Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề đặt ra và định hướng đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.09 KB, 9 trang )

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI
Nguyễn Thị Kim Quyên1
1. Khoa Khoa học Quản lý
TĨM TẮT
Trong thời gian qua, chính quyền địa phương các cấp ngày càng hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu quản lý và phát triển kinh tế - xã hội; bộ máy chính quyền các cấp
từng bước được đổi mới trên cơ sở quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, thực tiễn tổ
chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay còn bộc lộ những hạn chế,
bất cập do nhiều nguyên nhân về tổ chức đơn vị hành chính, về trình độ phát triển kinh tế - xã
hội và các yếu tố đặc thù của từng loại đơn vị hành chính. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để có
những giải pháp nhằm hồn thiện tổ chức bộ máy và đổi mới hoạt động của chính quyền địa
phương phù hợp với nguyên tắc phân cấp, phân quyền ở Việt Nam là việc làm cần thiết.
Từ khóa: Chính quyền địa phương, tổ chức bộ máy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hê ṭ hống các cơ quan chính quyền địa phương ln được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm trong quá trình xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước. Trong đó, chính quyền địa
phương ở Việt Nam là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước, thực hiện các chức năng
quản lý và quyết định các biện pháp thực hiện nhiệm vụ của địa phương theo quy định của pháp
luật, bảo đảm kết hợp hài hịa giữa lợi ích của nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả nước.
Về vấn đề lý luận, nhiều nhà nghiên cứu đã xây dựng khái niệm về chính quyền địa
phương, vị trí, chức năng cơ bản của thiết chế này. Đồng thời, đề xuất các định hướng đổi mới
hoạt động nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy mỗi
quan điểm luận giải vấn đề có sự khác nhau nhưng cũng đã cơ bản thể hiện những yếu tố hợp
lý, khoa học về các luận điểm này.Trên thực tế, việc đổi mới, hoàn thiện về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan chính quyền địa phương trên thực tiễn luôn là một quá trình phức tạp,
phụ thuộc vào nhiều điều kiện và yếu tố xã hội, đặc biệt là quyết tâm chính trị của đảng cầm
quyền và sự đồng thuận xã hội. Thế nhưng, đây vẫn luôn là xu thế phát triển tất yếu của mọi
nền hành chính hiện đại. Và, những tri thức khoa học, trong đó có tri thức khoa học luật hiến
pháp sẽ dẫn đường cho quá trình chọn lựa cũng như chuẩn bị các điều kiện để xây dựng ở Việt


Nam một hệ thống các cơ quan chính quyền địa phương hồn thiện.
Một hệ thống chính quyền địa phương năng động, dân chủ, hoàn thành tốt mọi chức năng,
nhiệm vụ của mình, đạt hiệu quả cao trong hoạt động quản lý nhà nước là mục tiêu mà mọi
quốc gia hướng đến. Quan điểm này cũng được thể hiện rõ trong văn kiện Đại hội XIII, trong
đó đề cập đến nội dung “Tiếp tục hồn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa
282


bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và
tổng kết việc thí điểm chính quyền đơ thị nhằm xây dựng và vận hành các mơ hình quản trị
chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách phân cấp ngân
sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ
ngân sách địa phương. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp”. Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu về vấn
đề này hiện nay cũng là nội dung mà Nhà nước đang quan tâm thực hiện.
Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, so sánh các quy định của pháp luật liên
quan cùng điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp ở Việt Nam
để kiểm tra tính thống nhất, phát hiện những bất cập, tồn tại. Sắp xếp những thông tin thu thập
được từ các nguồn, các tài liệu khác nhau thành một hệ thống chặt chẽ. Từ đó, phân tích những
khó khăn, vướng mắc, bất cập, nguyên nhân của những bất cập, hạn chế để đề xuất các giải
pháp phù hợp.
Ngoài ra, tác giả cũng vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở và phương pháp luận, các quan điểm, chính
sách của Đảng và Nhà nước để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp để đạt được mục đích
nghiên cứu là góp phần hoàn chỉnh về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt
Nam trong thời gian tới.
1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, TINH CHẤT CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
1.1 Khái niệm
Căn cứ vào quy định của Hiến pháp và pháp luật thì khái niệm “địa phương” gắn với khái

