Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

tham luan nang cao nhan thuc ve hoat dong trai nghiem sang tao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.34 KB, 7 trang )

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Bài tham luận: Nâng cao nhân thức về hoạt động trải nghiệm sáng tạo
Kính thưa quý vị đại biểu! Thưa toàn thể Hội đồng Nhà trường!
Hoạt động TNST là một thuật ngữ chưa tồn tại trong chương trình giáo dục cũ
của chúng ta. Nó mới xuất hiện trong đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa
phổ thơng (cịn gọi tắt là Chương trình mới) và hiện nay chúng ta đang tích cực thể
nghiệm. Trong thực tế dạy học - giáo dục lâu nay, chúng ta đã thực hiện, tuy nhiên, ta
vẫn chưa định hình rõ về vai trị, đặc trưng, mục đích giáo dục,... của nó. Vậy bản
chất của hoạt động này là gì? nó có vai trị, ưu thế gì trong nền giáo dục? để tổ chức
tốt hoạt động này cần lưu ý những yêu cầu nào? v..v..
Vì kinh nghiệm thực tế cịn ít nên tôi chỉ xin chia sẻ những “vỡ vạc” trong
nhận thức của mình khi nghiên cứu lí thuyết và đối chiếu nó với thực tiễn tổ chức
hoạt động này ở trường ta.
1. Vai trò - Ưu thế của hoạt động TNST
Hiện nay, TNST đang trong giai đoạn được đốc thúc thực nghiệm. Đến năm
học này, riêng bộ môn Ngữ văn, Sở đã chủ trương: khi lập kế hoạch giảng dạy, mỗi
khối phải có ít nhất 4 tiết TNST trong chương trình. Tuy nhiên, trong chương trình
giáo dục mới, kế hoạch giáo dục được chia thành hai phần lớn: một là các môn học,
các chuyên đề học tập (gọi chung là môn học); hai là hoạt động trải nghiệm sáng tạo;
hoạt động giáo dục (hiểu theo nghĩa rộng) cũng bao gồm hai hoạt động chính: hoạt
động dạy học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Như vậy, “Hoạt động trải nghiệm
sáng tạo là hoạt động giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ
thơng mới. Hoạt động này giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng
những kiến thức học được vào thực tiễn, từ đó, hình thành năng lực thực tiễn cũng
như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân”.
Nếu mục tiêu chủ yếu của dạy học trên lớp là phát triển trí tuệ thì mục tiêu chủ
yếu của hoạt động TNST là phát triển phẩm chất. Cụ thể là: hình thành và phát triển
những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những năng lực
chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại thơng qua những trải nghiệm thực
tiễn.


2. Đặc trưng và yêu cầu của HĐ TNST:


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

“Hoạt động TNST là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà
giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác nhau
của đời sống nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động,
qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng
tạo của cá nhân mình.” Trong đó, khái niệm “trải nghiệm” dùng để chỉ phương thức
giáo dục, cịn “sáng tạo” chính là mục tiêu giáo dục.
“Trải nghiệm” là thể nghiệm, thực nghiệm. Khi trực tiếp tham gia các hoạt
động trong thực tiễn với tư cách chủ thể hoạt động, người học sẽ phát triển về kiến
thức, kĩ năng, tình cảm và ý chí nhất định.
Trong q trình tham gia hoạt động TNST, để giải quyết các nhiệm vụ thực
tiễn, học sinh sẽ phải vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có để giải quyết vấn đề, ứng
dụng trong tình huống mới (khơng theo chuẩn đã có); hoặc nhận biết được vấn đề
trong các tình huống tương tự; hoặc có khả năng độc lập nhận ra chức năng mới của
đối tượng; hoặc có năng lực tìm kiếm và phân tích được các yếu tố của đối tượng
trong các mối tương quan của nó, hay có thể độc lập tìm kiếm ra giải pháp thay thế và
kết hợp được các phương pháp đã biết để đưa ra hướng giải quyết mới cho một vấn
đề. Đó chính là sự sáng tạo của học sinh, là mục tiêu giáo dục tích cực mà ta cần đạt
được.
Qua nghiên cứu lí thuyết cho thấy: các hoạt động ngồi giờ lên lớp, ngoại khóa,
sáng tạo KHKT... lâu nay cũng chính là những dạng hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Ở một số nước, hoạt động TNST vẫn thường được gọi là hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Tuy nhiên, chúng ta cần biết tại sao trong đề án đổi mới chương trình GD VN, chúng
lại được gọi bằng thuật ngữ mới – tức gọi là HĐ TNST?
Các nhà khoa học GD cho biết: Việc gọi tên khác cho hoạt động ngồi giờ lên
lớp ở Chương trình GD mới, khơng chỉ là vì nội hàm triết lý giáo dục đã thay đổi, mà

