CHẤT NGHỊCH DỊ
TRONG “KHÔNG BIẾT ĐÂU MÀ LẦN” CỦA VĂN THÀNH LÊ
Tăng Thị Hương1
1. Email:
TĨM TẮT
Khơng biết đâu mà lần là cuốn truyện dài của Văn Thành Lê. Thông qua lăng kính nghịch
dị, nhà văn đã chạm đến những mảng tối, những góc khuất của giáo dục Việt Nam. Truyện là
tiếng nói của người trong cuộc về những vấn đề nhức nhối: từ vấn nạn xin việc đến căn bệnh
thành tích và những bất cập trong đổi mới giáo dục, đặc biệt là sự xuống cấp trầm trọng về
đạo đức, nhân cách của đội ngũ giáo chức. Ẩn sau giọng giễu nhại, hài hước là nỗi hoang
mang, đau xót trước bức tranh học đường đầy những vết hoen ố. Tác phẩm là hồi chuông cảnh
tỉnh mỗi chúng ta để xây dựng mơi trường giáo dục thân thiện, tích cực hơn.
Từ khóa: Khơng biết đâu mà lần, giáo dục, nghịch dị, Văn Thành Lê.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn Thành Lê là cây bút trẻ sung sức thuộc thế hệ nhà văn 8X. Niềm đam mê với nghiệp
viết đã thôi thúc anh sáng tạo không ngừng để khẳng định tên tuổi. Từ khi bước chân vào làng
văn, anh thử sức viết với nhiều thể loại và hướng tới nhiều đối tượng độc giả khác nhau. Văn
Thành Lê từng tâm sự “viết cho thiếu nhi là cơ hội để “chống lại” Heraclitus, rằng con người
có thể tắm nhiều lần trên dịng sơng tuổi thơ”, “viết cho tuổi mới lớn là để được sống với thuở
rung động đầu đời đầy mơ mộng ngác ngơ trong sáng nhất”, cịn “viết cho người lớn để thấy
mình ngổn ngang đương đại” (Việt Quỳnh, 2019). Trong những trang viết “ngổn ngang đương
đại” ấy, Không biết đâu mà lần đã tạo được dấu ấn riêng. Từng là một nhà giáo, anh có cái nhìn
của người trong cuộc. Văn Thành Lê khơng ngợi ca giáo dục mà nhìn thẳng vào sự thật, đi sâu
vào những mặt trái, những góc khuất của nó. Vận dụng lí thuyết thi pháp học, lật giở từng trang
sách Không biết đâu mà lần, bức tranh giáo dục đầy những chấm đen lấm tấm, hoen ố với
những vấn đề nhức nhối được phơi bày qua lăng kính nghịch dị.
2. NỘI DUNG
2.1. Giới thuyết về nghịch dị
Trong 150 thuật ngữ văn học, nghịch dị (Thuật ngữ dịch từ tiếng Italia: grottesco và tiếng
Pháp: grotesque, cũng có cách dịch khác, là thô kệch hoặc kỳ quặc) là kiểu tổ chức hình tượng
nghệ thuật (hình tượng, phong cách, thể loại), dựa vào huyễn tưởng, vào tính trào phúng, vào tính
ngụ ngơn, ngụ ý, vào sự kết hợp và tương phản một cách kì quặc cái huyền hoặc và cái thực, cái
đẹp và cái xấu, cái bi và cái hài, cái giống thực và cái biếm họa. Trong lịch sử và lý luận văn học,
nghịch dị khi thì được xem là thủ pháp của cái hài, khi thì được xem là mức sắc sảo của châm
biếm, khi thì được nhấn mạnh ở tính táo bạo của hình tượng huyễn tưởng. Đây là kiểu ước lệ đặc
443
thù, phô trương một cách công nhiên và chủ ý, nó tạo ra một thế giới nghịch dị - thế giới dị thường
phi tự nhiên, lạ kỳ, như chính tác giả của nó muốn trình bày (Lại Ngun Ân, 2004, tr.211).
Nghịch dị là kiểu hình tượng có từ xa xưa trong hệ thần thoại, cổ ngữ nhưng chưa phải là
thủ pháp nghệ thuật. Thời Phục Hưng, nghịch dị gắn với cảm quan hội cải trang. Trải qua mỗi
thời kì nó lại mang màu sắc riêng. Đến thế kỉ XX, nghịch dị trở thành hình thức tiêu biểu của
nghệ thuật, nhất là một loạt khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa “Xu thế của kiểu nghịch dị này
là sự biến hóa đột ngột từ thế giới quen thuộc “của ta” thành thế giới, xa lạ và thù nghịch”
(Lại Nguyên Ân, 2004, tr.212).
Ở Việt Nam, nghệ thuật nghịch dị đã có từ lâu. Ở mỗi thời kì, yếu tố nghịch dị có thể đậm,
nhạt khác nhau suốt tiến trình từ văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại đến văn
học đương đại. Đặc biệt, từ sau năm 1986, khi văn học được “cởi trói”, cơ chế thị trường cùng
sức mạnh của đồng tiền, quyền lực kéo theo một loạt vấn đề nhức nhối trong xã hội, nghệ thuật
nghịch dị trở thành cảm hứng chủ đạo ghi dấu ấn với một loạt tên tuổi: Nguyễn Bình Phương, Tạ
Duy Anh, Hồ Anh Thái …Một “thế giới xô lệch” với sự tha hóa, lệch chuẩn, xấu xí của con người
đương đại hiện ra giữa vịng xốy cuộc sống. Là nhà văn thuộc thế hệ 8X, Văn Thành Lê cũng
theo bước những người đi trước phơ ra tất cả những cái xấu xí nhất của cuộc sống đương đại, đặc
biệt là những mảng tối, những bất cập trong giáo dục với cái nhìn của người trong cuộc.
2.2. Không biết đâu mà lần – một sáng tác đẫm chất nghịch dị
2.2.1. Nhân vật nghịch dị
Thoát khỏi tư duy sử thi, cảm hứng lịch sử trong giai đoạn 1945 - 1975, văn học đương
đại đi sâu vào cảm hứng thế sự đời tư. Nhân vật trung tâm của tác phẩm khơng cịn là con người
lịch sử, con người cộng đồng mà đã chuyển sang con người cá nhân phức tạp, bí ẩn với cả phần
con lẫn phần người đan xen. Tác giả Đào Tuấn Ảnh trong Những yếu tố hậu hiện đại trong văn
xuôi Việt Nam qua so sánh với văn xuôi Nga khẳng định “Một đặc điểm chung nhất trong sáng
tác của các nhà hậu hiện đại Nga với sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hồi, Bảo
Ninh, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái…là sự giã từ không hề lưu luyến lối
viết của chủ nghĩa hiện thực cổ điển và hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong các tác phẩm của
họ, khơng thấy bóng dáng của nhân vật điển hình mang tầm khái quát cho mọi tính cách lớn
lao trong đời, mà thay vào là đủ mọi thứ hạng trong nhân gian, đại đa số là đám người u tối,
nghịch dị cả thể xác lẫn tinh thần” (Đào Tuấn Ảnh, 2007). Nhân vật nghịch dị trong văn học
đương đại hôm nay phần lớn là những con người nghịch dị đời thường với tính cách, sở thích
nghịch dị, sự băng hoại, tha hóa, về đạo đức. Bùi Việt Thắng cho rằng: “Có thể nói con người
bị tha hóa với tốc độ đáng sợ. Sự tha hóa là tất yếu khi cuộc sống đang xuống cấp nghiêm
trọng. Con người không thế đứng cao, thốt khỏi hồn cảnh…Cuộc sống theo cách nhìn mới,
lại chứa đầy những nghịch lí đến phi lý” (Nguyễn Xuân Thành, 2020).
