Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận những ưu điểm, hạn chế của triết thuyết nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần người việt nam xưa và nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114 KB, 16 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
NHỮNG ƯU ĐIỂM, HẠN CHẾ CỦA TRIẾT THUYẾT NHO GIÁO
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN
NGƯỜI VIỆT NAM XƯA VÀ NAY

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT
I.
THUYẾT NHO GIÁO
1.1.
1.2.

Triết thuyết Nho giáo
Những quan điểm cơ bản của Triết thuyết Nho giáo
NHỮNG ƯU ĐIỂM, HẠN CHẾ CỦA TRIẾT THUYẾT
NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI
II.
SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM XƯA VÀ


NAY
2.1.
Những ưu điểm Triết thuyết Nho giáo
2.2.
Những hạn chế Triết thuyết Nho giáo
Ảnh hưởng của Triết thuyết Nho giáo đối với đời sống tinh
2.3.
thần người Việt Nam xưa và nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
3
5
5
8
9
13
15


MỞ ĐẦU
Nói đến nền văn minh cổ đại Trung Quốc thì quả là rộng lớn. Biết bao
nhiêu hệ tư tưởng xuất hiện và tồn tại mãi cho đến ngày nay. Từ thuyết âm
dương ngũ hành, học thuyết của Khổng Tử, Lão tử... Thế nhưng trong các học
thuyết ấy, không ai có thể chối cãi được rằng học thuyết Nho gia. Nhà người
phát khởi phát là Khổng tử là có vị trí quan trọng hơn hết trong lịch sử phát triển

của Trung Quốc nói chung và các nước Đơng Nam á nói riêng. Kể từ lúc xuất
hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán (Hán Vũ Đế) Nho
giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tơn và ln ln giữ vị trí đó cho
đến ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Điều đó đã minh chứng rõ ràng: Nho
giáo hẳn phải có những giá trị tích cực đặc biệt, nếu khơng sao nó có thể có sức
sống mạnh mẽ đến như vậy.
Nho giáo là một hình thái ý thức xã hội, đã từng trải qua những bước thăng
trầm trong lịch sử, nó có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân
dân các nước trong “vành đai Nho giáo”. Những tư tưởng Nho giáo đã từng in
đậm trong tâm thức của nhân dân Việt Nam và góp phần tạo nên những giá trị
văn hoá truyền thống, tạo nên nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc Việt Nam, lưu
truyền đến ngày nay. Trong xã hội hiện đại, tuy Nho giáo khơng cịn giữ vai trò
thống trị và chỉ tồn tại với tư cách là một học thuyết chính trị - xã hội và đạo
đức, song những nguyên lý cơ bản của nó vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng, tác động
nhất định đến sự phát triển của các nước nói trên, đặc biệt là vấn đề đào tạo con
người trong triết lý của Nho giáo có giá trị to lớn. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề
“Những ưu điểm, hạn chế của triết thuyết Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối
với đời sống tinh thần người Việt Nam xưa và nay” làm đề tài tiểu luận có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3


NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT THUYẾT NHO
GIÁO
1.1. Triết thuyết Nho giáo
Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “Nho” theo gốc Hán tự,
“Nho” là chữ “Nhân” đứng cạnh chữ “Nhu” (mềm mỏng). Tư tưởng chính của
Nho là phép đối nhân xử thế ở đời sao cho phù hợp với tôn ti trật tự trong xã hội,

