếp ĐVHC cấp xã là cơ hội để rà soát,
đánh giá, sàng lọc,tinh giản biên chế đối với CBCC chưa đạt chuẩn hoặc
hạn chế về năng lực. Cơ hội sắp xếp, bố trí lại CBCC góp phần hồn thiện

tổ chức ĐVHC cấp xã, đạt được các mục tiêu cơ bản: tinh gọn bộ máy,
chuẩn hóa, vận hành phù hợp, hiệu lực, hiệu quả; tiết kiệm. Đặc biệt sàng
lọc, tuyển chọn được đội ngũ CBCC trẻ, năng động, đủ tiêu chuẩn và thích
ứng trong đổi mới, CCHC.
Tuy nhiên, quá trình s ắp xếp ĐVHC cấp xã, bố trí CBCC ln là khâu khó
nhất. Kết quả khảo sát cho thấy, trong 5 yếu tố khó khăn được CBCC và
người dân xác định là sắp xếp, bố trí CBCC (76,6%) và tinh giản dơi dư
(58,56%) 5 , trong 7 chức danh cơng chức cấp xã có ba chức danh cơng chức
khó bố trí, sắp xếp nhất đó là chức danh văn phịng – thống kê (71,3%),
chức danh địa chính – nơng nghiệp – xây dựng và môi trư ờng (65,7%) và
chức danh tư pháp – hộ tịch (57,6%) 6 . Mặt khác trong các chức danh sắp
xếp 58,2% cho các chức danh cấp phó HĐND, UBND là khó s ắp xếp,
18,1% là chức danh chủ tịch và 15,8% là chức danh bí thư, chức danh chủ
tịch HĐND chỉ 1,5% [Biểu 2] 7 .


Cùng với khó khăn trong s ắp xếp, bố trí đội ngũ CBCC đủ điều kiện tái cử,
bố trí lại, việc vận động CBCC nghỉ hưu trước thời hạn, tinh giản biên chế,
chuyển cơng tác, vị trí việc làm cũng là vấn đề khó khăn, nan giải đối với
chính quyền các cấp. Mặt dù được vận động, chuẩn bị tư tưởng trước song
nhiều vấn đề bất cập về chính sách, về chế độ làm cho việc sắp xếp đã khó
khăn lại càng khó khăn hơn. Vi ệc dơi dư đội ngũ CBCC có nhiều nguyên
nhân. Đó là vừa tinh giản do thực hiện chính sách đưa cơng an chính quy
về địa phương; vừa sắp xếp ĐVHC cấp xã theo Nghị quyết số
834/2019/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sắp xếp đơn
vị hành chính cấp xã giai đoạn 2019 – 2021 thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế;
vừa thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số quy định về CBCC cấp xã và người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố các xã đều giảm 2 định
mức CBCC. Mặt khác,tỉnh Thừa Thiên Huế có chủ trương đến ngày

31/12/2021 các địa phương phải bố trí xong số cơng chức dôi dư, trong lúc


Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép sắp xếp CBCC trong 5 năm, điều đó
tạo sức ép lớn và khó khả thi.
Thứ ba, thực hiện chế độ, chính sách trong s ắp xếp ĐVHC cấp xã.
Song song với việc sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí CBCC, ngư ời làm việc
KCT, tỉnh Thừa Thiên Huế từng bước giải quyết chính sách cho s ố CBCC
và người làm việc KCT. Trên cơ sở thực hiện Nghị định số 108/2014/NĐCP ngày 20/11/2014 c ủa Chính phủ về chính sách tinh giảm biên chế, Nghị
định số 113/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/8/2018, về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của
Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế. Để cụ thể hóa và hỗ trợ thêm
cho đối tượng dôi dư, HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành Nghị quyết số
13/2019/NQ-HĐND ngày 14/7/2020 nh ằm việc thực hiện chế độ, chính
sách cho CBCC, viên chức, người bán chuyên trách liên quan đ ến sắp xếp,
bố trí vị trí việc, tinh giản biên chế. Qua hai năm thực hiện, toàn tỉnh đã
dành 7.687.191.506 đồng giải quyết chế độ khi sắp xếp, bố trí lại CBCC,
trong đó giải quyết chế độ, chính sách và hỗ trợ cho CBCC viên chức là
4.562.319.506 đồng, người hoạt động KCT: 3.126.872.000 đ ồng. Tuy
nhiên, nhìn chung chế độ cịn q thấp. Qua khảo sát 421 CBCC chỉ có
12% cho là chế độ rất, thỏa đáng, 55,9% cho thỏa đáng, có đến 24,7% cho
không thỏa đáng 8 . Mặt khác, dân cư vùng dân t ộc thiểu số xã Hồng Tiến
(xã khu vực III) trư ớc đây được hưởng chế độ hỗ trợ bảo hiểm y tế trên
toàn xã, sau khi sáp nh ập vào xã mới (Bình Tiến)khơng cịn xã khu vực III,
khu vực II, một bộ phận dân cư không được hưởng chế độ này theo Quyết
định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
danh sách các xã khu vực I, II, III thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi giai đoạn 2021 – 2025, gây ra những thắc mắc, kiến nghị khá
phức tạp chưa xử lý được.
Thứ tư, cơ sở vật chất và sự vận hành của bộ máy sau sắp xếp ĐVHC.