Nếu Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm là những người thầy được bao thế hệ nể trọng,
trở thành tượng đài mẫu mực thì trong những trang viết Khơng biết đâu mà lần, Văn Thành Lê
đã khắc chạm nên chân dung của những ơng thầy tha hóa, biến chất với phần “con” lấn át phần
“người”. Họ sống theo bản năng, mặc kệ quan điểm đạo đức xã hội. Nhân vật trong tác phẩm
không được gọi tên cụ thể mà định danh theo nghề nghiêp: thầy dạy Sinh, thầy trưởng khoa,
thầy Huyện, thầy dạy phương pháp… Đây là những con người khiến tượng đài giáo dục với
444
những người thầy mẫu mực, cao quý, uy nghi, đạo mạo bỗng sụp đổ. Sự biến dạng, méo mó
trong nhân cách người thầy bị bóc trần khiến người đọc phải nhíu mày suy ngẫm.
Đó là thầy dạy Sinh tiền nhiệm mà nhân vật Anh thế chỗ bởi vì “thầy chuẩn bị khốc áo
sọc đen trắng của đội bóng Juventus” (Văn Thành Lê, 2014, tr.52). Thầy không chăm chút bài
giảng mà có sở thích bệnh hoạn: thỏa mãn tính dục với học trò nữ “Trong mỗi tiết dạy, mắt thầy
chiếu tướng góc phải, chọc khe chính giữa, tạt qua biên góc trái. Thuần thục như cặp kính là
gọng chiếu sắc. Càng ngày càng sắc sảo. Học trò nữ được thầy quan tâm sâu sát mắt la mày liếc
như cáo già rình gà non. Ôi những con gà ri, gà nhà, gà giị mới lớn, khơng thuốc kích thích vỗ
béo, khơng sâu bệnh, căn miếng cứ gọi là ấm tận chân răng, căng tràn nhựa sống, lồng lộng suối
lòng ” (Văn Thành Lê, 2014, tr.54). Thầy chăm chỉ đều đặn thực hành thêm buổi tối “Ban ngày
thực hành mổ ếch nhái họ Microhylidae chứng minh tính tự động của tim, ban đêm thầy mổ trên
đối tượng họ Homo Sapiens, là người, để chứng minh tính tự động của…chim” (Văn Thành Lê,
2014, tr.55). Dù được nhà trường góp ý nhiều lần nhưng thầy chứng nào tật nấy, thầy mặc kệ
miệng lưỡi thế gian miễn sao thỏa mãn con người bản năng tham lam bên trong của mình là được
“Thầy trơ gan cùng tuế nguyệt. Lòng thầy vẫn vững như kiềng ba chân. Cắt thi đua cũng được.
Thầy thi đua thứ khác. Thứ ngựa quen đường cũ, chạy mãi chẳng mỏi gối chồn chân. Thứ trâu
ta ăn cỏ đồng ta, nếu là đồng bạn thì qua tha về” (Văn Thành Lê, 2014, tr.56). Đi đêm lắm có
ngày gặp ma, thầy bị dân phịng bắt quả tang tại trận “thầy đang làm động tác chống bóng bổng
với đơi gò bồng đảo của cơ em xinh xinh đôi má hồng hồng trong trạng thái Adam và Eva. Lúc
này, khơng có con rắn “quỷ quyệt hơn mọi con thú trên cánh đồng” nào ở đấy xúi giục Eva ăn
trái cấm để rồi Eva lại nhường vinh hạnh lớn lao ấy lại cho Adam, nhưng Adam vẫn nhiệt tình
hùng hổ với “của ngon vật lạ” này” (Văn Thành Lê, 2014, tr.57). Bị phá đám khi “bữa ăn đã
được nấu xong, bày ra tất cả hứa hẹn vừa mắt lại giàu dinh dưỡng” (Văn Thành Lê, 2014, tr.57),
thầy điên tiết đánh mất hết lí trí, thách thức dân phịng, dựa hơi quyền thế “Tôi thách đấy. Các
ông biết tôi là ai không?” (Văn Thành Lê, 2014, tr.57), “Xem làm gì được nhau. Biết tơi là như
thế nào với thầy hiệu trưởng không? Biết thầy hiệu trưởng là như thế nào ở đất này không?” (Văn
Thành Lê, 2014, tr.58). Thế nhưng, quyền thế mà thầy dựa dẫm không thể giúp thầy thốt cảnh
tù tội vì Eva chưa đủ tuổi vị thành niên. Sở thích bệnh hoạn, khơng chế ngự được phần “con” đã
khiến thầy phải trả giá đắt: rơi vào vòng lao lý, sự nghiệp tiêu tan.
Hay trong câu chuyện của nhân vật Anh với Kha – người bạn học chung đại học, hình
ảnh thầy trưởng khoa nhuốm màu sắc dục hiện lên thật rõ nét. Ẩn sau vẻ ngoài đạo mạo là một
con thú đội lốt người khát khao tính dục. Mới gặp mặt, nhân vật Anh tưởng rằng thầy là ơng
Bụt trong truyện cổ tích “thầy có giọng nói hiền từ nụ cười nhân hậu, bước đi nhẹ như có phép
cân đẩu vân. Sinh viên năm nhất như Anh hồi ấy dáo dác nhìn và giật mình ngỡ ơng Bụt trong
truyện cổ tích thời còn đái dầm hóa ra có thật à?” (Văn Thành Lê, 2014, tr.71). Thế nhưng,
bên trong vẻ ngoài hiền lành ấy là một kẻ chuyên đi gạ tình sinh viên. Thực trạng nhức nhối gạ
tình đổi điểm được phơi bày thơng qua lăng kính nghịch dị. Thầy quan tâm đặc biệt với mấy
chị xinh xinh bắt làm bài tập lớn, niên luận, khóa luận, luận văn với thầy “Thầy quan tâm lắm.
Thầy chu đáo cực. Thầy cực kì sâu sắc trong giáo dục. Thế mà về sau ai đó bố láo lại gọi tắt
thành cực kì sắc dục” (Văn Thành Lê, 2014, tr.71). Với chiến thuật ấy, thầy đã hại đời biết bao
sinh viên, cuộc sống của thầy bị bản năng tính dục chi phối “thầy là bậc thầy về thực hành chiến
lược chiến thuật chiến tranh du kích. Lấy ít địch nhiều. Đi sâu đi sát trong quần chúng. Kỹ năng
bắn tỉa thiện xạ…Con chị nó đi con dì nói tới. Ln ln tươi mới. Tươi da thắm thịt. Da thầy
445
cũng đỏ au, hồng hào sinh lực. Không mảy may một nếp nhăn nhàm chán. Dẫu chân râu chân
ria đã bạc nhưng tóc vẫn còn xanh. Có khi đấy là dấu hiệu của cái miệng làm việc nhiều hơn
cái đầu? ” (Văn Thành Lê, 2014, tr.71).
