Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Luận văn cho vay tiêu dùng cá nhân đối với khách hàng cá nhân tại chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển việt nam bắc quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.17 KB, 106 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hội nhập kinh tế toàn
cầu, thu nhập của người dân ngày càng cải thiện, kết cấu dân số trẻ có thể nhanh
chóng tiếp cận các thói quen tiêu dùng mới, giao dịch của người dân với cộng đồng
quốc tế ngày càng mở rộng là một trong những điều kiện thuận lợi và cơ hội cho tín
dụng tiêu dùng phát triển ở Việt Nam. Không chỉ riêng ngân hàng mà các tổ chức
tín dụng khác coi đây là một thị trường đầy tiềm năng cần được quan tâm và chú
trọng, đặc biệt trong chiến lược kinh doanh đối với thị trường bán lẻ.Chính vì vậy,
việc nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và cụ thể cả lý luận và thực tiễn về
hoạt động cho vay tiêu dùng cá nhân của Ngân hàng thương mại là yêu cầu bức
thiết hiện nay.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát
triển Việt Nam chi nhánh Bắc Quảng Bình tập trung chủ yếu ở địa bàn Bắc Quảng
Bình. Thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng trên 90%, mặc dù có số lượng
khách hàng hộ gia đình, cá nhân khá cao tuy nhiên dư nợ của đối tượng này chỉ
chiếm chưa đến 55% tổng dư nợ toàn chi nhánh và cho vay tiêu dùng cá nhân cũng
chỉ chiếm khoảng hơn 9% dư nợ cho vay. Phát triển cho vay tiêu dùng cá nhân là
phân khúc thị trường tiềm năng mà trong nhiều năm qua BIDV nói chung và BIDV
chi nhánh Bắc Quảng Bình ln hướng tới. Việc phát triển sản phẩm này tạo điều
kiện cho BIDV mở rộng thị trường tín dụng, đa dạng hóa lĩnh vực cho vay và cung
cấp trọn gói các dịch vụ tiện ích, song cơ cấu cho vay tiêu dùng cá nhân trong tổng
dư nợ của chi nhánh là chưa phù hợp với tiềm năng của thị trường; đặc thù SXKD
quy mô nhỏ; thu nhập theo thời vụ và nhu cầu phục vụ đời sống thường xuyên của
hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn.
Trong xu hướng cạnh tranh ngày càng gay gắt và để mở rộng quy mô, tăng
trưởng tín dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng, phân tán rủi ro của các
NHTM trên địa bàn, khơng chỉ có Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát
1



triển Việt Nam chi nhánh Bắc Quảng Bình mà các tổ chức tín dụng khác cũng đang
phát triển cho vay tới hộ gia đình, cá nhân đặc biệt là cho vay tiêu dùng cá nhân.
Tuy nhiên, do tính phức tạp của phân khúc thị trường này, món cho vay nhỏ lẻ, chi
phí nghiệp vụ cao, địa bàn hoạt động rộng, việc chứng minh nguồn thu nhập đặc
biệt đối với các đối tượng khách hàng ở khu vực nông thôn rất khó nên khơng tránh
khỏi những rủi ro tiềm ẩn nhất định. Điều này làm cho chi phí phát sinh tăng ngoài
dự kiến, giảm lợi nhuận kỳ vọng và hạn chế khả năng cạnh tranh của chi nhánh so
với các NHTM khác.Mặt khác, các chính sách cũng như quy chế cho vay của chi
nhánh vẫn còn những vướng mắc làm ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng cho vay
tiêu dùng cá nhân của Chi nhánh.
Nhận thức được những vấn đề nêu trên, xuất phát từ thực tiễn hoạt động
cho vay tiêu dùng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát
triển Việt Nam chi nhánh Bắc Quảng Bình, tác giả chọn đề tài nghiên cứu cho
luận văn tốt nghiệp: "Cho vay tiêu dùng cá nhânđối với khách hàng cá nhân
tại chi nhánh Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam Bắc Quảng Bình".
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn
Ngoài các văn bản pháp luật của nhà nước về hoạt động NHTM và hoạt
động cho vay tiêu dùng cá nhân, có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về Phát triển cho
vay tiêu dùng cá nhân tại các Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên nghiên cứu một
cách hệ thống và toàn diện cả lý luận và thực tiễn về phát triển cho vay tiêu dùng cá
nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh
Bắc Quảng Bình thì chưa có cơng trình nào. Vì vậy đề tài luận văn thạc sỹ Tài
Chính Ngân hàng: “Cho vay tiêu dùng cá nhânđối với khách hàng cá nhân tại chi
nhánh Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Bắc
Quảng Bình” là cơng trình nghiên cứu một cách nghiêm túc của bản thân tác giả.
Các số liệu, thông tin được sử dụng trong luận văn này đều có nguồn gốc rõ ràng,
trung thực và được phép công bố.