được xuất phát từ thời Tây Chu.
Đến thời Xuân Thu, Khổng tử đã hệ thống những tư tưởng và tri thức
trước đó thành học thuyết, gồm các tác phẩm: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc và viết
sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình. Các thế hệ học trò tiếp theo đã
dựa vào tư tưởng của Khổng Tử, viết thành sách Luận Ngữ, Đại Học, Trung
Dung, Mạnh Tử (Tứ thư). Tứ thư và Ngũ kinh đã trở thành kinh điển của Đạo
Nho, là con đường mà đi theo đó, nhân loại sẽ đạt tới một xã hội hoà mục, một
thế giới đại đồng như Khổng Tử hằng mơ ước. Người đời sau đã gắn học thuyết
này với tên người sáng lập ra nó là Khổng Tử, cho nên Đạo Nho còn được gọi là
Đạo Khổng.
Tư tưởng của Mạnh Tử tập trung vào những vấn đề triết lý nhân sinh,
trọng tâm là bản thể nhân tính của con người. Mạnh Tử cho rằng, bản tính con
người là thiện, do trời phú cho và chịu tác động của môi trường xã hội; vì thế,
ơng ln khuyến khích mọi người tư dưỡng đạo lý để bảo tồn tính thiện.
Trên cơ sở học thuyết về tính thiện, theo Mạnh Tử, để thuận với đạo trời và
hợp với lịng người thì nhà cầm quyền phải thi hành thuyết “nhân chính” để trị
nước theo tinh thần cốt lõi là “trọng nhân” và “trọng dân”. Ông là người đầu tiên
nêu tư tưởng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Mạnh Tử cho rằng, để
nâng cao hiệu quả giáo dục thì phải tn theo chuẩn mực, chuẩn mực đó chính là
đức độ của thánh hiền. Ơng khơng chỉ địi hỏi người học phải chun tâm, từ chí,
khiêm tốn, cầu tiến, khơng được tự thoả mãn…, mà còn đòi hỏi người dạy phải

4


ln ln tự sửa lấy mình, ln giữ lấy cái tâm của mình cho chính, vì “mình cong
queo thì khơng thể nào sửa cho người khác ngay thẳng được” [1, tr.167].
Mạnh Tử đã khép lại một giai đoạn quan trọng- giai đoạn hình thành Nho
giáo; cịn gọi là Nho giáo nguyên thuỷ, hay Nho giáo tiên Tần, và còn được gọi
là học thuyết Khổng-Mạnh. Những công lao của Mạnh Tử thật xứng đáng để

hậu thế phong ông là Á thánh.
Thời cổ đại các vua chúa Trung Quốc không tán thưởng Học thuyết Nho
giáo nguyên thuỷ theo tư tưởng Khổng - Mạnh. Thế nhưng, từ thời Hán trở đi,
Nho giáo được tôn là quốc giáo và trở thành tư tưởng thống trị kéo dài hơn
2.000 năm [2, tr.120].
1.2. Những quan điểm cơ bản của Triết thuyết Nho giáo
Một là, tư tưởng Nho giáo.
Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến
ở Trung Quốc. Đối với nó thì ngũ ln, ngũ thường, hay tam cương ngũ thường
là những cái tuyệt đối. Theo bộ sậu chính thường của tư tưởng đạo đức thì đạo
đức quan phải diễn dịch từ vũ trụ quan, nhưng nho giáo thì làm ngược trở lại, nó
xuất phát từ ngũ ln, ngũ thường rồi đem gán những cái ấy cho vũ trụ, cho
thượng đế : nó đã ln lý hố cả vũ trụ, cả thượng đế, vũ trụ và thượng đế của
Nho giáo đều nhuốm màu luân lý. Đối với nho giáo thì luân lý cương thường là
hằng tồn, là phổ biến. Nho giáo khơng có lịch sử quan, tiến hố luận. Đối với nó
xã hội phong kiến khơng phải chỉ là một giai đoạn trong lịch sử loài người, luân
lý phong kiến khơng chỉ là một hình thái ý thức của giai đoạn ấy.
Cho nên, đúng như K. Marx nói, bản chất của tư tưởng phong kiến nói
chung là đạo đức và danh dự mà bản chất của Nho học là luân lý, danh phận tức
là tam cương, ngũ thường.
Hai là, vấn đề tính luận trong Nho giáo.
Tính luận là vấn đề trung tâm của Nho giáo. Đó là vấn đề tính người thiện
hay ác thảo luận trên 2000 năm mà khơng có học giả nào tìm ra một giải pháp
hoàn hảo. Chữ Nhân của Khổng Tử là một phạm trù rất mờ mịt tối tăm. Đến
Mạnh Tử lại thêm chữ Nghĩa đặt ngang hàng đối với chữ Nhân, rồi lại thêm vào
5


cặp Nhân, Nghĩa ấy chữ Lễ và chữ Trí mà còn gọi là Tứ đoan, tức là 4 cái mầm
thiện trong con người... Như thế nội dung của chữ thiện trong Nho học là lễ