Thầy Huyện mổ bò cũng là con người có bản năng tính dục mạnh mẽ “Thầy Huyện vang
danh có học nhất làng nhất xã. Trước thầy dạy học đâu ngoài Trung ương, trường to to là. Sau
được đi Liên Xô tu nghiệp tu hú hay tu gì đó chỉ thầy biết. Vèo cái họ tống thầy về quê” (Văn
Thành Lê, 2014, tr.106). Từng được nhà nước cho đi Liên Xô tu nghiệp, những tưởng thầy Huyện
sẽ tích cực học hỏi để mang kiến thức về xây dựng q hương thì thầy lại khơng chế ngự được
bản năng nên bị đuổi về nước “Có khi nhà nước cho lão đem chuông đi đánh xứ người học tập
học hỏi lão lại lơ là, tập trung vung chim đi đánh gái người. Nên bị rút thẻ đỏ truất quyền thi đấu
tống cổ về vườn” (Văn Thành Lê, 2014, tr.107). Trong kí ức về trời Tây của thầy chỉ có gái Tây.
Sau mỗi lần mổ bị, lão Huyện kể chuyện, “khen gái Tây chắc chắn, khỏe như hổ pháp, dây vào
cứ gọi là đã cái đời, sướng củ tỉ” (Văn Thành Lê, 2014, tr.107). Mỗi lần nhắc tới chiến tích đi
Tây, thầy khơng xấu hổ mà cịn vênh mặt tự đắc về cái “sở trường” bệnh hoạn của mình.
Đâu chỉ có thế, thầy dạy Phương pháp cũng là một con người tha hóa, vừa yếu chun
mơn vừa biến chất về đạo đức “tiến sĩ thầy có một bài thuộc nằm lòng dùng đi dùng lại…day
lại day lại kiểu ợ lên nhai lại của gia súc có dạ dày bốn ngăn. “Thế này nhé, bước 1… he he.
Ngon lành chưa các em? Bước 2 thì…he he. Ngọt như mía lùi chưa các em? Bước 3 thì…he he.
Êm và mượt như da em bé chưa các em? Bước 4 thì …he he. Tuyệt cái con vời vợi chưa các
em” (Văn Thành Lê, 2014, tr.74). Bài giảng của thầy tồn những ngơn ngữ nhạy cảm đúng như
bản chất con người thầy: cặp bồ, có con riêng “cậu con trai nối dõi tơng đường là kết quả của
những đợt đánh bắt xa bờ và xâm phạm lãnh thổ gia đình khác theo đúng xu thế thời đại bây
giờ, là sểnh mắt ra cả xã hội hăm hở xuống đường đi …ngoại tình” (Văn Thành Lê, 2014,
tr.75). Chưa dừng lại ở đó, khi sinh viên hỏi về phương pháp giảng dạy một bài bất kỳ không
phải bài tủ của thầy “thế là, bước 1, bước 2, bước 3, bước 4 dùng dà dùng dằng, bước thấp
bước cao, loạng chà loạng choạng. Báo hại cậu bạn bị tiến sĩ thầy đì sống dở chết dở ba chìm
bảy nổi tám chín cái nhấp nhơ với những tiếng thở dài ảo não cảm thông sâu sắc của lớp” (Văn
Thành Lê, 2014, tr.75). Đây là chân dung một tiến sĩ giấy thực sự, chuyên môn yếu kém lại ích
kỉ, nhỏ nhen, thù dai, chèn ép sinh viên sống dở chết dở.
Bên cạnh những ông thầy đặt bản năng tính dục lên trên bất chấp luân thường đạo lí, trong
Khơng biết đâu mà lần, Văn Thành Lê cịn châm biếm ơng hiệu trưởng năng lực có hạn mà “thủ
đoạn có thừa” – háo danh, mắc căn bệnh thành tích. Chân dung thầy hiệu trưởng hiện lên cùng
nỗi ấm ức, tức khí với đời đã hé mở vì sao thầy lại thích thành tích đến vậy “ước mơ cháy bỏng
làm kỹ sư bị cháy khét lẹt vì điểm thi lẹt đà lẹt đẹt, đành chui đầu vào Sư phạm đúng thời điểm cả
nước rêu rao câu “Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách Khoa, bỏ qua Sư phạm” nên luôn mang
trong mình những mặc cảm ấm ức tức khí với đời” (Văn Thành Lê, 2014, tr.96). Bởi thế, giờ đây
thầy biến trường học thành đường đua Monter Carlo ở công quốc Monaco của giải đua xe công
thức 1 Grand Prix “cả trường cắm cổ lao vào những hoạt động bề nổi với hết thi đua này đến
phong trào nọ” (Văn Thành Lê, 2014, tr.95). Thầy cũng kịp thời “sáng tác” thành cơng sáng kiến
kinh ngạc “Hiện thực hóa ứng dụng Tốn học vào nơng nghiệp thơng qua cách thức tính diện
tích đất canh tác” để chào mừng ngày… quốc tế thiếu nhi. Thật nực cười, râu ông nọ cắm cằm
bà kia. Cái ghế hiệu trưởng thầy đang ngồi phải chăng có được là do “tiền tệ” và “quan hệ”?
446
Hàng loạt chân dung biếm họa kì quái về những ông thầy ham tính dục, mê thành tích bị
lột trần làm đảo lộn mọi giá trị dưới ngòi bút châm biếm của Văn Thành Lê. Theo thang giá
truyền thống, thầy giáo là những người có đạo đức, phẩm chất thanh cao mới có thể giáo dục
những thế hệ học trị ưu tú. Thế nhưng, tấm gương ấy đã bị bôi lem, vấy bẩn. Với những ơng
thầy tha hóa, biến chất như vậy, liệu giáo dục sẽ đi về đâu? Đây chính là nỗi niềm trăn trở, day
dứt, đau đớn của nhà văn trẻ – một người từng làm thầy khi “mắt thấy, tai nghe” những ung
nhọt của ngành giáo dục trong guồng quay của cuộc sống đương đại.
2.2.2 Môi trường giáo dục nghịch dị
Con người luôn tồn tại trong một không gian, môi trường nhất định. Trường học là nơi
nuôi dưỡng bao thế hệ học trò – những mầm xanh tương lai của đất nước. Thế nhưng môi trường
ấy liệu có cịn thanh khiết trong xã hội kim tiền? Trong những trang viết Không biết đâu mà
lần, môi trường giáo dục trở nên lấm lem, vấy bẩn hơn bao giờ hết. Là người trong cuộc, Văn
Thành Lê thấm thía sâu sắc những vấn nạn khiến bức tranh giáo dục đầy những vết hoen ố. Đầu
tiên là cuộc chạy đua xin việc của sinh viên sư phạm sau khi ra trường. Xin việc trở thành một
chiến trận khốc liệt với đủ những bất công khiến những thanh niên tâm huyết, tràn đầy lí tưởng
phải lắc đầu ngao ngán “Đây là chiến trận thật. Không giống trận giả của tuổi mục đồng lấm
lem bùn đất. Trận tuyến tìm việc trộn cùng thứ thật giả giả thật, lẫn lộn như thóc pha cát pha
đậu đỏ đậu đen mà cô Tấm phải nhặt trong truyện cổ tích” (Văn Thành Lê, 2014, tr.9). Chỉ tiêu
tuyển dụng ít ỏi, lại ưu tiên cho gia đình chính sách đã tạo nên tấn bi hài kịch: sau một đêm ngủ
dậy bỗng thành thương binh, được cơng điểm thì những người như nhân vật Anh làm sao có
thể chen chân “chỉ tiêu công chức lèo tèo như bèo tấm mùa hạn các cụ trên cao đã om hết, nhỏ
xuống được vài giọt, như nước mắm chưng cất kiểu thủ công xưa xửa xừa xưa nửa tháng chưa
được một chai sáu lắm, thì ưu tiên con em gia đình chính sách” (Văn Thành Lê, 2014, tr.9).