2



Trong q trình nghiên cứu tác giả có tham khảo một số luận văn sau:
- Luận văn của Phạm Thị Lan Hương (2018), Phát triển dịch vụ Ngân hàng
bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển tỉnh Quảng
Bình,Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện hành chính quốc gia, Thừa Thiên Huế.
- Luận văn của Vũ Quang Huy (2018), Nâng cao chất lượng cho vay tiêu
dùng cá nhân tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi
nhánh Trung Yên, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.
- Luận văn của Lê Cảnh Thành (2017), Giải pháp mở rộng cho vay cá nhân
tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Long
Biên, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.
- Luận văn của Đỗ Thị Thuỳ Trang, (2016), Giải pháp phát triển cho vay
tiêu dùng cá nhân tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh, Đại học Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
- Luận văn của Bùi Khắc Hoài Phương, (2011),Giải pháp mở rộng tín dụng
tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Tỉnh Quảng
Bình, Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là hướng tới phát triển cho vay tiêu dùng
cá nhânđối với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và
Phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Quảng Bình trên cơ sở xây dựng khung lý
thuyết nghiên cứu về phát triển cho vay tiêu dùng cá nhân, xác định căn cứ thực
tiển về việc phát triển cho vay tiêu dùng cá nhân tại chi nhánh để từ đó đưa ra được
những hạn chế đồng thời nghiên cứu phương hướng và giải pháp, kiến nghị nhằm
đáp ứng yêu cầu hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nêu trên, đề tài tập trung thực hiện các nhiệm vụ
chính sau đây:


3


- Hệ thống hố, bổ sung và hồn thiện cơ sở khoa học về phát triển cho vay
tiêu dùng cá nhân của Ngân hàng thương mại.
- Phân tích và đánh giá thực trạng về phát triển cho vay tiêu dùng cá nhân đối
với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam chi nhánh Bắc Quảng Bình, chỉ ra những vấn đề còn hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất định hướng và giải pháp tiếp tục phát triển cho vay tiêu dùng cá
nhân đối với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và
Phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay tiêu dùng cá nhân tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Quảng Bình
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Nghiên cứu trong địa bàn hoạt động của Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Quảng Bình.
+ Về thời gian: Thời kỳ nghiên cứu từ năm 2016 đến năm 2018. Định hướng
nghiên cứu đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp tư duy logic kinh tế, phương pháp phân tích, thống kê
so sánh, đối chiếu để đánh giá, làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong q trình
nghiên cứu. Bên cạnh đó, luận văn cịn chú trọng đến việc kết hợp với việc quan sát

các hoạt động thực tiễn.
Luận văn có sử dụng các tài liệu, số liệu trong và ngồi nước đã cơng bố có
liên quan đến đề tài.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã góp phần vào việc xây dựng khung lý thuyết về hoạt động cho
vay tiêu dùng cá nhân của Ngân hàng thương mại, theo đó làm rõ một số khái niệm,
vai trò, đặc điểm, phân loại, và các tiêu chí đánh giá sự phát triển cho vay tiêu dùng
cá nhân của Ngân hàng thương mại.
Đồng thời tổng hợp những kinh nghiệm của một số ngân hàng trong và
ngoài nước và có rút ra những vấn đề nghiên cứu đối với Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Quảng Bình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các
bảng biểu, nội dung của luận văn được kết cấu bao gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở khoa học về phát triển cho vay tiêu dùng cá nhân của
ngân hàng thương mại
Chương 2:Thực trạng phát triển cho vay tiêu dùng cá nhân đối với khách
hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
chi nhánh Bắc Quảng Bình
Chương 3: Định hướngvà giải pháp phát triển cho vay tiêu dùng cá nhânđối
với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam chi nhánh Bắc Quảng Bình