cịn vì chúng ta muốn nhấn mạnh đến sự thay đổi nhận thức, ý thức về cái mới của
hoạt động này: tránh sự hiểu nhầm rằng ngồi giờ thì khơng quan trọng, khơng có vị
trí xứng đáng; hoặc là đơn giản hóa nội dung, mục đích của hoạt động này,… Trong
tên gọi mới, “trải nghiệm” là phương thức giáo dục và “sáng tạo” là mục tiêu giáo
dục, phải được làm rõ.


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Cụ thể, HĐ ngồi giờ lên lớp lâu nay đang mắc phải một số hạn chế như sau:
- Các hoạt động đó chủ yếu được tổ chức dựa trên các chủ đề đã được quy định
trong chương trình với các hình thức cịn chưa phong phú; học sinh thường được chỉ
định, phân công tham gia một cách bị động, các em chưa được chủ động tham gia tất
cả các khâu trong tiến trình hoạt động.
- Giáo viên tổ chức hoạt động cho học sinh nhưng chưa xác định rõ hoạt động
đó sẽ hướng tới hình thành những năng lực gì của các em. Điều đó khơng phù hợp
với một chương trình định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, cần phải
thay đổi.
Trong Chương trình mới, các hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ, kể cả dạy
học trên lớp sẽ phong phú hơn cả về nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động,
đặc biệt, mỗi hoạt động phải phù hợp với mục tiêu phát triển những phẩm chất, năng
lực nhất định của học sinh; nghĩa là học sinh được học từ trải nghiệm – nhưng không
đơn giản chỉ là “trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy khơng bằng một làm” mà
cịn cao hơn nữa.
Ví dụ, thử so sánh “học qua trải nghiệm” (hoạt động trải nghiệm) với “học
thông qua làm” (tức: thực hành, thí nghiệm) ta sẽ thấy giống và khác nhau như thế
nào?
Hai cách học trên gần giống nhau - giống ở chỗ: người học đều trực tiếp tham
gia vào hoạt động và ở tư cách chủ thể hoạt động. Tuy nhiên, “học qua làm” là nhấn
mạnh về thao tác kỹ thuật cịn “học qua trải nghiệm” giúp người học khơng những có

được năng lực thực hiện mà cịn có những trải nghiệm về cảm xúc, ý chí và nhiều
trạng thái tâm lý khác. “Học qua làm” chú ý đến những quy trình, động tác và đi đến
kết quả là chung cho mọi người học nhưng “học qua trải nghiệm” lại chú ý tới kinh
nghiệm, sự sáng tạo và cảm xúc cá nhân. Các em được trải nghiệm, được bày tỏ quan
điểm, ý tưởng, được đánh giá và lựa chọn ý tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng
định bản thân, được tự đánh giá và đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của
nhóm mình và của bạn bè,… Từ đó, hình thành và phát triển cho các em những giá trị
sống và các năng lực cần thiết. HĐTNST về cơ bản mang tính chất của hoạt động tập