niệm đơn vị hành chính. Tại Khoản 1 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã quy định
về các đơn vi ̣hành chính như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh
chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành
quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và
thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
Khoản 2 Điều 110 của Hiến pháp đã xác định Nhân dân ở các đơn vị hành chính (được
phân chia ở Khoản 1) là “Nhân dân địa phương” và tại Khoản 1 Điều 111 Hiến pháp năm 2013
quy định “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”6; “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính
- kinh tế đặc biệt do luật định”7.
Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã có
những quy định mới về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp. Theo đó,
chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, trừ trường hợp Quốc hội quy định khơng phải là cấp chính
6
7

Khoản 1 Điều 111 Hiến pháp năm 2013
Khoản 2 Điều 111 Hiến pháp 2013

283


quyền địa phương đối với quận, phường, đơn vị hành chính cấp xã thuộc cấp huyện ở hải đảo
và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền địa
phương được quy định theo từng loại đơn vị hành chính.
Như vậy, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương đã gián tiếp xác
định “địa phương” bao hàm tất cả các đơn vi ̣hành chính từ cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung
ương) trở xuống. Đây là một quan điểm hợp lý, bởi ngay trong khái niệm “đơn vị hành chính”

cũng đã thể hiện đầy đủ yếu tố phân biệt ranh giới, vùng miền. Và, với một quốc gia thống nhất,
trong một nền hành chính hiện đại yếu tố “lãnh thổ” của các địa phương cũng chỉ là vấn đề xác
định ranh giới phục vụ cho mục tiêu quản lý hành chính chứ khơng phải là vấn đề chủ quyền
đối với một vùng lãnh thổ biệt lập nào.
Chính quyền địa phương có thể định nghĩa là một bộ phận hợp thành của chính quyền
nhà nước thống nhất, bao gồm các cơ quan đại diện – quyết nghị do nhân dân địa phương trực
tiếp bầu ra và các cơ quan tổ chức khác được thành lập trên cơ sở các cơ quan đại diện – quyết
nghị này để quản lý các lĩnh vực xã hội ở địa phương theo quy định của hiến pháp và pháp luật.
1.2. Vị trí
Chính quyền địa phương là một thiết chế thống nhất nhưng trong kết cấu nội tại của nó
bao gồm hai hệ thống cơ quan có tính độc lập tương đối: cơ quan đại diện – quyết nghị do nhân
dân địa phương trực tiếp bầu ra và cơ quan hành chính – chấp hành được thành lập trên cơ sở
cơ sở cơ quan đại diện – quyết nghị (hoặc do nhân dân trực tiếp bầu người đứng đầu). Chính vì
vậy, các cơ quan chính quyền địa phương vừa có vị trí phụ thuộc vừa có vị trí độc lập trong cơ
cấu tổ chức của tồn thể bộ máy nhà nước.
- Vị trí phụ thuộc của các cơ quan chính quyền địa phương với chính quyền trung ương:
Thứ nhất, chúng ta thấy rằng sự tồn tại của chính quyền địa phương là hệ quả của việc cơng
nhận từ phía nhà nước. Các đơn vi ̣lãnh thổ có thể hình thành tự nhiên trong lịch sử nhưng để trở
thành một cấp chính quyền thì chúng phải được Hiến pháp và các đạo luật ghi nhận. Ở Việt Nam,
chỉ có Quốc hội mới có quyền quy định về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
Thứ hai, những nội dung mà Hội đồng nhân dân bàn bạc, quyết nghị cũng khơng nằm
ngồi phạm vi đã được xác định và không được trái với pháp luật, chính sách của nhà nước
trung ương. Đó vẫn là hoạt động chấp hành pháp luật, tổ chức thực hiện những quy định, chính
sách đã định của chính quyền trung ương.
Mặt khác, trong cơ cấu chính quyền địa phương, cơ quan chấp hành đồng thời cũng là cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương và là một bộ phận trong hệ thống do Chính phủ lãnh
đạo. Với vị trí này, chính quyền địa phương cấp dưới chịu sự lãnh đạo của cơ quan hành chính
nhà nước cấp trên và chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trong phạm
vi, mức độ phân cấp, phân quyền theo luật định.
- Vị trí độc lập tương đối của các cơ quan chính quyền địa phương:

Cơ quan đại diện – quyết nghị (Hội đồng nhân dân) không chỉ là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương mà còn là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của nhân
dân địa phương. Do vậy, có thể nói cơ quan đại diện – quyết nghị của địa phương có thể độc
lập quyết định các vấn đề của địa phương theo các mức độ khác nhau, điều này thể hiện rõ nét
quyền tự chủ ở mỗi cấp chính quyền.
284


Vị trí phụ thuộc cũng như độc lập tương đối của chính quyền địa phương đối với chính
quyền trung ương cơ bản đã được Hiến pháp và luật quy định. Sự phát triển của nền hành chính
cho thấy xu hướng duy trì vi ̣trí phụ thuộc của chính quyền địa phương vào chính quyền trung
ương bằng cơ chế kiểm sốt của pháp luật chứ không phải bằng các giải pháp nhân sự, nhằm
phát huy cao nhất sự chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương. Đồng thời, nhiều hình
thức, cơ chế hợp tác giữa các địa phương với nhau cũng được thiết lập, tạo nên những thành
tựu to lớn trong việc phát triển kinh tế, chính trị, xã hội.
1.3. Tính chất
Các cơ quan chính quyền địa phương là những tổ chức công quyền, là những cơ quan nhà
nước ở địa phương. Tuy nhiên, các cơ quan này được thành lập và nhận quyền lực từ hai nguồn:
nhà nước cấp trên và nhân dân địa phương. Vì vậy, họ hoạt động theo ý chí và phục vụ cho quyền
lợi của hai chủ thể đó. Đây chính là tính chất cơ bản của các cơ quan chính quyền địa phương.
Thứ nhất, chính quyền địa phương là cánh tay nối dài nối dài của chính quyền trung ương
trong thực hiện quyền lực nhà nước. Như vậy, trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước là thống
nhất, là một bộ phận trong cái toàn thể - một kết cấu trong hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất.
Thứ hai, chính quyền địa phương không chỉ đại diện cho quyền lực nhà nước của cả quốc
gia mà cịn đại diện cho lợi ích, ý chí, nguyện vọng của các cộng đồng dân cư trong phạm vi
lãnh thổ. Chính quyền địa phương do nhân dân địa phương bầu ra nên tất yếu nó phải là tổ chức
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong phạm vi một địa phương cụ thể.
Có thể thấy rằng tính chất quyền lực nhà nước của bộ máy chính quyền địa phương là rất
quan trọng. Việc thực hiện ý chí của nhân dân trong một cộng đồng nhỏ (địa phương) và ý chí
nhân dân trong một cộng đồng lớn (quốc gia) về nguyên tắc lại là một hoạt động thống nhất.