5



Chương 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÁT TRIỂN CHO VAY TIÊU DÙNG CÁ NHÂN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay tiêu dùng cá nhân của Ngân
hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Theo Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16 tháng 6 năm
2010 có hiệu lực kể từ 01 tháng 01 năm 2011, “Ngân hàng thương mại là loại hình
ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. [14, tr.1]
NHTM là một loại hình doanh nghiệp có cơ cấu, tổ chức bộ máy, cấu trúc tài
chính giống như một doanh nghiệp. Hoạt động của NHTM cũng như các doanh
nghiệp đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận.
Là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các
dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các
dịch vụ thanh tốn. Ngồi ra, NHTM cịn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả
mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
Ngân hàng thương mại đóng vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường,
là nơi khai thác, tập trung vốn và điều hòa vốn cho nền kinh tế.
1.1.1.2. Vai trò của Ngân hàng Thương mại đối với sự phát triển của nền kinh tế
Một là, Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ q trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu
nhập quốc dân và có mức độ tiêu dùng hợp lý. Để tăng thu nhập quốc dân tức là
cần phải mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thơng hàng
hố, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế và muốn làm được
điều đó phải có vốn. Mặt khác, khi nền kinh tế càng phát triển sẽ càng tạo ra nhiều

6



vốn, điều đó sẽ tác động tích cực đến hoạt động ngân hàng. Ngân hàng thương mại
là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương
mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức,
cá nhân, mọi thành phần kinh tế. Bằng nguồn vốn huy động được trong nền kinh tế,
thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt
động kinh tế và đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất.
Qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.[8,tr.35]
Hai là, Ngân hàng là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của doanh nghiệp chịu tác
động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan và sản xuất phải trên cơ sở đáp
ứng nhu cầu thị trường, thoã mãn nhu cầu thị trường. Để có thể đáp ứng điều này,
doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng lao động, cũng cố và hoàn
thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch tốn kế tốn, bên cạnh đó cần phải cải tiến
máy móc thiết bị, dây chuyền cơng nghệ, tìm tịi sử dụng ngun vật liệu mới, mở
rộng quy mơ sản xuất một cách thích hợp... Những hoạt động này đòi hỏi cần lượng
vốn đầu tư lớn, nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó để
giải quyết khó khăn trên doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm
thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thơng qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là
chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường.[8,tr.36]
Ba là, Ngân hàng thương mại là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại hoạt
động một cách có hiệu quả thơng qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình, là một
công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bằng hoạt động tín dụng và thanh tốn giữa các ngân hàng thương mại trong
hệ thống, các ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung
cứng trong lưu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền
kinh tế, ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và

phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả và thực thi vai
trị điều tiết gián tiếp vĩ mô [8, tr.37]
7


Bốn là, Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế
Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của
kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó, đặc biệt là trong
nền kinh tế thị trường khi các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng mở rộng,
nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới càng trở nên thân
thiết và cấp bách, điều này dẫn đến nền tài chính của mỗi nước cũng phải hồ
nhập với nền tài chính quốc tế và Ngân hàng thương mại có vai trị quan trọng
trong sự hoà nhập nêu trên. Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi, cho
vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác, Ngân hàng
thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng.
Thông qua các hoạt động thanh tốn, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với
các ngân hàng thương mại nước ngoài, hệ thống ngân hàng thương mại đã thực
hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài
chính quốc tế.[8, tr. 37-40]
1.1.1.3. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
Luật các TCTD số 47/2010/QH12 năm 2010 nêu rõ: Hoạt động ngân hàng là
việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
- Nhận tiền gửi;
- Cấp tín dụng;
- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Thứ nhất, hoạt động huy động vốn
Là nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng, góp phần mang lại nguồn vốn cho
ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Mặc khác, thông qua nghiệp
vụ huy động vốn, NHTM có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của

khách hàng đối với Ngân hàng.
Các hình thức huy động vốn:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân, TCTD khác dưới các hình thức tiền
gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm...