nhân, nghĩa, lễ trí và thêm chữ tín của nhà Nho đời sau, gọi là ngũ thường. Ngũ
thường có liên quan mật thiết với ngũ tín của nhà Nho đời sau, gọi là ngũ
thường. Vậy ta có thêm bằng tam cương, ngũ luận, mà trọng tâm trong ngũ
thường là tam cương, ngũ thường, là bản tính của con người, tức là nói tam
cương, ngũ thường khơng phải riêng cho dân tộc nào, một giai đoạn lịch sử nào
mà nó là phổ biến và hằng thường. Tính là do trời sinh. Trời sinh ra tính thiện,
thì trời cũng là thiện, cũng là tam cương ngũ thường, cho nên tam cương ngũ
thường là thường kinh (quy luật hằng thường) của trời đất, là thông nghị (định lý
phổ biến) của cổ kin (Đổng Trọng Thư). Nhà Nho đã luân lý hố vũ trụ và
thượng đế như vậy, do đó phát sinh vấn đề gay go không thể giải quyết được.
Làm sao mà chứng minh được bản chất của vũ trụ là cương thường. Vũ trụ nhân
sinh đã là thiện thì ác ở đâu mà sinh ra, và làm sao giải thích được do lại của tội
ác trong xã hội loài người.
Ba là, thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống.
Trước hết phải nói Nho giáo là đạo quan tâm đến con người, đến cuộc đời
và tìm thú vui trong cuộc sống. Khác với các tôn giáo ở chỗ đó. Phật giáo cho
cuộc đời là bể khổ nên tìm cách giải thoát, cần sự “bất sinh”. Lão giáo cũng yếm
thế, bi quan như vậy, nên cần sự “vô vi tịch mịch”. Chỉ có đạo Nho là trong sự
sống hơn cả. Không cần phải hỏi ta sinh ra ở cõi đời để làm gì, chết rồi thì đi
đâu, chết rồi có linh hồn nữa khơng “Người muốn biết người chết rồi có biết gì
nữa khơng ư? Chuyện đó khơng phải là chuyện cần kíp bây giờ, rồi sau biết”
(Khổng Tử gia ngữ). Cho nên Khổng Tử ít bàn đến chuyện quỷ thần, đến chuyện
quái lạ, huyền bí. Làm người ở đời hãy lo lấy việc của con người.
Bốn là, quan niệm về đạo đức trong Nho giáo.
Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người. Phải nói đạo làm người
của Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến. Chúng ta đều biết
trong xã hội có giai cấp thì những nguyên tắc để đánh giá hành vi của con ngươì,
phẩm hạnh của con người trong mối quan hệ với người khác và trong mối quan
6



hệ với nhà nước, Tổ quốc... đều mang tính giai cấp rõ rệt và có tính chất lịch sử.
Những quan niệm về đạo đức điều thiện, điều ác “thay đổi rất nhiều từ dân tộc
này tới dân tộc khác, từ thời đại này đến thời đại khác đến nỗi thường thường
trái ngược hẳn nhau” (Enghen).
Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra khơng phải là vĩnh cửu,
nhưng có nhiều phương châm xử thế, tiếp vật đã giúp ông sống giữa bầy lang sói
mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng. Suy đến cùng đạo
làm người ấy bao gồm 2 chữ nhân nghĩa [3, tr.90].
II. NHỮNG ƯU ĐIỂM, HẠN CHẾ CỦA TRIẾT THUYẾT NHO
GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN
NGƯỜI VIỆT NAM XƯA VÀ NAY
2.1. Những ưu điểm Triết thuyết Nho giáo
Trong quan điểm về thế giới của Nho giáo mang tính duy vật chất phác,
tuy nhiên như thế đã là rất tiến bộ và đã góp phần chống lại quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm cho rằng khởi nguyên của thế giới là ý thức. Khổng tử cho rằng
khởi nguyên của thế giới là vật chất và cái vật chất ấy lúc đâù là cõi hỗn mang
mờ mịt. Trong cái hỗn mang ấy có cái “lý” gọi là “thái cực” vơ hình huyền diệu
chứa đựng hai mặt tiềm ẩn , đối lập liên hệ với nhau là âm dương điều hoà giữa
âm dương , trời đất sẽ sinh ra vạn vật. Những quan điểm về trời đất của ông
cũng là những quan điểm tiến bộ.
Trước hết, đó là xây dựng một bộ máy nhà nước đầy trí tuệ, đặc biệt là
thực hiện việc coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Người quân tử (hay kẻ sĩ),
những tầng lớp ưu tú trong xã hội, những người tham gia quản lý đất nước,
trước hết phải là những người có học và học giỏi, nhất thiết phải là người có
đạo đức. Đó là điều kiện đầu tiên để cho dân yêu, dân tin, dân phục. Nho giáo
coi những người làm quan mà hà hiếp dân và tham nhũng là những người độc
ác. Nhân dân đói rét chính là tội của nhà cầm quyền.
Về việc cai trị nhân dân, Nho giáo nặng về đức trị, nghĩa là bằng đạo đức,
bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Tư tưởng này của Nho giáo có tính chất khơng