Toàn xã hội đua chen nhau xin vào một cơ sở giáo dục tạo nên cuộc chạy đua marathon “Đâu
đâu cũng thấy chạy. Người người chạy. Nhà nhà chạy. Chạy nước rút. Chạy marathon từ trước
đó. Như thể chạy là truyền thống là bản sắc” (Văn Thành Lê, 2014, tr.10) mà ưu thế thuộc về
những người có tiền, có quan hệ với nguyên tắc tuyển người có một khơng hai “Thứ nhất quan
hệ. Thứ nhì tiền tệ. Thứ ba hậu duệ. Thứ tư trí tuệ” (Văn Thành Lê, 2014, tr.10). Rõ ràng, với
nguyên tắc ấy thì những người như Anh đành chịu thua, bởi thứ mình có trong tay chỉ là trí tuệ
và ngậm ngùi trở thành người thừa trong nhà “đi ra đuổi con gà, đi vào đá con chó, đi ngang
nhăn nhó với con mèo” (Văn Thành Lê, 2014, tr.13), trở thành người thừa của xã hội kim tiền.
Về vấn nạn xin việc của đội ngũ giáo chức, Văn Thành Lê có sự gặp gỡ với Trần Thị Hồng
Hạnh trong Bài học đầu tiên và Võ Diệu Thanh trong Lần đầu thấy trăng. Đây là vấp ngã đầu
đời khiến nhân vật Anh (Không biết đâu mà lần), nhân vật “tôi” (Bài học đầu tiên) và thầy giáo
Minh (Lần đầu thấy trăng) tan vỡ bao mộng tưởng tốt đẹp. Cơ chế xin việc dựa trên “quan hệ”
và “tiền tệ” thiếu cơng bằng ấy góp phần tạo nên môi trường sư phạm biến chất với những câu
chuyện dở khóc dở cười: thầy giỏi khơng có đất dụng võ còn những kẻ cơ hội, bất tài, lắm chiêu
trò cứ mọc lên như nấm sau mưa.
Trường học – nơi nhân vật Anh công tác sau cuộc Nam tiến là không gian nghịch dị, thế
giới hỗn độn phản giáo dục. Không gian ấy trở nên ngột ngạt, u tối với căn bệnh thành tích khó
chữa, những chính sách nửa mùa. Không gian cao nhã, tinh khiết của trường học biến thành nơi
kệch cỡm, lố bịch của những con người háo danh, ưa thành tích. Trường học là nơi dạy văn hóa,
447
đào tạo ra những con người tồn diện có đức, có tài để cống hiến cho đất nước. Vậy mà phải cần
người ta cấp cho tấm bằng công nhận cơ quan văn hóa thì mới nực cười làm sao “trường mình
sắp được cơng nhận cơ quan văn hóa” (Văn Thành Lê, 2014, tr.47). Cả xã hội đang chạy đua để
có bằng văn hóa “Làng văn hóa. Ấp văn hóa. Khu phố văn hóa. Gia đình văn hóa.” (Văn Thành
Lê, 2014, tr.47). Và trường học – nơi giáo dục con người cũng phải có bằng văn hóa cho phù hợp
với cuộc chạy đua của xã hội. Thêm vào đó là những chính sách như trò hề của những kẻ mang
danh nhà giáo dục: cộng điểm thi đại học cho mẹ Việt Nam anh hùng dù chiến tranh đã lùi xa sau
gần ba lăm năm “Mới phát động tuần lễ học tập suốt đời, sẽ thành truyền thống hàng năm. Có
khi ra quy định ấy để khuyến khích các mẹ các cụ chống gậy đi học tiếp” (Văn Thành Lê, 2014,
tr.47). Chính sách lố bịch này được sản sinh từ những con người bất tài, thích khoe mẽ, giương
cao ngọn cờ cỗ vũ phong trào học tập suốt đời nhưng viển vông, phi thực tế.
Chưa dừng lại ở đó, mơi trường giáo dục – nơi phát huy sự sáng tạo, tư duy phản biện
của người học lại trở nên kệch cỡm, chỉ có mệnh lệnh, qt nạt, hù dọa “đụng tí, sểnh ra thì
khoa chân múa tay quay cuồng, mắt lịng trắng đục ngầu lòng đen bay biến quát im ngay,
khoanh tay lên bàn, ruồi muỗi vo ve má không được vả, láo nháo đập phát chết giờ, mới ra khỏi
lớp mời phụ huynh lên, đứng cột cờ đầu tuần hạ vài bậc hạnh kiểm lao động cho tủi thân” (Văn
Thành Lê, 2014, tr.37). Với kiểu giáo dục dị thường như trên, thế hệ tương lai sẽ là những đứa
trẻ hoặc không có chính kiến, quan điểm riêng, vơ hồn vơ cảm thờ ơ với cuộc đời hoặc nổi loạn
chống cự, trở thành phần tử xấu của xã hội. Đây chính là nỗi day dứt, đau đớn khôn nguôi của
nhà văn trước “những điều trơng thấy”.
Chưa dừng lại ở đó, khơng gian trường học trở nên ngột ngạt hơn bao giờ hết với cuộc
chạy đua thành tích mà người đứng đầu là hiệu trưởng háo danh khiến học sinh, giáo viên khổ
sở, quay cuồng “Học trò phờ phạc lao theo. Giáo viên phạc phờ mắt nhắm mắt mở cố cười
nham nhở xốc tới. Chỉ vì hai chữ thi đua” (Văn Thành Lê, 2014, tr.98). Mùa hội giảng – ngày
hội giảng dạy trở thành nỗi ám ảnh, ức chế của giáo viên và học sinh cũng phải gồng mình trong
tiết học “Hội giảng tổ bộ mơn. Hội giảng tồn trường. Hội giảng cụm các trường trong khu
vực. Hội giảng toàn tỉnh. Đến hẹn lại lên. Mùa chim làm tổ. Mùa thầy cô hùng hùng hổ hổ.
Lịch hàng năm cố định. Cứ thế rầm rầm bước chân ta đi. Rung chuyển ngành giáo dục này.