8


- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu, giấy tờ có giá khác để
huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;
- Đi vay từ các TCTD khác tại Việt Nam và nước ngoài;
- Vay vốn ngắn hạn của NHNN.
Thứ hai, hoạt động tín dụng
NHTM được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay,
bảo lãnh chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá, cho thuê tài chính và các
hình thức khác theo quy định của NHNN. Đối với NHTM đây chính là hoạt động
sinh lời chủ yếu.
Thứ ba, dịch vụ thanh toán, ngân quỹ
NHTM được phép mở tài khoản cho cá nhân, tổ chức trong và ngồi nước có
nhu cầu thanh tốn giữa các ngân hàng với nhau, mở tài khoản tại Ngân hàng nhà
nước nơi NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đây lượng dự trữ bắt buộc theo quy
định, mở tài khoản tại các TCTD để duy trì tiền gửi và thực hiện các dịch vụ thanh
toán và ngân quỹ. Hoạt động thanh toán, ngân quỹ của NHTM bao gồm:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán;
- Cung cấp dịch vụ thanh tốn trong nước và ngồi nước;
- Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ;
- Thực hiện các dụch vụ thu, chi tiền mặt cho khách hàng;
- Tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế.
Thứ tư, các hoạt động khác
NHTM còn được phép thực hiện các hoạt động sau:

- Góp vốn mua cổ phần;
- Tham gia thị trường tiền tệ: phát hành các loại trái phiếu ngắn hạn, mua
bán các khoản nợ ngắn hạn cung cấp các khoản vay ngắn hạn, điều tiết vốn gữa
các NHTM;
- Kinh doanh ngoại hối (khi được NHNN cấp phép);
- Uỷ thác và nhận uỷ thác: như quản lý tài sản, uỷ thác ngân hàng khác thu
chi hộ;

9


- Tư vấn tài chính;
- Cung ứng dịch vụ bảo hiểm.
1.1.2. Cho vay tiêu dùng cá nhân tại Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng cá nhân
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền và hàng hoá) giữa bên
cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (các cá nhân,
doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận. Bên đi vay có
trách nhiệm hồn trả vơ điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến thời hạn
thanh tốn.
Tín dụng là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, là hoạt
động mang tính truyền thống đem lại nguồn thu lớn nhất nhưng cũng chứa đựng
nhiều rủi ro nhất của ngân hàng. Nếu phân loại hoạt động tín dụng của ngân hàng
theo mục đích sử dụng vốn vay thì tín dụng ngân hàng được chia thành các loại:
cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng cá nhân, cho vay kinh
doanh xuất nhập khẩu,... Trong đó, cho vay tiêu dùng cá nhân đã và đang chứng
minh được vai trò to lớn trong hoạt động ngân hàng nói riêng và trong nền kinh tế
nói chung.
Cho vay tiêu dùng cá nhân được hiểu là sự chuyển nhượng một lượng giá trị

(tiền tệ hoặc hiện vật) từ các NHTM sang người đi vay (cá nhân và hộ gia đình
trong nền kinh tế) nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng trên nguyên
tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Trong phạm vi Luận văn này, tác giả chỉ tiếp cận cho vay tiêu dùng cá nhân
đối với khách hàng cá nhân, chứ không tiếp cận cho vay tiêu dùng cá nhân theo
khách hàng là hộ gia đình, cũng để giảm tải ngơn từ trong Luận văn, tác giả xin
phép được dùng cụm từ cho vay tiêu dùng cá nhân để thay thế cho cụm từ cho vay
tiêu dùng cá nhân đối với khách hàng cá nhân
Cho vay tiêu dùng cá nhân là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cho vay cá nhân và hộ gia đình. Đây là nguồn tài

10


trợ quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe
cộ, y tế và các dịch vụ khác.[4]
Cho vay tiêu dùng cá nhân ra đời trước tiên từ thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu,
nhưng đối với Việt Nam, hoạt động này mới được quan tâm và đầu tư mở rộng từ
những năm 1990, sau khi Pháp lệnh Ngân hàng ra đời hình thành hệ thống Ngân
hàng 2 cấp và chuyển 4 ngân hàng quốc doanh thành Ngân hàng thương mại Nhà
nước. Cùng với sự phát triển của hệ thống Ngân hàng thương mại, các hoạt
độngcho vay tiêu dùng cá nhân của các Ngân hàng thương mại cung cấp cho đối
tượng khách hàng là cá nhân cũng dần được triển khai rộng rãi và đặc biệt phát
triển mạnh trong giai đoạn 2007 đến nay.
1.1.2.2. Đặc điểm cho vay tiêu dùng cá nhân
Thứ nhất, Quy mơ từng món vay nhỏ, nhưng số lượng khách hàng vay lớn
Đối tượng cho vay tiêu dùng cá nhân là các cá nhân, hộ gia đình với nhu cầu
nhỏ lẻ, quy mô các khoản vay không lớn. Họ thường vay để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng khi mà tích lũy chưa đủ khả năng chi trả. Thông thường, các nhu cầu của dân
cư về các loại hàng hoá xa xỉ là khơng cao hoặc đã có tích luỹ trước, còn nhu cầu