Một chính quyền áp đặt từ trung ương xuống, tuy khơng hiệu quả nhưng vẫn có thể duy trì hoạt
động và vẫn là một nhà nước thống nhất. Đồng thời, thực hiện quyền lực của nhà nước trung
ương và tự quản của địa phương cũng là mối quan hệ mâu thuẫn. Trung ương tập trung quyền
lực là rất cần thiết nhưng phải được quy định thành luật và nên giữ lại những quyền lực thuộc
về địa phương. Địa phương về phía mình cần chủ động sáng tạo trong phạm vi luật định.8
2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VA HOẠT DỘNG CỦA CHINH QUYỀN DỊA PHƯƠNG
Tính hợp lý, khoa học trong việc xác định chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền là một
tiêu chí quan trọng khi đánh giá về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt
Nam hiện nay. Qua đó, chúng ta có thể đánh giá tiêu chí này qua mối quan hệ giữa chính quyền
trung ương và các cơ quan chính quyền địa phương, quan hệ giữa chính quyền địa phương với
nhau, đặc biệt là chính quyền địa phương ở nơng thơn và chính quyền địa phương ở đơ thị.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã tạo được hành lang pháp lý để cơ
quan nhà nước ở địa phương nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, bảo đảm việc tăng quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền các cấp trong thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội,
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở địa phương; tạo thuận lợi trong củng cố bộ máy của
PGS.TS Bùi Xuân Đức (2004-2007), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
8

285


Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, góp phần xây dựng bộ máy chính quyền địa
phương các cấp “trong sạch, vững mạnh”.
Năm 2019, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức
Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương (có hiệu lực từ ngày 01/7/2020). Theo đó,
Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi năm 2019 có những điểm mới như:
- Về mơ hình tổ chức chính quyền địa phương được quy định theo hướng linh hoạt. Chính
quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính phù hợp với đặc điểm nơng thơn, đơ
thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

- Việc phân cấp, phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải bảo đảm điều kiện
về tài chính, nguồn nhân lực và các điều kiện cần thiết khác; gắn phân cấp, phân quyền với cơ
chế kiểm tra, thanh tra khi thực hiện phân quyền, phân cấp.
- Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền
cho Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho cơ quan chun
mơn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc, chủ tịch Ủy ban
nhân dân có thể ủy quyền cho phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, người đứng đầu cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp, chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp thực
hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo
các điều kiện cụ thể. Các quy định này đã rõ ràng hơn để tránh việc phân cấp, ủy quyền không cụ
thể, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân, đồng thời xác định cụ thể các nguồn lực để bảo đảm thực hiện trong thực tế.
- Việc quy định theo hướng giảm số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đã quy
định rõ khung số lượng theo hướng giảm từ 10 – 15% số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân ở
từng loại hình đơn vị hành chính.
- Quy định cơ cấu tổ chức phù hợp với thực tiễn theo hướng giảm số lượng phó chủ tịch
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, phó ban Hội đồng nhân dân. Về cơ cấu tổ chức của
Ủy ban nhân dân cấp xã, tăng số lượng Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã loại II lên không quá
2 Phó chủ tịch. Điều này xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với yêu cầu thực tiễn…
- Tuy nhiên, trước yêu cầu của cải cách hành chính và đổi mới quản trị quốc gia bảo đảm
hiệu lực, hiệu quả, thể chế tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta còn bộc
lộ những hạn chế, bất cập, như: tổ chức đơn vị hành chính – lãnh thổ vẫn chưa thực sự hợp lý;
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mơ hình tổ chức của chính quyền địa phương chưa kiện
toàn đồng bộ và triệt để; phân quyền, phân cấp quản lý giữa trung ương với địa phương mới
dừng lại ở những nguyên tắc, yêu cầu và chưa thật sự hợp lý; một số địa phương có điều kiện
và khả năng phát triển kinh tế – xã hội tiếp tục đề xuất được hưởng cơ chế, chính sách đặc thù;
mơ hình tổ chức chính quyền đơ thị chưa được định hình rõ nét, vẫn đang trong q trình tìm
tịi, thử nghiệm; việc đổi mới phương thức hoạt động theo hướng xây dựng chính quyền điện
tử, đơ thị thơng minh, hướng tới chính quyền số cịn chậm và thiếu đồng bộ.
- Đánh giá về sự phân định chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của chính quyền trung