tưởng và dễ bị xun tạc. Khơng như những lời tuyên bố tốt đẹp “coi dân như
7


con”, giới cầm quyền trước đây thường xử dân, phạt dân dựa vào những tiêu
chuẩn đạo đức được hiểu một cách tùy tiện hơn là dựa vào những luật lệ đã
thành văn. Vì lẽ trên mà trước đây, ở những nước theo Nho giáo, giới cầm quyền
thường xuất phát từ quyền lợi của tập đồn, giai cấp mình để xử lý những việc
chẳng ra pháp trị, mà cũng chẳng ra đức trị.
Vấn đề tu dưỡng đạo đức ở Nho giáo. Nho giáo là một học thuyết xã hội
và đạo đức, vấn đề tu thân được đặt lên hàng đầu: “Từ Thiên tử ở địa vị cao nhất
cho đến người dân bình thường đều phải lấy việc tu thân làm gốc”. Những nước
được mệnh danh là “con rồng châu Á” đã có những kinh nghiệm rất đáng quý
trong việc khai thác Nho giáo nhằm bảo đảm ổn định chính trị và xã hội, nhất là
trong thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của đất nước. Các nước nói trên đã khơng
chỉ địi hỏi sự nỗ lực của bản thân mỗi người trong việc tu thân, mà còn quy
định trách nhiệm cụ thể của gia đình, trường học, xã hội, nhà nước đối với việc
này.
Trong quan điểm về phạm trù nhân, Khổng Tử cho rằng, đối với mình
“người có nhân trước hết phải làm những việc khó, sau mới hưởng thành quả
mới có thể gọi là nhân”, người nhân sẵn sàng vui vẻ sống trong bất cứ hoàn cảnh
nào, dù đấy là vinh hoa hay đói nghèo, túng thiếu. Người có nhân cái cao cả
nhất là đức nhân của mình, có thể vì nhân mà sát thân chứ khơng vì thân mà hại
nhân, vì có đức nhân con người sẽ tự kiềm chế được mình để tuân theo lễ tiết
của xã hội. Để vững vàng trầm tư như núi trước mọi thử thách cuộc đời . Đối
với người có nhân nguyên tắc suốt đời phải theo là “thương yêu người khác”.
Giải thích điều này Khổng Tử dạy: “người nhân muốn tự lập lấy một mình, thì
phải lao lập cho người, muốn thành đạt cho mình thì cũng là thành đạt cho
người. Người nhân ứng xử với mình như thế nào thì cũng ứng xử với người như
thế”.

Nhân chung quy lại như Khổng Tử đã nói là: “người có đức nhân là người
nghiêm trang, tề chỉnh, rộng lượng, khoan dung, đức tín, lịng thành, siêng năng,
cần mẫn và biết thi ân bố đức”. Về những điều này ơng lí giải: “Nghiêm trang, tề
8