về tiêu dùng khá phổ biến do đối tượng của loại hình cho vay này là mọi cá nhân
trong xã hội từ những người có thu nhập cao đến những người có thu nhập trung
bình và thấp đều có nhu cầu. Do vậy, với mục đích vay này nên các khoản vay
thường có quy mơ nhỏ so với tài sản Ngân hàng, nhưng số lượng khách hàng cá
nhân, hộ gia đình lớn và nhu cầu chi tiêu đa dạng.
Thứ hai,Mục đích vay tiêu dùng là đáp ứng nhu cầu chi tiêu của cá nhân và
hộ gia đình, khơng phải mục đích kinh doanh
Với nhu cầu tiêu dùng ngày càng lớn và rất khác nhau do đó các ngân hàng
thương mại có thể phát triển rất nhiều sản phẩm vay tiêu dùng mới.
Thứ ba,Thời gian vay của các khoản vay tiêu dùng dài, nguồn trả nợ không
ổn định và phụ thuộc nhiều yếu tố
Đối với các khoản vay kinh doanh, nguồn trả nợ thường xuất phát từ kết quả
sử dụng các khoản vay. Ngược lại nguồn trả nợ các khoản vay tiêu dùng lại chủ yếu

11


là các khoản thu nhập thường xuyên của khách hàng (tiền lương, tiền thuê cho nhà,
cho thuê đất, cho thuê xe..). Ngân hàng căn cứ vào mức thu nhập của khách hàng để
quyết định thời hạn vay.
Mặt khác, việc xác định và cho vay dựa vào thu nhập của khách hàng kích
thích người đi vay có động lực làm việc để trả nợ. Đây cũng là biện pháp kích cầu
của các xã hội phát triển, xã hội tiêu dùng. Tuy nhiên nguồn trả nợ thường khơng
ổn định, có thể biến động lớn, phụ thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng, và kinh
nghiệm đối với công việc và đặc biệt việc chứng minh nguồn thu là rất khó.
Thứ tư,Cho vay tiêu dùng cá nhân là một hoạt động có mức độ rủi ro cao
Cho vay tiêu dùng cá nhân luôn ở trong trạng thái bị đe doạ bởi cả rủi ro lãi
suất và rủi ro tín dụng. Bên cạnh ảnh hưởng của các yếu tố khách quan như môi
trường kinh tế, văn hóa, xã hội, nó cịn phải chịu tác động của những nhân tố chủ
quan xuất phát từ bản thân khách hàng. Việc xác định thơng tin tài chính của khách

hàng thường gặp nhiều khó khăn, nguồn trả nợ khơng ổn định, việc hồn trả khoản
vay lại phụ thuộc vào tư cách đạo đức và ý muốn trả nợ của người vay. Ngồi ra
các cá nhân, hộ gia đình luôn muốn thủ tục vay phải đơn giản, tiện lợi hơn vay bán
buôn, nên đa số các khoản cho vay tiêu dùng cá nhân đều khơng có tài sản bảo, vì
thế độ rủi ro đối với cho vay tiêu dùng cá nhân rất lớn. Hay do số lượng khoản vay
tiêu dùng lớn trong khi số lượng cán bộ tín dụng ngân hàng lại có hạn cũng sẽ gây
khó khăn trong khâu kiểm tra, giám sát. Việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích
hay khơng cũng làm tăng thêm rủi ro cho khoản vay này. Một số trường hợp hầu
như không thể thu hồi được nợ hoặc là thu hồi rất khó khi khách hàng khơng cịn
khả năng trả nợ do các nguyên nhân như: tai nạn lao động, thất nghiệp, bệnh tật,
qua đời, ly dị...
Thứ năm,Các khoản vay tiêu dùng có chi phí cao hơn so với các khoản
vay khác
Mặc dù quy mô các khoản vay tiêu dùng là tương đối nhỏ nhưng ngân hàng
thương mại vẫn phải thực hiện đầy đủ các bước như đối với các khoản vay thông
thường. Mặt khác, khách hàng đến với ngân hàng phần lớn là các khách hàng mới,
12