ương và các cơ quan chính quyền địa phương các cấp:
Có thể thấy rằng việc đẩy mạnh phân cấp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước từ trung ương đến địa phương là một nội dung quan trọng trong cải cách bộ máy
286


hành chính nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chính phủ đã có nhiều
giải pháp tích cực để đổi mới tăng cường phân cấp trong thực thi quyền lực giữa nhà nước trung
ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương.
Tuy nhiên trong thực tế, vẫn phải thừa nhận rằng sự phân cấp này vẫn mang tính chất từ
trên xuống, chưa chú ý thỏa đáng đến năng lực thực tế và sự sẵn sàng của chính quyền cấp dưới
trong việc đảm nhận nhiệm vụ. Việc phân cấp này chỉ nặng về chuyển giao công việc từ cấp
trên xuống chứ chưa tương xứng với thẩm quyền và nguồn lực cần thiết.
Việc phân cấp còn mang tính đồng loạt và chưa rõ ràng, chưa xác định cụ thể cấp nào có
quyền gì. Cấp tỉnh, huyện, xã đều thực hiện các nhiệm vụ luật định gần giống nhau trong khi
nguồn lực, năng lực của các chính quyền địa phương rất khác nhau. Điều này dẫn đến việc chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương chồng chéo, trùng lắp.
Đánh giá về sự phân định chức năng, nhiệm vụ giữa chính quyền đơ thị và chính quyền
nơng thơn :
Chính quyền địa phương đơ thi ̣và nơng thơn về nguyên tắc là những chủ thể bình đẳng,
tuy nhiên trong hoạt động quản lý nhà nước của hai loại chủ thể này có sự khác biệt rất lớn. Sự
khác biệt về nội dung quản lý nhà nước tất yếu dẫn đến sự khác biệt trong chức năng, nhiệm vụ
và cơ cấu bộ máy của chúng.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã từng bước cụ thể hóa các nguyên tắc
phân định thẩm quyền cho các cơ quan chính quyền địa phương, vấn đề phân quyền, phân cấp
cũng như ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cũng được xác định. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng
để xác định thẩm quyền cho các cơ quan chính quyền địa phương. Tuy nhiên, những nguyên
tắc, quy định này cần có một quá trình tổ chức thực hiện trên cơ sở khắc phục những hạn chế,
bất cập trong việc phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước trung ương và hê ̣thống
các cơ quan chính quyền địa phương hiện nay.

Mặc dù đóng vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và có những chuyển biến
tích cực, nhanh chóng trong những năm gần đây, nhưng nhìn chung các đơ thị ở nước ta hiện
nay vẫn cịn yếu kém về cơ sở vật chất, kỹ thuật (đặc biệt là cơ sở hạ tầng). Sự tăng trưởng kinh
tế chưa cân đối với sự phát triển đô thị và tăng trưởng dân số; công tác lập quy hoạch phát triển
đơ thị tầm nhìn dài hạn, bền vững cịn nhiều hạn chế và đặc biệt công tác quản lý nhà nước tại
các đô thị chưa đáp ứng được yêu cầu khách quan của q trình đơ thị hố, trong đó có việc
phân cấp quản lý nhà nước tại các đơ thị chưa rõ ràng, chưa hợp lý; trình độ quản lý nhà nước
chưa theo kịp với trình độ phát triển kinh tế xã hội đã và đang làm chậm quá trình đơ thị hố
nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
Đánh giá sự tham gia của người dân vào hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng đã quy định chặt chẽ hơn sự giám
sát của nhân dân trong việc thực thi quyền lực. Mối quan hê ̣giữa các cơ quan chính quyền địa
phương với Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính tri ̣– xã hội ở địa phương
được tiếp tục hồn thiện, hình thành nên cơ chế giám sát của xã hội đối với các cơ quan chính
quyền địa phương.
Trên thực tế, người dân là chủ thể chịu tác động cuối cùng của chính sách phân cấp, tuy
nhiên, lại chưa thực sự được tham gia có hiệu quả vào việc hoạch định cũng như việc giám sát
287