Nghe bảo cịn có hội giảng tồn quốc nữa. Quy mơ và rầm rộ lắm như đồn qn ra trận. Hừng
hực hừng hực hừng hực.” (Văn Thành Lê, 2014, tr.83). Thêm vào đó là quy định giờ dạy giỏi
nhất thiết phải có ứng dụng cơng nghệ thơng tin tạo nên những trận cười ra nước mắt. Giáo viên
ra sức chạy theo xu hướng, ứng dụng công nghệ mà chẳng quan tâm nội dung bài học có phù
hợp hay khơng. Đổi mới phương pháp dạy học từ đọc – chép sang chiếu – chép. Học sinh chỉ
quan tâm đến những hình động vui mắt ở trên màn hình mà chẳng hề đả động đến nội dung bài
học “Giáo án điện tử thành hoa lá cành. Thiên la địa võng những hình ảnh trang trí…Đủ cả
bảy sắc cầu vồng thêm nhiều màu sắc mới là con đẻ của thời đại công nghệ lúc thụt lúc
thò…Mỗi góc slide lại thêm vài con bướm có hiệu ứng động vỗ cánh rập rờn… Học trị ngồi
dưới ngước lên thấy sinh động, thích thú, quên béng nội dung bài giảng và lời vàng ý ngọc của
thầy cô. Tha hồ xuýt xoa bài giảng đẹp quá. Ồ! thầy nhiều chim quá. Ồ! Cô nhiều bướm quá.
Bướm cô xinh quá. Chim thầy đẹp quá!” (Văn Thành Lê, 2014, tr.88,89). Như thế, tiết dạy thất
bại hồn tồn, khơng đạt được mục tiêu giáo dục. Trường học trở thành sân chơi của những kẻ
kiến thức hạn hẹp, thủ đoạn vô biên, lắm chiêu nhiều trò.
448
Thế nhưng, căn bệnh thành tích ấy đã ngấm sâu, bào mịn tất cả khiến mơi trường giáo
dục trở nên lệch lạc, méo mó. Vì thành tích, những tiết dạy khơng được góp ý đàng hồng để
người dạy rèn giũa tay nghề mà thay vào đó là những lời khen sáo mòn, trống rỗng phù hợp với
xu thế, làm “đẹp lịng” mọi người “từ trong trường đóng cửa bảo nhau thành trong Sở bảo
nhau đóng cửa đến trong Ngành cửa đóng bảo nhau. Và rồi khen thưởng. Và rồi vỗ tay. Và rồi
ngất ngây. Và rồi lên mây…Cả làng vui” (Văn Thành Lê, 2014, tr.90). Một tiết dạy mà chỉ quy
lại hai từ “cái ấy”, “cái này” của thầy trưởng bộ mơn Thể dục – Quốc phịng đã phơi bày sự
xuống cấp của một nền giáo dục. Thầy từng đi lính nghĩa vụ, ra quân thì vào trường Thể dục
thể thao với nhiều ưu tiên ưu đãi, thuộc lớp “khai quốc công thần”, thế hệ đầu tiên của trường.
Với vốn từ hạn hẹp, kiến thức yếu như thế làm sao thầy có thể giáo dục học trị “Giảng về cấu
tạo súng. Quẩn quanh thầy dùng mỗi hai từ “cái ấy” và “cái này”. Lúc vẽ lên bảng. Lúc cầm
mũ thị phạm. Báng súng. Ốp lót tay. Hộp tiếp đạn. Cò súng. Thước ngắm. Nòng súng… Bộ
phận nào cũng có tên gọi đầy đủ. Nhưng thầy cứ hai từ “cái ấy” và “cái này” để chỉ” (Văn
Thành Lê, 2014, tr.85). Lúc đánh giá tiết dạy giỏi mới khiến người đọc bật ngửa bởi “Mốt bây
giờ là cái gì cũng phải… tốt” (Văn Thành Lê, 2014, tr.86). Như vậy, thi đua không cịn giá trị,
nó chỉ là đường đua cho những kẻ háo danh thực hiện mưu đồ của mình.
Chưa hết, căn bệnh thành tích cũng biến môi trường giáo dục thành nơi lố lăng, bất chấp
chất lượng đào tạo, ăn mòn đạo đức giáo chức. Để đạt chuẩn quốc gia, giáo viên phải đánh đổi
lương tâm nghề nghiệp, bằng mọi giá phải cho điểm để học trò lên lớp như thầy hiệu trưởng
yêu cầu “Điểm số của học trò như thế này khơng được. Dứt khốt khơng. Trường ta đã đăng
ký phấn đấu đạt chuẩn quốc gia. Để điểm của học trò như thế này làm sao có thể đạt chuẩn.
Bằng mọi giá không thể để tỉ lệ điểm kiểm tra này tổng kết được. Khơng thể để tình trạng học
trò lưu ban và thi lại nhiều như những năm trước.” (Văn Thành Lê, 2014, tr.93). Chẳng hề quan
tâm chất lượng đầu vào “năm nào điểm tuyển sinh đầu cấp cũng ln nằm trong tốp đầu tồn
tỉnh , tính từ dưới lên” (Văn Thành Lê, 2014, tr.93), “mỗi lớp đều có một nửa số học trò thi
lại…Trong một nửa xấu số thi lại có một phần tư xấu số lần hai ở lại chỉ huy đàn em mới lên”
(Văn Thành Lê, 2014, tr.94), điều người đứng đầu trường học quan tâm là danh hiệu trường
chuẩn quốc gia khiến giáo viên và học sinh phải gồng mình chạy theo.
Mơi trường giáo dục khơng cịn là nơi trang bị kiến thức, kích thích niềm đam mê tìm
hiểu tri thức mới của học trị mà biến thành nơi nhồi nhét kiến thức, nhồi càng nhiều càng tốt
“bảnh mắt đã bị nhồi nhét muốn sặc sụa chữ muốn ngộ độc lời. Cặp sách nặng hơn trọng lượng
cơ thể…học chính khóa buổi sáng, học phụ đạo buổi chiều, học thêm thông tầm từ chập choạng
giờ gà vào chuồng đến đêm gà say giấc mơ màng” (Văn Thành Lê, 2014, tr.102). Học sinh
mười hai giống như những con gà cơng nghiệp, những con vẹt khơng biết nói tiếng nói của
mình vì tỉ lệ tốt nghiệp phải đạt một trăm phần trăm “vào mùa tăng tốc giáo viên và học trò
khối 12 vào học từ sáu giờ. Giáo viên lên khảo bài cho học trò. Học thuộc lòng. Không thuộc
cũng phải thuộc” (Văn Thành Lê, 2014, tr.122). Thậm chí, nguy hại hơn, việc lựa chọn ngành
học, trường học của học sinh cũng bị can thiệp thơ bạo vì thành tích “Nhà trường can thiệp đến
hồ sơ đăng ký dự thi các trường chuyên nghiệp của học trò tàn bạo và quyết liệt hơn bố mẹ học
trò…Nguyện vọng 1 học trò tự quyết, nguyện vọng 2 bắt buộc học trò đăng kí trường đại học
dân lập hoặc đại học ở địa phương để lọt sàng xuống nia chắc chắn đậu. Dù trường gì cũng
đậu. Để trường báo cáo với huyện với tỉnh với Sở tỉ lệ đậu đại học cao chót vót, khơng thua
449
trường hàng xóm nào. Dẫu học trị có học hay khơng mặc kệ. Thành tích trường rực rỡ vàng
son cái đã” (Văn Thành Lê, 2014, tr.123). Hai chữ thành tích đã biến môi trường giáo dục trở
thành nơi ngột ngạt, phản giáo dục. Thông qua lăng kính nghịch dị của Văn Thành Lê – người
từng là giáo viên, những mảnh vỡ, vệt đen của giáo dục cứ thế bóc ra khiến người đọc nhức
nhối, chua chát. Một môi trường giáo dục nghịch dị như thế liệu thế hệ trẻ sẽ đi về đâu?