chỉnh sẽ làm người khác không dám khinh nhờn, rộng lượng khoan dung sẽ làm
người khác bị thu phục, đức tín, lịng thành sẽ làm người khác tin cậy, thi ân bố
đức sẽ làm nguời khác bị sai khiến và cần mẫn, siêng năng sẽ đem lại nhiều điều
bổ ích. Như vậy, với những chuẩn mực được đưa ra cho đức nhân, Nho giáo của
Khổng Tử đã góp phần giáo dục nhân dân, chú ý đến việc tự khẳng định mình
của mỗi thành viên trong xã hội. Nó cũng cho thấy tính tích cực về vai trị của tự
ý thức và tự giáo dục của chủ thể trong cuộc sống cộng đồng Đạo nhân đã thiết
lập nên những mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong xã hội, nó là sợi
dây liên kết các cá thể với nhau, với gia đình và với xã hội.
Trong quan niệm về trí của Khổng Tử thì trí được hiểu là sự minh mẫn nói
chung để phân biệt đánh giá con người và tình huống, qua đó tự xác định cho
mình cách ứng xử cho phải đạo. Nói chung theo Khổng Tử phải có trí con nguời
mới vươn tới được đức nhân, nên khơng thể là người nhân mà thiếu chí.
Vấn đề khai thác những quan điểm Nho giáo trong quan hệ gia đình. Ở
những nước Đơng Á theo Nho giáo, chúng ta thấy, gia đình có những đóng góp
lớn đối với quá trình phát triển của đất nước. Gia đình đào tạo ra những người
mà xã hội đang đòi hỏi. Gia đình ni dưỡng một cuộc sống tình cảm giữa các
thành viên với nhau và giữa gia đình với xã hội. Các nước nói trên đã giữ lại
mối quan hệ mang tính Nho giáo với tơn ti trật tự cổ truyền trong gia đình để
ràng buộc con người vào trật tự xã hội, tạo nên mối quan hệ có tính chất gia đình
kiểu Nho giáo giữa nhà nước và cơng dân, giữa chủ và thợ.
Về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (ngũ luân), về những phẩm chất
cơ bản của con người (ngũ thường). Nho giáo đòi hỏi con người trước hết phải
có những quan hệ cơ bản trong các quan hệ xã hội. Trước hết là 5 mối quan hệ

được gọi là ngũ luân: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn. Hiện nay,
những nhu cầu về quyền tự do của cá nhân, về đời sống riêng tư, về ý thức dân
chủ của con người đang trở thành những vấn đề mà các nước theo Nho giáo cần
vượt qua quan hệ ngũ luân để giải quyết. Ở Việt Nam, sự nghiệp cách mạng đã
đưa con người vượt ra khỏi phạm vi của gia đình để cùng lo lắng đến công việc
9


của Tổ quốc với những tình cảm rộng lớn đối với cả nhân loại bị áp bức.
Nhưng, con người vẫn là mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động xã hội, của mọi
tập thể, cũng như của mỗi cá nhân. Quan hệ giữa người và người ở Việt Nam
không thể chỉ giới hạn trong ngũ ln, mà đó cịn là mối quan hệ biện chứng
giữa cá nhân và xã hội.
Ngũ thường trong Nho giáo bao gồm 5 đức hạnh nhằm phục vụ cho 5 mối
quan hệ là ngũ luân. Thay cho ngũ thường của Nho giáo là nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín, Hồ Chí Minh nêu lên “ngũ thường” của nhân dân ta là: nhân, nghĩa, trí,
dũng, liêm. Theo Hồ Chí Minh, không cần thiết phải nêu lên hai
chữ lễ, nghĩa, bởi chúng đã được bao hàm trong khái niệm nhân. Người thêm
vào hai chữ dũng và liêm. Dũng là chiến đấu quên mình để chống thiên tai, địch
họa. Liêm là triệt để chống tham nhũng, đồng cam cộng khổ với nhân dân.
Tóm lại, Nho giáo đã từng đóng một vai trị to lớn trong lịch sử và đến
nay, nó vẫn cịn tiếp tục có tác dụng trong xã hội. Do đó, nếu khơng đặt vấn đề
nghiên cứu Nho giáo một cách nghiêm túc thì chúng ta sẽ bng trơi cho sự
phục hồi những nhân tố tiêu cực của Nho giáo, đồng thời cũng sẽ lãng phí
những nhân tố tích cực mà Nho giáo cịn có thể đóng góp vào sự nghiệp của đất
nước ta hôm nay.
2.2. Những hạn chế Triết thuyết Nho giáo
Triết thuyết Nho giáo do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các
cơng việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước
và vi phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai

trị của đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức
của phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của
Nho giáo, nhiều người khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân,
anh em họ hàng vào cơ quan mình đang quản lý.
Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa
mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của
chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền… Thậm chí,
10


một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc chung. Một
trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết đốn. Nhưng quyết
đốn theo kiểu độc đốn, chun quyền là biểu hiện của thói gia trưởng. Việc
coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo thủ là
cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp
trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động
của khơng ít người.
Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội phong kiến phụ
quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng gọi là gia
trưởng, đứng đầu dòng họ là trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là
ông chánh, hệ thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia
trưởng của gia đình lớn - quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và
lệ thuộc vào “gia trưởng”. Thực chất đạo cương - thường của Nho giáo là bắt bề
dưới phải phục tùng bề trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện
ở quan hệ xã hội, ở tổ chức nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của
người cha, người chồng :”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng”
(chồng đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở
đâu vẫn cịn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng
nhân dân sẽ khơng phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động được.
Từ việc xem xét và giải quyết các vấn đề của xã hội thơng qua lăng kính

gia đình nhiều khi dẫn đến những quyết định thiếu khách quan, không công
bằng. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin
vào khả năng của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ
chỉ là người thừa hành mà không được tham gia góp ý kiến…là những trở ngại
cho việc đấu tranh vì quyền bình đẳng giới.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo cịn mang tính cứng nhắc
đã tạo nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ
động. Những tàn dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho việc
xây đựng đạo đức mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay.
11


2.3. Ảnh hưởng của Triết thuyết Nho giáo đối với đời sống tinh thần
người Việt Nam xưa và nay
Trước hết là cương vị độc tơn, Nho giáo đã có thêm nhiều sức mạnh và uy
thế góp phần củng cố và phát triển chế độ quân chủ và những kinh nghiệm mẫu
mực cho việc chấn chỉnh và mở rộng nhà nước phong kiến tập quyền theo một
quy mơ hồn chỉnh có đầy đủ những thể chế và điều phạm. Mà ở thế kỷ XV, các
xu thế phát triển đó đã và đang giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt
Nam trên các bình diện sản xuất và củng cố quốc phịng.
Như đã biết, q trình đi lên của Nho giáo Việt Nam không tách rời yêu
cầu phát triển nền kinh tế tiểu nông, gia trưởng dựa trên quyền sở hữu của giai
cấp địa chủ của nhà nước và của một bộ phận nông dân trực tiếp tự canh về ruộng
đất. Vì thế cho nên khi chiếm được vị trí chủ đạo trên vịm trời tư tưởng của chế
độ phong kiến, Nho giáo càng có điều kiện xúc tiến sự phát triển này. Nó làm cho
sản xuất nơng nghiệp và trao đổi hàng hoá được đẩy mạnh hơn trước.
Đồng thời Nho giáo đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn
hoá tinh thần của xã hội phong kiến nước ta từ thế kỷ XV, trước hết nó làm cho
nền giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Nền
giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ tri thức đông đảo

chưa từng thâý trong lịch sửd chế độ phong kiến Việt Nam. Do đó khoa học và
văn học nghệ thuật phát triển.
Hơn nữa sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện tượng
góp phần thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học
thuyết tích cực nhập thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm
hiểu những quan hệ xã hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và
đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận của dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng được
nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho giáo, nhà vua và các nho sĩ giải thích
các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ hơn.
Nhưng Nho giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng
vẫn gắn liền với giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống trị
và tư tưởng của giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về trước
12


tuy có một vai trị nhất định nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với nhân dân.
Và bất cứ một giai cấp bóc lột nào ngay cả khi đang lên cũng mang theo những
vết bùn nhơ và bàn tay vấy máu của những người lao động. Cho nên Nho giáo
với tư cách là vũ khí của giai cấp phong kiến Việt Nam dù cho có khơng ít tích
cực thì tác dụng tích cực đó cũng cịn rất hạn chế. Thực ra ngay ở thời kỳ thịnh
trị của nó, Nho giáo cũng đã có những mặt tiêu cực nghiêm trọng và chứa đựng
khả năng suy yếu sau này của nó.
Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tơn thì đã làm cho chủ nghĩa
giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và trong
địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy thánh kinh, hiền truyện
của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi người suy nghĩ và hành động
của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu Thuấn làm khn mẫu cho mọi tình trạng
xã hội; lấy những sự tích và điều phạm trong kinh, thư, kinh xuân thu làm tiêu
chuẩn để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều và khuôn sáo này đã ăn sâu vào
trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật nhất là trong văn học và sử học khiến cho

sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những cái khn sẵn có. Đó là một
tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ khi người nho sĩ phải mài dũa văn chương để
tiến vào con đường cử nghiệp.
Sự thịnh trị của Nho giáo cịn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử
tri thức đi sâu vào cải tạo “tu tề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương danh
thiên hạ. Vì vậy mà trong thực tế, Nho giáo đã làm cho những người gia nhập
tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ
biết đề cao đạo tư thân và đạo tự nước chứ không hề đếm xỉa đến các tri thức vè
khoa học tự nhiên cũng như về các ngành sản xuất và lưu thơng. Tính chất tiêu
cực ấy của Nho giáo càng về sau càng gây tác hại không nhỏ trong việc phát
triển lực lượng sản xuất của xã hội [4, tr.129].
Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt
Nam không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống và
của vũ trụ, vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến những
quan hệ chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn,
13


vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở
thành bất lực. Nó khơng giải đáp được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường
phát triển tư duy trừu tượng.
Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tơn thì lễ chế của nó đặc biệt
phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống
giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực
của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở nên phản động, cổ hủ và lạc hậu.
Tóm lại, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại
khơng ít tác động tiêu cực mà cho đến nay nó vẫn cịn ảnh hưởng đến đời sống
tinh thần người Việt xưa và nay.

14



KẾT LUẬN
Không ai chối cãi được rằng Khổng giáo hay Nho giáo đã tham gia một
phần vào sự đúc nặn cái diện mạo tinh thần dân tộc và vào sự thành văn hoá dân
tộc, cho nên chúng ta cần thiết phải nghiên cứu Nho giáo để xem nó ảnh hưởng
đối việc văn hoá nước ta như thế nào.
Từ Nho giáo chuyển sang chủ nghĩa Mác qua một cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài và một biến chuyển về tư tưởng cơ bản, từ một hệ tư tưởng duy
tâm lấy ý chí con người làm gốc sang chủ nghĩa duy vật với phương pháp khoa
học, từ tưởng tôn ti trật tự gia trưởng sang dân chủ, từ dân tộc sang tư tưởng
Mác xít phải địi hỏi một q trình dai dẳng. Tất nhiên rất nhiều điểm trong Nho
giáo đã trở nên cổ hủ, lạc hậu, thậm chí là phản động đang kèm hãm quá trình
phát triển của dân tộc ta nhất là tại các khu nông thôn. Nhưng chúng ta không hề
hổ thẹn khi nói rằng chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội là kế tục truyền thống nhà
nho xưa, và nếu ghét cay ghét đắng chế độ phong kiến khi đã thối nát thì cũng
khơng thể khơng trân trọng đến kẻ sĩ đời trước, và khi đánh giá lại, nếu học
thuyết tư tưởng ngày nay chúng ta hơn hẳn thế hệ cá sĩ phu thời trước, nhưng về
nhân cách vẫn còn phải học nhiều như câu “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất
năng di, uy vũ bất năng khuất” [5, tr.210]. Dù còn những mặt hạn chế nhất định
nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự ảnh hưởng to lớn chủa Nho giáo đến
nước ta và cả những giá trị mà nó mang lại.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Minh Đức, Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương, Hồ Thích, Nxb Văn
Hóa Thơng Tin, Hà Nội, 2014.
2. Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử, Nxb Văn Hóa, Hà Nội, 2019.

3. Nguyễn Văn Dương, Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc, Phùng Hữu
Lan, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2016.
4. Nguyễn Đăng Thục, Lịch Sử Triết Học Phương Đông, Nxb TP. Hồ Chí
Minh, 2011.
5. Đồn Trung, Thuyết Chính danh - Giá trị thực tiễn, Nxb Văn Hóa, Hà
Nội, 2018.

16



×