Để ổn định hoạt động, các ĐVHC cấp xã mới sáp nhập khẩn trương phân
công CBCC chủ chốt tập trung giải quyết các vướng mắc, khó khăn do sắp
xếp ĐVHC mang lại. Việc sáp nhập ĐVHC đã tạo chuyển biến mới về phát
triển kinh tế – xã hội, nhất là tăng quy mơ v ề diện tích tự nhiên, quy mơ
dân số, tập trung được nguồn lực tạo thuận lợi cho việc phát triển hạ tầng,
chuyển dịch cơ cấu, hoạch định phát triển kinh tế theo hướng hàng hóa, thị
trường.


Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, các xã mới sáp nhập tiếp tục duy trì phong
trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng nơng thơn m ới; tạo sự
đồng thuận, liên kết giữa các dân tộc vốn có nhiều khác biệt về văn hóa,
tập tục sản xuất, lối sống như giữa dân tộc Pacô (Hồng Trung) và dân t ộc
Tà ôi, Cơ Tu (Bắc Sơn) tại xã Trung Sơn; giữa dân tộc Ca Tu (Hương Lâm)
và dân tộc Tà Ôi (A Đớt) của xã Lâm Đớt; giữa dân tộc Pa Cô (Hồng
Quảng) và dân tộc Tà Ơi (Nhâm) của xã Quảng Nhâm. Qua đó, góp phần
xây dựng đồn kết giữa các dân tộc, xóa bỏ bất đồng về văn hóa, tập tục
hay nạn xâm canh mang lại.
Một trong những thành công của việc sắp xếp ĐVHC cấp xã trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế không chỉ nâng cao được chất lượng bộ máy, CBCC
mà còn tiết kiệm chi ngân sách khá lớn, gần 50%. Sau khi sắp xếp đơn vị
hành chính cấp xã, tỉnh Thừa Thiên Huế giảm chi được 8.311.777.000
đồng, trong đó giảm chi lương, phụ cấp: 4.871.592.000 đ ồng; giảm chi phí
hành chính: 2.809.965.000 đ ồng; giảm chi khác: 630.220.000 đ ồng 9 .
Tuy nhiên, những khó khăn phải đối mặt trước mắt đó là thời gian đầu sáp
nhập do tổ chức bộ máy chưa ổn định, CBCC nhiều nhưng trụ sở làm việc
quy mô nhỏ, chật hẹp, điều kiện làm việc không tương thích, trong khi m ột
số trụ sở khơng sử dụng; trụ sở làm việc chưa tương xứng, tạo trở ngại
trong chỉ đạo, điều hành, thực hiện giao dịch của người dân. Mặt khác, do
trụ sở phải chọn một trong hai trụ sở cũ nên số trụ sở xã được bố trí làm