thời gian vay không dài, các thông tin về khách hàng thường là phải thu thập từ
đầu, không đầy đủ, cũng khó đảm bảo được các thơng tin thu được đáng tin cậy,
công khai, minh bạch như của các doanh nghiệp (có các báo cáo tài chính, báo cáo
kết quả kinh doanh được kiểm toán). Điều này khiến ngân hàng phải bỏ nhiều chi
phí cho cơng tác thẩm định và xét duyệt cho vay. Hơn nữa phần lớn các khoản vay
với số lượng lớn và giá trị nhỏ nên ngân hàng cũng phải chịu một chi phí đáng kể
để quản lý hồ sơ khách hàng. Vì vậy, cho vay tiêu dùng cá nhân trở thành một trong
những khoản mục có chi phí lớn nhất trong các khoản mục tín dụng ngân hàng.
Thứ sáu, Lãi suất cho vay tiêu dùng cá nhân thường cố định và cao hơn các
loại lãi suất cho vay khác.
Lãi suất cho vay tiêu dùng cá nhân thường cố định với toàn bộ hợp đồng. Một

số trường hợp lãi suất thay đổi nhưng điều này thường được qui định rõ ràng trong
hợp đồng và có tính chất định kỳ. Lãi suất cho vay tiêu dùng cá nhân cao mới có
thể đủ để bù đắp cho những chi phí cũng như rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu,
đảm bảo một mức lợi nhuận cần thiết cho ngân hàngdo nguồn trả nợ của khách
hàng không ổn định và phụ thuộc nhiều yếu tố khác.
Thứ bảy,Cho vay tiêu dùng cá nhân là một trong những khoản mục tín dụng
có khả năng mang lại lợi nhuận cao
Từ việc xác định mức độ rủi ro cao, và chi phí thực hiện lớn, các khoản
cho vay tiêu dùng cá nhân thường được định giá rất cao (bao hàm cả một phần
bù rủi ro lãi suất). Do vậy khoản lợi nhuận từ đó cũng đem lại cao hơn so với
các hình cho vay khác.
Thứ tám, Đối tượng vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại là các cá
nhân, hộ gia đình. Chính vì vậy, xu hướng tiêu dùng, phong tục tập quán, trình độ
dân trí đóng vai trị cực kỳ quan trọng ảnh hưởng tới hành vi vay tiêu dùng của họ.
Thứ chín,Cho vay tiêu dùng cá nhân có tính nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế.
Hoạt động cho vay tiêu dùng cá nhân rất nhạy cảm với nền kinh tế. Những
nước có hoạt động cho vay tiêu dùng cá nhân giảm là những nước đang gặp khó
khăn về kinh tế và ngược lại.

13


Cho vay tiêu dùng cá nhân tăng lên trong thời kỳ nền kinh tế mở rộng, tốc
độ tăng trưởng cao, khi mà mọi người dân cảm thấy lạc quan về tương lai.
Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thối, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình
cảm thấy khơng tin tưởng về khả năng thanh tốn của mình và họ sẽ hạn chế
việc vay mượn từ ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng cá nhân có thể coi “hộp số” của nền kinh tế, nó phản ánh
xu hướng phát triển hay là suy thối, đồng thời cũng có thể thúc đẩy hoặc kéo lui
nền kinh tế.

1.1.2.3. Phân loại cho vay tiêu dùng cá nhân
- Căn cứ vào phương thức cho vay
+ Cho vay từng lần: Đây là hình thức cho vay tiêu dùng cá nhân trong đó
tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng bao gồm gốc và lãi một lần khi
đến hạn. Thường thì các khoản vay tiêu dùng từng lần chỉ được cấp cho các khoản
vay có giá trị nhỏ với thời hạn cho vay khơng dài.
+ Cho vay trả góp:Cho vay tiêu dùng cá nhân trả góp là hình thức cho vay
tiêu dùng cá nhân trong đó người đi vay trả nợ (cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều
lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Cho vay tiêu dùng cá nhân
trả góp thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng
định kỳ của người vay khơng đủ khả năng thanh tốn hết một lần số nợ vay. Ngân
hàng thương mại thường sử dụng lãi suất cố định cho hình thức vay này, có hai hình
thức tính lãi thường được sử dụng đó là phương pháp lãi đơn và phương pháp gộp.
Phương pháp lãi đơn: Phương pháp này được sử dụng giống như các hợp
đồng vay thơng thường đó là khách hàng trả gốc đều bằng nhau theo kỳ qui định,
tiền lãi trả theo số dư mà khách hàng hiện đang nợ ngân hàng.
Phương pháp gộp: Đây là phương pháp mà khách hàng sẽ trả một số tiền
nhất định bằng nhau trong suốt kỳ hạn vay của hợp đồng, số tiền đó được ngân
hàng tính bằng cách cộng số gốc vay và tổng số lãi khách hàng phải trả cho toàn bộ
khoản vay sau đó chia đều cho số kỳ hạn trả nợ.
+ Cho vay tuần hoàn:Cho vay tiêu dùng cá nhân tuần hồn đó là việc ngân
hàng thương mại cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng nào đó, khi đó khách
14