2.2.3 Ngôn ngữ nghịch dị
Văn xuôi đương đại bước vào cuộc thử nghiệm ngôn ngữ táo bạo để phản ánh cuộc sống
gai góc với những mối quan hệ đa chiều. Khơng cịn những ngơn ngữ trang nghiêm, kiểu cách,
khn sáo mà thay vào đó là ngơn ngữ thơng tục, suồng sã. Viết về những mảng tối, góc khuất
của thế giới giáo dục hỗn tạp trong Không biết đâu mà lần, Văn Thành Lê lựa chọn pha trộn
giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày. “Khác với sự “mĩ hóa” thế giới
trong văn xi giai đoạn 1945 – 1975, văn xi sau 1975 có xu hướng diễn tả thực tại trong
những trạng thái tục tằn thơ nhám nhất của nó” (Vũ Thị Hồi Thanh, 2016). Trong văn xuôi
đương đại, các nhà văn công nhiên thông tục hóa phi thẩm mĩ ngơn từ, “tính chuẩn mực của
ngôn từ văn học truyền thống bị phá vỡ” (Vũ Thị Hồi Thanh, 2016).
Cách hành ngơn “viết như nói”, ngơn ngữ đường phố trong Không biết đâu mà lần, được
sử dụng dày đặc “có việc gì đâu mà làm, tao đánh rắm cái là xong”, “lầy lội cứt trâu cứt bị mà
rống tướng lên”, “gió phe phẩy cành như con mụ hàng cá phe phẩy quạt đuổi ruồi”, “muốn
dựng lông chân”, “có mà xụi lơ”, “hắc xì dầu q”, “sểnh ra”, “láo nháo đập phát chết giờ”,
“he he”, “con chó mới đẻ vú vê sữa siếc dài lòng thòng cắn rát lỗ tai”, “chình ình” (Văn Thành
Lê, 2014)... Lớp ngơn ngữ thơng tục, thơ nhám này đã góp phần phản ánh chân thực môi trường
giáo dục hỗn tạp. Đồng thời, ngơn ngữ đường phố ấy cũng bóc mẽ nhân cách của đội ngũ giáo
chức – tầng lớp trí thức vốn khơng được dùng kiểu ngơn ngữ đường phố.
Cùng với đó là những ngôn từ liên quan đến thân thể đặc biệt là những bộ phận nhạy cảm
của con người “mông”, “gị bơng đảo”, “chim”, “bướm” cũng được nhà văn sử dụng không
ngần ngại “ban đêm thầy mổ trên đối tượng họ Homo Sapiens, là người, để chứng minh tính tự
động của…chim”, “chống bóng bổng với đơi gò bồng đảo của cô em xinh xinh”, Ồ! thầy nhiều
chim quá. Ồ! Cô nhiều bướm quá. Bướm cô xinh quá. Chim thầy đẹp quá!”, “vung chim đi đánh
gái người”, “Mẹ! phải tận mắt được thẩm mông trông vú mới thấu hết được cái thú đời trai”
(Văn Thành Lê, 2014)… Dùng ngôn ngữ chỉ hạ tầng thân xác, nhà văn lột tả xuất sắc chân dung
những ông thầy ham mê sắc dục, suy đồi đạo đức.
Chưa dừng lại ở đó, tiếng lóng – biệt ngữ xã hội cũng được Văn Thành Lê tận dụng tối
đa để tái hiện những mảng tối, những góc khuất của giáo dục trong Không biết đâu mà lần.
Khi viết về quyết định Nam tiến của nhân vật Anh, nhà văn sử dụng từ “nhảy dù” – chuyển chỗ
ở, nơi làm việc. Để khắc họa chân dung của ông thầy sở khanh chính hiệu, Văn Thành Lê sử
dụng một loạt tiếng lóng “Trong mỗi tiết dạy, mắt thầy chiếu tướng góc phải, chọc khe chính
giữa, tạt qua biên góc trái. Thuần thục như cặp kính là gọng chiếu sắc. Càng ngày càng sắc
sảo. Học trò nữ được thầy quan tâm sâu sát mắt la mày liếc như cáo già rình gà non. Ơi những
con gà ri, gà nhà, gà giị mới lớn, khơng thuốc kích thích vỗ béo, khơng sâu bệnh, căn miếng
cứ gọi là ấm tận chân răng, căng tràn nhựa sống, lồng lộng suối lòng ” (Văn Thành Lê, 2014).
Thay vì sử dụng từ “nhìn”, “liếc”, nhà văn trẻ khéo léo sử dụng “chiếu tướng”, “chọc khe”, “tạt
450
qua biên” để châm biếm ánh nhìn nhuốm màu sắc nhục dục của ông thầy “dê xồm” với học
sinh nữ. Hay “con gà ri, gà nhà, gà giò mới lớn” dùng để chỉ học trò mới lớn, biến thầy dạy
sinh trở thành con cáo rình mồi, bộc lộ đầy đủ bản chất “trâu già thích gặm cỏ non”.