việc khơng nằm trung tâm địa lý, tạo ra một số khó khăn cho Nhân dân (xã
Giang Hải, xã Hương Xuân, Qu ảng Nhâm…). Qua khảo sát 340 người dân
có đến 70,6% cho bất tiện do xa trung tâm xã, 32,0% cho tr ụ sở chật hẹp,
quá tải, 27,6% chưa có cơ hội hưởng thụ các loại dịch vụ 1 0 .
Giải pháp khắc phục hạn chế từ những hạn chế qua sắp xếp đơn vị hành
chính của tỉnh Thừa Thiên Huế
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, triển khai thực hiện quy trình
sắp xếp ĐVHC đúng quy định.
Việc sắp xếp này tạo ra biến động lớn trong xã hội, nhất là sắp xếp CBCC;
thay đổi đời sống của một bộ phận dân cư ở các xã. Một bộ phận CBCC và
Nhân dân bị tác động bất lợi về việc làm, cuộc sống…, từ đó dễ chuyển
biến tiêu cực, thậm chí cịn vận động Nhân dân khơng đ ồng thuận với chủ
trương chung, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình sắp xếp. Vì vậy, để
triển khai, thực hiện hiệu quả, cấp ủy, chính quyền các cấp cần chú trọng


lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyềnlàm cho CBCC, Nhân dân
hiểu được mục đích, ý nghĩa của việc sắp xếp ĐVHC, nhất là các đối
tượng, địa phương bị tác động, thiệt thòi, ở các vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số. Việc vận động, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành
động trong toàn Đảng, CBCC và tồn xã hội có tính quyết định đến thành
cơng của sắp xếp ĐVHC hiện nay.
Hai là, hồn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến sắp
xếp ĐVHC.
Việc sắp xếp ĐVHC phải bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, có trọng tâm,
cách làm phù hợp, chặt chẽ, thận trọng, đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo
đảm sự lãnh đạo chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng; tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật và ổn định chính trị – xã hội. Đây là vấn đề mới, chứa
đựng sự khác biệt, tiềm ẩn xung đột, rủi ro do thiếu tính đồng bộ của hệ
thống pháp lý. Vì vậy, việc triển khai sáp nhập các ĐVHC mới cần tiến

hành bài bản, chỉ đạo thống nhất, thực hiện theo lộ trình chặt chẽ… Điều
này địi hỏi các cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách, quy đ ịnh,
hướng dẫn, quy trình thực hiện, chế độ…, liên quan làm cơ sở pháp lý cho
quá trình sắp xếp, vận hành ĐVHC phải hợp lý, tránh trình tr ạng một lúc
thực hiện nhiều chính sách liên quan đ ến tinh giản biên chế, gây ra những
phản ứng và khó thực hiện. Cần có quy chế kiểm tra, giám sát đ ể Nhân dân
tham gia, góp phần nâng cao tính hi ệu lực, hiệu quả trong thực hiện sắp
xếp ĐVHC.
Ba là, phát huy trách nhiệm và sự quyết tâm của người đứng đầu cấp
ủy, chính quyền địa phương.
Thực tiễn sắp xếp ĐVHC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế thời gian qua
cho thấy sự chần chừ, ngại va chạm, khơng có quyết tâm chính trị cao, chỉ
đạo thiếu quyết liệt, trơng chờ…, của một số cấp ủy, người đứng đầu…, là
nguyên nhân cơ bản tạo ra sự trở ngại, kém hiệu quả của quá trình sắp xếp
ĐVHC. Mặt khác, một bộ phận CBCC bị ảnh hưởng đến vị trí, quyền lợi
thiếu quyết tâm, thậm chí vận động người khơng đồng tình với chủ
trương…, đã tạo ra tư tưởng e dè, ngại thay đổi ĐVHC trong Nhân dân, xã
hội, tạo ra những khó khăn cho quá trình s ắp xếp ĐVHC. Vì vậy, để đạt
được hiệu quả của quá trình sắp xếp ĐVHC, các cấp cần phát huy trách
nhiệm và sự quyết tâm của người đứng đầu cấp ủy, người đứng đầu chính
quyền địa phương.


Bốn là, chú trọng sắp xếp đội ngũ CBCC.
Công tác sắp xếp, bố trí CBCC là vấn đề khó khăn nhất trong sáp nhập
ĐVHC cấp xã. Tính đến ngày 30/6/2021, tỉnh Thừa Thiên Huế sau khi sắp
xếp 14 xã thành 7 xã s ố lượng CBCC dôi dư là: 63 ngư ời, trong đó đồng
bào dân tộc thiểu số là 42 chiếm tỷ lệ 69,42 % 1 1 . Một vị trí cơng chứccó từ
3 – 4 cơng chức, thậm chí 7 cơng chức trở lên là phổ biến, tạo ra sự lãng
phí và xung đột trong vận hành bộ máy mới. Số công chức dôi dư này đều