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

thể trên tinh thần tự chủ, với sự nỗ lực giáo dục nhằm phát triển khả năng sáng tạo và
cá tính riêng của mỗi cá nhân trong tập thể.
Trong hoạt động TNST, Nhà giáo dục không tổ chức, không phân công học
sinh một cách trực tiếp mà chỉ hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát cho tập thể hoặc cá nhân
học sinh tham gia trực tiếp; hoặc ở vai trị tổ chức hoạt động, giúp học sinh chủ động,
tích cực trong các hoạt động; phạm vi các chủ đề hay nội dung hoạt động và kết quả
đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất và năng lực sáng tạo đa dạng, khác nhau của
các em.
Hoạt động TNST không chỉ hướng đến những phẩm chất và năng lực chung
như đã được đưa ra trong Dự thảo Chương trình mới, mà cịn có ưu thế trong việc
thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù như:
- Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động
- Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống
- Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân
- Năng lực định hướng nghề nghiệp
- Năng lực khám phá và sáng tạo
Vì vậy đầu ra của hoạt động TNST khá đa dạng và khó xác định mức độ chung,
nhất là khi nó lại ln gắn với cảm xúc, khơng dễ đánh giá.

Có nhiều cách đánh giá kết quả hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Điều quan
trọng nhất của các phương pháp này là cần: quan sát, nhận xét, góp ý để đánh giá và
phải ngay trong quá trình hoạt động thực tiễn, dựa trên các biểu hiện cụ thể về
phương thức chứ không chỉ dựa vào kết quả hoạt động cuối cùng của học sinh. Thí dụ:
Đặt học sinh trước tình huống có vấn đề cần giải quyết, quan sát cách thức và kết quả
giải quyết tình huống của học sinh để đánh giá được năng lực giải quyết vấn đề và
nhiều năng lực khác. Hồ sơ sản phẩm của một nghiên cứu khoa học hay của một
chuyến tham quan thực địa cũng là minh chứng thuyết phục để đánh giá nhiều năng
lực khác nhau của học sinh. Nhìn chung, đánh giá năng lực đầu ra của hoạt động trải
nghiệm sáng tạo cần sử dụng nhiều hình thức đánh giá, nhiều bộ cơng cụ đánh giá,
coi trọng nhận xét q trình tiến bộ về nhiều mặt khác nhau của học sinh.


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

(Như vậy, lâu nay từ cách thức tổ chức cho đến khâu kiểm tra đánh giá hoạt
động TNST, chúng ta vẫn chưa thực hiện chuẩn xác yêu cầu, mục đích giáo dục của
hoạt động.)
Theo các nhà nghiên cứu GD, ngoài những hoạt động TNST được thiết kế
thành hoạt động riêng, trong từng môn học cũng cần coi trọng việc tổ chức, hướng
dẫn các hoạt động TNST phù hợp với đặc trưng nội dung môn học và điều kiện dạy
học; cần phải lưu ý đến các điều kiện để thực hiện chương trình hoạt động TNST (ví
dụ: tăng biên chế giáo viên nếu thiếu, hỗ trợ giáo viên về tài liệu, tổ chức tập huấn
hoặc đào tạo cấp chứng chỉ về tổ chức hoạt động TNST…)
3. Một số hình thức tổ chức hoạt động TNST
Có thể kể ra một số hình thức hoạt động TNST như sau:
- Hình thức có tính khám phá: thực địa, thực tế, tham quan, dã ngoại, cắm
trại,...
- Hình thức có tính triển khai: dự án và nghiên cứu khoa học, sáng tạo KHKT,
hội thảo, câu lạc bộ, ...

- Hình thức các hội thi, cuộc thi: thi viết, thi vẽ, thi tìm hiểu, đố vui, giải ô chữ,
thi tiểu phẩm, thiết kế thời trang, kể chuyện, chụp ảnh, thuyết trình, tạo video clip,...
về một chủ đề nào đó
- Hình thức có tính trình diễn: diễn đàn, giao lưu, sân khấu hóa, tổ chức trị
chơi,...
- Hình thức có tính cống hiến, tn thủ: thực hành lao động việc nhà, việc
trường, lao động cơng ích, tổ chức sự kiện, hoạt động chiến dịch, hoạt động nhân đạo
– hoạt động tình nguyện vì xã hội,...v..v..
4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động TNST
Từ lí thuyết đối chiếu với thực tiễn hoạt động này ở trường ta, tôi nhận thấy
cần lưu ý một số vấn đề sau:
- 1) Vì chúng ta đang trong giai đoạn thực nghiệm cho Chương trình mới, điều
kiện dạy học chưa thuận lợi,... nên cần nghiên cứu kĩ hơn lý luận về tổ chức hoạt
động TNST, đúc rút kinh nghiệm sau mỗi hình thức hoạt động.