thi hành các chính sách ở địa phương. Quyền tự quyết của chính quyền địa phương được mở
rộng, nhưng cơ chế để buộc chính quyền địa phương phải hành động thực sự vì nhân dân phải
được đảm bảo tương ứng. Sự cơng khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các cơ quan
chính quyền địa phương chưa được quy định chặt chẽ và việc triển khai trong thực tế cũng chưa
đảm bảo hiệu quả.
3. ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG HIỆN NAY
Thứ nhất, tăng cường phân cấp, phân quyền giữa giữa trung ương với chính quyền địa
phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
Cần phân định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công

tác giữa các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trực thuộc các bộ, ngành, địa phương và cơ cấu tổ chức
của các cấp chính quyền địa phương; khắc phục triệt để sự trùng lắp, chồng chéo chức năng,
nhiệm vụ theo hướng một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng một việc chỉ do một tổ
chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính. Hồn thiện quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp trên cơ sở định hướng
của trung ương; tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương các cấp, tinh
gọn tổ chức bộ máy nhằm đáp ứng những yêu cầu thực tiễn trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước.
Thứ hai, tiếp tục kiện tồn tổ chức chính quyền địa phương các cấp, đơn vị hành chính
cấp huyện, cấp xã theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các luật chuyên ngành cần căn cứ vào nguyên
tắc của Hiến pháp để tiếp tục cụ thể hóa phù hợp với từng cấp chính quyền, với địa bàn đô thị,
nông thôn, hải đảo; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong việc thực hiện đúng tinh thần phân
cấp, phân quyền theo Hiến pháp năm 2013.
Thứ ba, đổi mới mơ hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nơng
thơn và đơ thị.
Mơ hình tổ chức chính quyền địa phương cần phải tiếp tục đổi mới cho phù hợp với đặc
điểm dân cư, phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ và đặc thù quản lý hành chính nhà nước
giữa nơng thơn và đơ thị đã được các Nghị quyết của Đảng đã đề ra và Điều 111 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính… Cấp chính
quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với
đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định”. Do đó,
khơng nên rập khn tổ chức chính quyền ba cấp hành chính ở đơ thị giống như ở nông thôn.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương.
Tăng cường kiểm tra, đơn đốc việc xây dựng, thực hiện các chương trình, kế hoạch nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Hoàn thiện quy chế hoạt động nhằm
nâng cao chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân, cải tiến hoạt động của đại biểu theo hướng
nâng cao chất lượng xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật và hiệu quả của công tác giám sát
đáp ứng yêu cầu lý nhà nước…

288


Chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, quy chế hoạt động của bộ máy hành chính các cấp, bảo đảm
điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt theo hướng đề cao trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan nhà nước. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với hoạt
động của bộ máy nhà nước; huy động sự tham gia của cộng đồng, của các tổ chức chính trị –
xã hội trong giám sát và phản biện xã hội gắn với yêu cầu công khai, minh bạch và trách nhiệm
giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước, xử lý nghiêm và kịp thời đối với các tổ chức,
cá nhân tham nhũng, tiêu cực.
Thứ năm, phân định rõ thẩm quyền giữa tập thể và cá nhân theo hướng tăng thẩm quyền
và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
Kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể Ủy ban
nhân dân và thẩm quyền, trách nhiệm Chủ tịch Ủy ban nhân dân theo hướng tăng thẩm quyền
của người đứng đầu phù hợp với đặc thù của chế độ làm việc và hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước. Thể chế hóa ngun tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của Đảng
và chính quyền; phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ điều hành, thẩm quyền quyết định thuộc về cá
nhân người đứng đầu và thẩm quyền thuộc về tập thể.
Thứ sáu, triển khai mạnh mẽ việc xây dựng, phát triển chính quyền điện tử hướng tới
chính quyền số.
Chính quyền cấp tỉnh phối hợp với các bộ, ngành liên quan chủ động rà sốt, trình Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định pháp lý về đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công như quy
định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu; định danh và xác thực điện tử cho cá nhân, tổ chức; thực
hiện thủ tục hành chính trên mơi trường điện tử, làm cơ sở để các cấp chính quyền địa phương
chuyển từ hình thức làm việc giấy tờ sang điều hành, xử lý công việc trên môi trường điện tử.
Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực
tuyến và giao tiếp với các cấp chính quyền địa phương thơng qua hệ thống chính quyền điện
tử nhằm ứng dụng các tiến bộ khoa học – công nghệ để đổi mới phương thức làm việc, nâng
cao năng lực quản lý, điều hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của các cấp chính quyền địa