hàng có thể sử dụng thẻ tín dụng, phát hành loại séc hoặc được phép thấu chi dựa
trên tài khoản vãng lai của mình. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng
được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng
kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ
một cách tuần hoàn theo một hạn mức tín dụng nhất định mà ngân hàng thương

mại đã cấp.
- Căn cứ vào mục đích tiêu dùng
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân tài trợ các loại sản: là các khoản vay nhằm tài
trợ cho nhu cầu mua sắm các tài sản có thời gian sử dụng lâu dài hoặc mua sắm
mới, xây dựng, cải tạo nhà ở cho khách hàng (cá nhân hay hộ gia đình). Thơng
thường chính các tài sản này sẽ là tài sản đảm bảo cho chính món vay đó. Cũng do
thời hạn vay kéo dài nên việc định giá tài sản đảm bảo, khả năng phát mại của tài
sản đảm khi rủi ro xảy ra cũng là vấn đề khó khăn đối với ngân hàng thương mại.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân khác: là các khoản vay tiêu dùng nhằm tài trợ
cho một số khác nhu cầu tiêu dùng như đi học, du lịch.. cho vay phục vụ sinh hoạt
tiêu dùng.
- Căn cứ vào nguồn hình thành các khoản vay tiêu dùng
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân gián tiếp: Đây là hình thức mà ngân hàng thương
mại khơng trực tiếp ký hợp đồng với người tiêu dùng, thay vào đó ngân hàng sẽ ký kết
hợp đồng với chính nhà cung cấp, thực chất đây là việc ngân hàng mua lại những
khoản nợ từ các công ty bán lẻ, trên cơ sở đó nhà cung cấp sẽ bán chịu hàng hố cho
người tiêu dùng. Hợp đồng ký kết giữa ngân hàng và nhà cung cấp sẽ quy định ra điều
kiện bán chịu hàng hóa (đối tượng khách hàng được bán chịu, loại hàng được bán, hạn
mức được bán chịu...), thông qua những điều kiện trong hợp đồng mà nhà cung cấp sẽ
thoả thuận với khách hàng của mình về việc bán chịu hàng hố. Ngân hàng có thể trực
tiếp thu nợ từ khách hàng, hoặc có thể thu nợ thơng qua nhà cung cấp hàng hố, nhà
cung cấp hàng hố có trách nhiệm giúp ngân hàng trong việc thu nợ của khách hàng.
Ưu điểm: Theo hình thức này, ngân hàng sẽ có điều kiện tiếp xúc được với
một lượng lớn khách hàng, khắc phục được tâm lý e ngại của khách hàng khi tới
ngân hàng, giúp ngân hàng tiết kiệm được chi phí trong việc cấp tín dụng vì chỉ
15


phải ký hợp đồng với chính nhà cung cấp. Qua đó cũng giúp ngân hàng chia sẻ bớt
rủi ro cho nhà cung cấp, ngân hàng có quan hệ tốt với nhà cung cấp hoặc hợp đồng