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

- 2) Về quy mơ tổ chức HĐ TNST, có các quy mơ khác nhau như: theo nhóm,
theo lớp, theo khối lớp, theo trường hoặc liên trường. Tuy nhiên, theo các chuyên gia
GD, tổ chức theo quy mô nhóm và quy mơ lớp có ưu thế hơn về nhiều mặt như: đơn
giản, khơng tốn kém, mất ít thời gian, học sinh tham gia được nhiều hơn và có nhiều
khả năng hình thành, phát triển các năng lực cho học sinh hơn. Như vậy, để giảm tốn
kém và đảm bảo chất lượng giáo dục, những hình thức TNST quy mơ nhỏ nên phát
huy nhiều hơn, ví dụ như: thuyết trình, xê-mi-na, diễn tiểu phẩm, diễn nhập vai, đố
vui, giải ô chữ, thi vẽ,... tại lớp hoặc khối - nhất là trong tiết ơn tập, tự chọn,... ; cịn
quy mơ cấp trường và liên trường nên ít hơn, cần cân nhắc lựa chọn và ưu tiên cho
những chủ đề và mục tiêu giáo dục lớn, có tính phổ qt... như: TNST về các vấn đề
xã hội như an toàn giao thông, bạo lực học đường, HIV – AIDS, sức khỏe sinh sản vị
thành niên,...

- 3) Cần lưu ý: phạm vi các chủ đề/ nội dung hoạt động và kết quả đầu ra của
TNST là năng lực thực tiễn, phẩm chất và năng lực sáng tạo đa dạng, khác nhau của
các em HS. Vì vậy, giáo viên khơng làm thay, khơng tổ chức, không phân công học
sinh một cách trực tiếp mà chỉ hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát cho tập thể hoặc cá nhân
học sinh tham gia trực tiếp; hoặc GV đứng ở vai trò tổ chức hoạt động, giúp học sinh
chủ động, tích cực trong càng nhiều hoạt động càng tốt.
- 4) Khi đánh giá hoạt động, quan trọng nhất là cần quan sát, nhận xét, góp ý và
đánh giá ngay trong quá trình hoạt động thực tiễn của HS, dựa trên các biểu hiện cụ
thể về phương thức chứ không chỉ dựa vào kết quả hoạt động cuối cùng của học sinh;
coi trọng nhận xét quá trình tiến bộ về nhiều mặt khác nhau của học sinh; chú trọng
cá tính, sự sáng tạo riêng của các em. Bây giờ có thể hơi sớm nhưng khi TNST đã
được đưa vào chương trình như một hoạt động lớn thì cần xây dựng bộ tiêu chí đánh
giá riêng đối với kết quả đầu ra của hoạt động này ở học sinh.
- 5) Cần coi trọng việc tổ chức, hướng dẫn các hoạt động TNST phù hợp với
đặc trưng nội dung môn học và điều kiện dạy học
- 6) Khi tổ chức HĐTNST cần lưu ý thu hút sự tham gia, phối hợp, liên kết
nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường như: giáo viên chủ nhiệm, giáo
viên bộ môn, cán bộ Đoàn, tổng phụ trách Đội, Ban giám hiệu nhà trường, cha mẹ


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

học sinh, chính quyền địa phương, Hội Khuyến học, Hội Phụ nữ, Đồn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ở
địa phương, các nhà hoạt động xã hội, những nghệ nhân, những người lao động tiêu
biểu ở địa phương,…
Còn nhiều vấn đề nữa chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu. Trong khuôn khổ thời
gian tại Hội nghị, tôi xin tạm dừng ở đây.
Xin chúc quý vị dồi dào sức khỏe, chúc Hội nghị thành công tốt đẹp!




×