Đặc biệt, trong Không biết đâu mà lần, Văn Thành Lê sử dụng hiện tượng “bành trướng”
ngôn từ “những bành trướng của ngôn từ khơng đơn thuần là những trị tự thân của sự viết, mà
có những căn ngun mang tính thế giới quan” (Vũ Thị Hoài Thanh, 2016). Trong những trang
viết của mình, Văn Thành Lê đã cố ý xây dựng hệ thống ngôn ngữ làm dài câu ra, bành trướng
cái biểu đạt tạo nên một trị chơi ngơn ngữ để tái hiện lại môi trường giáo dục hỗn tạp. Khi viết
về vấn nạn chạy chọt, xin việc, Văn Thành Lê đã thể hiện những liên tưởng thú vị thông qua
cách diễn đạt dài dòng “Đâu đâu cũng thấy chạy. Người người chạy. Nhà nhà chạy. Chạy nước
rút. Chạy marathon từ trước đó. Như thể chạy là truyền thống là bản sắc. Vậy mà oái oăm sao
làm sao, trớ trêu thế nào đấy, thật không thể hiểu được, môn điền kinh của nước nhà chỉ lon
ton quẫy đạp luẩn quẩn ở vùng đặc biệt trũng Sea Games chứ đấu trường Asiad và Olympic
vẫn là… mơ về nơi xa lắm” (Văn Thành Lê, 2014). Khi giới thiệu về Long – giáo viên dạy Vật
Lý, trưởng khu tập thể, Văn Thành Lê viết: “Thời sinh viên, đôi vai rộng và bè của Long đã
oằn trĩu vì vài cuộc tình tưởng chắc như keo dính chuột, sản phẩm của trung tâm cơng nghệ
hóa màu có địa chỉ ở băng cassette rao vặt khắp hang cùng ngõ hẻm bất chấp thời tiết nắng
mưa sáng trưa chiều tối, nhưng đã tan vỡ như bong bóng trẻ em vẫn đòi bố mẹ mua để chổng
mông lấy hơi thổi với công dụng hai trong một vừa chơi vừa luyện phổi mong một ngày dậy thì
giọng cao chót vót nhảy nhót phắt lên thành ca sĩ gây náo động showbiz vốn dĩ đã rối như múa
rối cạn” (Văn Thành Lê, 2014). Hay sự thay đổi của một con người sau nhiều năm đi dạy khiến
mọi người ngỡ ngàng được nhà văn tái hiện “sau vài năm đi dạy, sau khi ôm được vài chồng
giấy khen chiến sĩ thi đua cấp cơ sở và trên cấp cơ sở với kha kha giấy chứng nhận giáo viên
giỏi theo các tiêu chí đóng cửa tự khen nhau, thì mọi sự liễu yếu đào tơ bay biến, không cánh
mà bay, một đi không trở lại. Nàng giờ sẵn sàng đánh con như chém chả. Như Tôn Hành Giả
Tôn Tỏi Thật múa gậy Như Ý. Quát mắng con có bài có bản có lớp có lang tràng giang đại hải”
(Văn Thành Lê, 2014). Khuôn mặt thầy cô trong mỗi mùa hội giảng hiện lên thật sinh động qua
câu văn dài “có thầy mặt hằm hằm khó đăm đăm nhăn nhăn nhó nhó như ăn nhầm mù tạt. Có
cơ hớn ha hớn hở mặt rạng ngời mà khơng chói lóa như hãy nói Konica chụp ảnh trong vườn
thú. Học trị thì thở dài oai ối uể oải lả lướt trườn theo muốn hụt hơi đứt thở cùng những
khn mặt nhăn nhó và hớn hở trên” (Văn Thành Lê, 2014)…
Chưa hết, trong Không biết đâu mà lần, nhà văn thuộc thế hệ 8X cịn có sử dụng ngôn
ngữ “nhại”. “Nhại” là phương thức nghệ thuật dùng để châm biếm. Đây là kiểu ngôn ngữ khá
phổ biến của văn học hậu hiện đại. Nhà văn dùng ngôn ngữ “nhại” để châm biếm, thể hiện cái
nhìn mới về con người và cuộc sống phức tạp, đa chiều, ngổn ngang. Một loạt thành ngữ, tục
ngữ, câu hát, thơ chế xuất hiện trong tác phẩm: “vùng ngoại ơ tơi có ngơi trường nâu, tuy bé
nhưng thật xinh, tháng ngày sống trong n bình” “nhại” theo bài hát “Vùng ngoại ơ” của Lê
Minh Bằng, “chắc như keo dính chuột” (Văn Thành Lê, 2014, tr. 43) nhái lại câu thành ngữ
“chắc như đinh đóng cột”. Hay khi châm biếm bản chất lì lợm, ham của “lạ” của thầy dạy Sinh,
nhà văn nhại theo câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan kết hợp câu tục ngữ, ca dao chế “Thầy
trơ gan cùng tuế nguyệt. Lòng thầy vẫn vững như kiềng ba chân”, “Thứ trâu ta ăn cỏ đồng ta,
nếu là đồng bạn thì qua tha về” (Văn Thành Lê, 2014, tr.56). Để thể hiện sự liều lĩnh của nhân
451
vật Anh khi tổ chức buổi sinh hoạt cho câu lạc bộ Sức khỏe sinh sản vị thành niên, Văn Thành
Lê “nhại” theo Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu kết hợp chế thành ngữ “Anh
liều mình như chẳng có. Quyết vẽ đường cho hươu chạy một phen” (Văn Thành Lê, 2014, tr.62),
“nam nữ thụ thụ sát thân hoặc …bán thân” (Văn Thành Lê, 2014, tr.68). Một loạt bài hát chế
cũng được sử dụng khéo léo: “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, chọn tới chọn lui hết cha một
ngày” (Văn Thành Lê, 2014, tr.74) – “nhại” lại bài hát của Trịnh Công Sơn, “em vẫn từng đợi
anh. Như anh từng đợi nó. Như nó đợi thằng kia. Như thằng kia mong con đó” (Văn Thành Lê,
2014, tr.77) – chế theo lời bài hát “Hoa sữa”, “đường sá mùa này phố cũng như sông, nước lút
ngập mông em đi chơi không phải mặc quần” – “nhại” theo bài hát “Hà Nội mùa này vắng
những cơn mưa”, “gọi nắng cho em phơi quần, trời cao có hay” (Văn Thành Lê, 2014, tr.80) –
chế lại theo lời bài hát “Hạ trắng”. Hay nỗi lịng của thầy cơ khi mùa hội giảng đến được gửi
trọn trong câu văn chế theo bài hát “Nỗi buồn hoa phượng” “mỗi năm đến mùa lịng tơi thấy
rầu” (Văn Thành Lê, 2014, tr.82).
Với ngơn ngữ “nhại”, nhà văn đã phá vỡ tính mực thước, nghiêm trang, khuôn mẫu của
ngôn ngữ văn học truyền thống, thể hiện lớp ngơn ngữ bình dân đem đến tính sinh động, chân
thực cho tác phẩm. Đồng thời, nhà văn cũng kích thích trí tưởng tượng của người đọc để khám
phá giá trị thực của tác phẩm.
2.2.4 Giọng điệu nghịch dị
Giễu nhại là một hình thức rất quen thuộc trong đời sống và đi vào văn chương như một
thủ pháp nghệ thuật đắc dụng. Đó là kỹ thuật bắt chước lại lời của người khác nhằm mục đích
châm biếm, mỉa mai. Giọng giễu nhại xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm văn xuôi sử dụng
nghệ thuật nghịch dị. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “giọng điệu phản ánh lập trường xã hội,
thái độ, tình cảm và thị hiếu thẫm mĩ của tác giả, có vai trị rất lớn trong việc tạo nên phong
cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” (Lê Bá Hán, 2007, tr.134). Qua giọng
điệu, nhà văn thể hiện thái độ, tâm tư, tình cảm của mình. “Những tác phẩm viết trên lối mới
có một giọng điệu đặc biệt, một thứ giọng kể có vẻ “khơng nghiêm túc”, thậm chí như đùa giỡn,
vừa coi điều mình kể là thành thực, vừa coi nó như chẳng có gì là quan trọng. Tính chất “nửa
đùa nửa thật” ấy không chỉ làm tăng thêm sự phong phú và vẻ thoải mái, lôi cuốn của giọng kể
mà còn làm nhòa đi những đối lập triệt để về nghĩa, về tư tưởng và do đó làm giàu thêm tinh
thần của tác phẩm” (Phùng Gia Thế, 2013).