phương, tạo động lực thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện để phát triển nền
kinh tế số, xã hội số.
4. KẾT LUẬN
Trong đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi mới hệ thống chính trị là một
trong những nội dung mang tính cốt lõi, cấp bách và hệ trọng. Trong đó, “đổi mới hệ thống
chính trị phải đồng bộ ở cấp trung ương và cấp địa phương, cơ sở; đổi mới hệ thống chính trị
tồn diện, đồng bộ, nhưng phải có bước đi vững chắc, cách làm phù hợp, đúng đắn, có trọng
tâm, trọng điểm” là một trong những nguyên tắc quan trọng đã được xác định trong nội dung
văn kiện Đại hội XIII. Đồng thời, nhấn mạnh “Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa
phương phù hợp với địa bàn nơng thơn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo
luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đơ thị nhằm xây dựng và vận hành
các mơ hình quản trị chính quyền đơ thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải
cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách trung ương, nâng cao
289


tính chủ động, tự chủ ngân sách địa phương. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp”.9
Chính quyền địa phương là một cơ quan chức năng quản lý nhà nước trên đơn vị hành
chính địa phương cụ thể có chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hôi tại địa phương. Do
dó, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung là một yêu cầu tất yếu
khách quan phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Hiến pháp năm 2013. Để xây dựng
giải pháp khả thi và thật sự hiệu quả cho việc hoàn thiện tổ chức và đổi mới hoạt động của các
chính quyền địa phương địi hỏi phải có những giải pháp kịp thời trước mắt, đồng thời phải có
giải pháp lâu dài, căn cơ. Yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra đối với vấn đề này là yêu cầu thực
thi hiến pháp và pháp luật, yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và yêu cầu đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng. Như vậy, vấn đề mấu chốt của một cơ quan trong bộ máy nhà nước là phân
định quyền lực, tổ chức thực hiện quyền lực và kiểm soát quyền lực nhằm đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Dung (2006). Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Thái Vĩnh Thắng (2019). Giáo trình Luật Hiến pháp, Hà Nội: Nxb Công an nhân dân.
3. Nguyễn Minh Đoan (2014), Những yêu cầu hiện nay về tổ chức chính quyền địa phương, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, 21, 45-54.
4. Nguyễn Văn Cương (2013), “Một số vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng Luật Tổ chức Chính
quyền địa phương”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số chuyên đề triển khai thi hành Hiến pháp năm
2013, 74-83.
5. Thái Xuân Cường (2014), Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện Thọ Xuân,
tỉnh Thanh Hóa, truy cập ngày 27/4/2022, từ trang web />6. Nguyễn Minh Sản (2021), Hoàn thiện thể chế tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, truy cập ngày 27/4/2022, từ trang web
/>7. Nguyễn Duy Thăng (2022), Thực trạng và định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương ở Việt Nam, truy cập ngày 29/4/2022, từ trang web
/>8. Thái Vĩnh Thắng (2013). “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND địa
phương. Bộ Tư pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ.
9. Trương Đắc Linh (2002), Chính quyền địa phương với việc bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp
luật ở địa phương (Luận án tiến sĩ), Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật – Trung tâm Khoa học
xã hội và Nhân văn quốc gia.
10. Quốc hội (2013). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, ngày 28 tháng 11 năm 2013.
11. Quốc hội (2015). Luật số 77/2015/QH13, ngày 19/6/2015.
12. Quốc hội (2019). Luật số 47/2019/QH14, ngày 22/11/2019.

9

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.

290




×