đủ tiêu chuẩn về chuyên môn, tuổi đời trẻ nhưng thiếu vị trí việc làm nên
chưa sắp xếp được. Do đó, để sớm ổn định, căn cứ vào quy hoạch, cấp ủy
Đảng, chính quyền mới cần tiến hành rà sốt, xây dựng tiêu chí làm cơ sở
lựa chọn, bố tríCBCC có đạo đức, năng lực tham gia bộ máy mới hợp lý,
hiệu quả.
Để lựa chọn, sắp xếp một cách cơng bằng, ngồi việc rà sốt đạt các tiêu
chí, tiêu chuẩn, năng lực, trình độ chun mơn, sự cống hiến, cần thiết áp
dụng một số hình thức lựa chọn như thi tuyển, bảo vệ đề án. Chính quyền
các cấp cũng cần có giải pháp ln chuyển, điều động CBCC dơi dư bố trí
trong hệ thống chính trị để sớm ổn định bộ máy.
Năm là, sớm đầu tư, sắp xếp, sử dụng cơ sở vật chất và tài chính hợp lý.
Trong q trình thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp xã, về vấn đề tài chính, sắp
xếp trụ sở làm việclà vấn đề nhạy cảm, nhiều phát sinh. Một mặt, sớm ban
hành chế độ, định mức các khoản chi liên quan đến việc sắp xếp ĐVHC các
cấp; các chế độ, chính sách liên quan đ ến CBCC dơi dư, tinh gi ản.Mặt
khác, ngồi áp dụng quy định chung tại Nghị định số 113/2018/NĐ-CP
ngày 31/8/2018 của Chính phủ, các địa phương cần có chính sách khuyến
khích hỗ trợ cho CBCC…, tinh giản biên chế góp phần tạo đồng thuận
trong xã hội.
Đối với chế độ hỗ trợ cho CBCC dôi dư các địa phương cần thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 ngày 12/3/2019 c ủa Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các ĐVHC cấp huyện, cấp xã
trong giai đoạn 2019 – 2021; Nghị quyết số 834/NQ-UBTVQH14; Nghị
quyết số 32/NQ-CP ngày 14/5/2019 c ủa Chính phủ về ban hành Kế hoạch
thực hiện sắp xếp các ĐVHC cấp huyện, cấp xã trong giai đo ạn 2019 –
2021, tránh đề ra các quy định của địa phương thiếuhợp lý, thiếu khả thi
làm nảy sinh thêm khúc mắc cho người dân cũng như dư luận xã hội. Sớm
có phương án sử dụng phù hợp đối với trụ sở dôi dư sau khi sáp nh ập, cần



thiết giao trụ sở dôi dư cho các thôn, khu dân cư làm nhà sinh ho ạt cộng
đồng; chuyển đổi công năng phù hợp…
Từ những vấn đề rút ra qua đánh giá của CBCC và Nhân dân từ thực tiễn
sắp xếp ĐVHC của tỉnh Thừa Thiên Huế đã cho thấy tồn diện các mặt của
vấn đề, qua đó, có những giải pháp phù hợp, góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động sắp xếp các ĐVHC các cấp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
quản trị quốc gia, bảo đảm vai trị thống nhất quản lý của chính quyền
trung ương và phát huy vai trò ch ủ động, tự lực của chính quyền địa
phương, tối đa hóa nguồn lực, lợi thế của vùng, miền, phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân, hiện thực hóa các mục tiêu của cải cách nền hành chính
nhà nước hiện nay.
Chú thích:
1. Đề án số 196/ĐA-UBND ngày 16/8/2019 c ủa Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa
Thiên Huế về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế giai đoạn 2019 – 2021, tr.15.
2, 4, 11. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Báo cáo Tổng kết việc thực
hiện sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019 –
2021.
3, 7, 8, 9. Ngô Văn Tr ân. Báo cáo Tình hình s ắp xếp đơn vị hành chính cấp
xã trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Báo cáo Đề tài khoa học cấp cơ sở
Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP. Huế, 2021.
5, 6, 10. Lê Công Minh. Sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã (nghiên cứu trên
địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế). Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện
Hành chính Quốc gia, 2022.



×