Trong Không biết đâu mà lần, Văn Thành Lê đã phát huy sức mạnh của giọng điệu
giễu nhại để phơi bày sự giả tạo, kệch cỡm của những con người làm nghề cao quý – thầy
giáo. Chân dung thầy hiệu trưởng hám danh, biến trường học thành trường đua thành tích
được lột tả “sống lâu lên lão làng. Ghế trên ngồi tót sỗ sàng như khơng. Khơng lâu sau nhảy
phắt lên phó hiệu trưởng rồi hiệu trưởng” (Văn Thành Lê, 2014, tr.97). Lật giở 135 trang
sách, nhà văn giễu cợt, châm biếm, đả kích những ông thầy sống bản năng, đậm màu “sắc
dục”. Khi thầy dạy Sinh tiền nhiệm đi tù, một cô đổ lỗi do nhà trường chưa tách tổ bộ môn
“Tại sao cứ để các tổ ghép. Ừ thì Sử - Địa – Giáo dục cơng dân cũng được đi, Tốn – Tin
cũng được đi, nhưng ai lại ghép Sinh học, Công nghệ với Thể dục – Quốc phịng thành một
tổ, có phải vậy thành Công nghệ - Sinh – Dục không? Thầy ở tổ Cơng nghệ – Sinh – Dục thì
phải phát huy bản sắc cốt lõi của tổ” (Văn Thành Lê, 2014, tr.60). Một lí do nực cười để biện
bác cho sự tha hóa đáng báo động của thầy.
452
Hay khi phơi bày cuộc cải cách giáo dục thời đại công nghệ số, nhà văn vẫn trung thành
với giọng châm biếm, giễu nhại: “những cú thay sách đổi mới chương trình xỉa lưng, giảm
tải chương trình vỗ mặt… Thiếu sống dở chết dở, vừa bơi vừa thở khó nhọc mong đủ tuổi hưu
như trẻ con mong mẹ đi chợ về thuở nào. Giờ lại thêm cú áp dụng công nghệ thông tin vào
dạy học, thay đổi phương pháp từ đọc – chép sang chiếu – chép thì đúng là muốn ngã ngựa”
(Văn Thành Lê, 2014, tr.86). Giáo viên chạy theo thành tích với những bài giảng đạt giải vơ
hồn như “bị nhai lại” vì “giáo viên mượn vài lớp chà đi chà lại vài lượt, gọi là chạy thử”
(Văn Thành Lê, 2014, tr.89) và khi dạy thật thì “nói lại như cái máy, mọi cảm xúc trôi tuột đi
lang thang cù bơ cù bất đằng nào chẳng rõ” (Văn Thành Lê, 2014, tr.89). Dự giờ học hỏi
kinh nghiệm trở thành chuyện xa xỉ, cho mượn giáo án chép để mọi người cùng “khỏe”: “gì
mà em phải khổ một cách hồn nhiên thế, mất công ra. Chị dạy kiểu ngẫu hứng lý ngựa ơ. Có
em dự lại phải chuẩn bị, rầy rà ra” (Văn Thành Lê, 2014, tr.33), “cuối đợt chị cho mượn giáo
án, em tự ghi vào sổ theo ý em rồi chị kí xác nhận đã dự giờ là xong. Khỏe chị khỏe em trăm
trận trăm thắng. Trước chị cũng vậy. Ai cũng vậy. Hơi đâu nhiệt tình mất thời gian” (Văn
Thành Lê, 2014, tr.33).
Câu cửa miệng và cũng là nhan đề của tác phẩm “không biết đâu mà lần” được lặp lại hai
mươi lần và được nhấn mạnh cuối mỗi chương chất chứa giọng điệu giễu nhại nhưng cũng đầy
chua chát, suy tư về những gì đang diễn ra trong môi trường giáo dục hỗn độn, mọi thang giá
bị đảo lộn. Nỗi niềm của một giáo viên như nhân vật Anh cũng là nỗi niềm của thầy cơ đang
đứng trên bục giảng “Ai cũng có việc làm nhưng không ai làm việc. Ai cũng không làm việc
nhưng ai cũng có lương. Ai cũng có lương nhưng khơng ai đủ sống. Ai cũng không đủ sống
nhưng ai vẫn sống. Ai cũng sống nhưng không ai hài lòng. Ai cũng không hài lòng nhưng ai
cũng giơ tay đồng ý” (Văn Thành Lê, 2014, tr.130). Một tấn bi hài kịch về giáo dục được phô
diễn trọn vẹn, những thứ hào nhống về mơi trường trong sạch, thanh khiết trong quan niệm
của con người trước đó hồn tồn bay biến. Chỉ cịn lại một mơi trường lệch chuẩn, méo mó, dị
thường, phi giáo dục. Giọng điệu giễu nhại trở thành giọng văn chủ đạo trong Không biết đâu
mà lần để lật tẩy những mảng tối đang tồn tại trong môi trường giáo dục. Những góc khuất ấy
lại được bao bọc trong lớp vỏ ngụy tạo hào nhoáng khiến người ta lầm tưởng. Ẩn sau giọng
điệu ấy là sự chua chát đến cùng cực của nhà văn trước những ung nhọt của ngành giáo dục.
Từ đó, Văn Thành Lê muốn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh những người đang đứng trên bục
giảng ươm mầm tri thức: đừng biến trường học thành trường đua thành tích, đừng biến học sinh
thành những con gà công nghiệp, đừng đổi mới giáo dục nửa vời về hình thức, đừng để những
con sâu giả danh trí thức tồn tại… Văn Thành Lê sẵn sàng vén tấm màn nhung hào nhoáng che
lấp những vết đen bên trong để chúng ta cùng tìm ra cách làm mờ và xóa nhòa những lấm lem
trả lại sự trong sáng, lành mạnh cho môi trường giáo dục.
3. KẾT LUẬN
Bằng sự duyên dáng, sắc sảo của ngòi bút đã neo đậu trong lòng độc giả thời công nghệ
số, Văn Thành Lê khéo léo đánh lừa độc giả tưởng chừng chỉ là những câu chuyện trường,
chuyện lớp bình thường nhưng đằng sau đó là những mặt trái, những vệt đen khiến bản thân
anh – người trong cuộc khơng khỏi cay đắng, xót xa. Một môi trường giáo dục hỗn độn, ngổn
ngang với mọi giá trị bị đảo lộn khiến con người hoang mang “không biết đâu mà lần”. Đả kích
453
ngành giáo dục, Văn Thành Lê muốn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh xã hội để xây dựng môi
trường giáo dục phù hợp với công việc “trồng người”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Tuấn Ảnh (2007). Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam qua so sánh với văn
xi Nga. Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12.
2. Lại Nguyên Ân (2004). 150 thuật ngữ văn học. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Lê Bá Hán (2007). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
4. Nguyễn Xuân Thành (2020). Nhân vật giễu nhại trong truyện ngắn Việt Nam đương đại. Tạp chí
khoa học và cơng nghệ, 15(3).
5. Phùng Gia Thế (2013). Tính chất các-na-va trong ngơn ngữ văn xuôi Việt Nam đương đại. Tổ quốc
/>6. Văn Thành Lê (2014). Khơng biết đâu mà lần. TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản trẻ.
7. Việt Quỳnh (2019). Nhà văn Văn Thành Lê: Mỗi người lớn đều có bóng dáng trẻ con. Đại đoàn kết
/>8. Vũ Thị Hoài Thanh (2016). Chất nghịch dị trong tiểu thuyết “Những đứa con rải rác trên đường”
của Hồ Anh Thái. Văn học nghệ thuật.
454