ký với nhà cung cấp có những điều kiện ràng buộc (được truy địi) thì khi người
tiêu dùng khơng thanh tốn cho ngân hàng, ngân hàng có quyền truy địi nhà cung
cấp về khoản nợ trên (có được nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng). Mặt khác, khi
đã có hợp đồng ràng buộc, thì nhà cung cấp cũng phải cân nhắc trước quyết định có
bán chịu hàng hố cho người tiêu dùng hay khơng (gián tiếp giúp ngân hàng thẩm
định khách hàng).
Nhược điểm: Bên cạnh những điều kiện thuận lợi kể trên thì hình thức cho
vay này cũng có một số khó khăn khi triển khai. Đó là, ngân hàng khơng trực tiếp
tiếp xúc với khách hàng đã được nhà cung cấp bán chịu hàng hố, do đó khơng thể
nắm được thơng tin của khách hàng mà ngân hàng tài trợ, ngân hàng cũng phải đối
mặt với tình trạng nhà cung cấp chỉ vì muốn bán được hàng mà đã không xem xét
kỹ lưỡng về khả năng trả nợ cho ngân hàng. Mặt khác, ngân hàng còn phải chịu rủi
ro khi người tiêu dùng khơng thanh tốn khoản vay cho ngân hàng, trong khi hợp
đồng giữa Ngân hàng và nhà cung cấp lại không có điều khoản được truy địi mặc
dù đây chỉ là hạn hữu bởi chỉ những nhà cung cấp thật sự tin cậy thì ngân hàng mới
ký hợp đồng kiểu này và những khoản nợ được mua theo điều kiện này cũng được
lựa chọn rất kỹ càng. Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều ngân hàng
khơng muốn cho vay tiêu dùng cá nhân gián tiếp, nếu tham gia thì các ngân hàng
thương mại đều có các cơ chế kiểm sốt tín dụng rất chặt chẽ.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân trực tiếp: Đây là hình thức trong đó ngân hàng
trực tiếp làm việc với khách hàng của mình, việc thu nợ cũng được ngân hàng trực
tiếp thực hiện.
Ưu điểm: Với hình thức tài trợ này, ngân hàng có thể trực tiếp tiếp xúc với
khách hàng của mình và chịu trách nhiệm về các quyết định có cho vay hay không.
Các quyết định của ngân hàng đạt độ chuẩn mực cao hơn nhiều so với những quyết
định của nhà cung cấp, bởi những ngân hàng thương mại có chuyên môn và kinh
nghiệm hơn trong việc thẩm định, trong khi đối với nhà cung cấp thì những nhân

16



viên của họ lại mạnh về khía cạnh bán hàng mà khơng mạnh khía cạnh về tín dụng.
Mặt khác, trong một số tình huống nhà cung cấp chỉ chú trọng vào việc bán hàng
nên đôi khi những quyết định của họ có thể vội vàng, dẫn đến đưa ra những quyết
định khơng chính xác có thể có những rủi ro hoặc có thể bỏ qua những khách hàng
tốt. Với ngân hàng thì điều này được hạn chế một cách tối đa. Bên cạnh đó, việc
tiếp xúc trực tiếp với khách hàng cũng tạo điều kiện cho ngân hàng có thể xử lý
linh hoạt được ngay những tình huống phức tạp như: một vài điều kiện của khách
hàng không đúng theo mẫu quy định trước, khách hàng có bổ sung yêu cầu (hạn
mức, thời hạn...vv), khách hàng yêu cầu về phương thức hồn trả...vv. Trong khi,
với phương thức gián tiếp thì nhà cung cấp không thể đáp ứng được điều này, tức là
với họ mọi quy định trong hợp đồng đã ký giữa ngân hàng thương mại và nhà cung
cấp đều phải tuân thủ.Việc khách hàng tiếp xúc trực tiếp với ngân hàng còn giúp
cho quan hệ khách hàng với ngân hàng được gần gũi hơn, thông qua tiếp xúc ngân
hàng có thể quảng bá hình ảnh của mình, cung cấp một số các sản phẩm, dịch vụ
khác mà khách hàng có nhu cầu nhưng chưa biết.
Nhược điểm:Tuy nhiên, với hình thức này thì ngân hàng sẽ phải tiếp xúc với
từng khách hàng nhỏ lẻ do vậy chi phí cho một món vay sẽ cao, cũng như việc tăng
trưởng số lượng khách hàng chậm. Trong hình thức này, ngân hàng sẽ là người duy
nhất gánh chịu rủi ro khi nó xảy ra.
- Căn cứ vào biện pháp đảm bảo tiền vay
+ Có tài sản đảm bảo:Cho vay tiêu dùng cá nhân có bảo đảm bằng tài sản là
hình thức cho vay trong đó ngân hàng yêu cầu có một khoản đảm bảo cho việc thực
hiện nghĩa vụ trả nợ từ phía người đi vay bằng tài sản. Ngân hàng thường áp dụng
loại hình này vào các khoản vay có giá trị lớn như cho vay mua nhà, cho vay mua ô
tô... ngồi việc có một số vốn nhất định để mua chúng. Tài sản thế chấp có thể là tài
sản mà khách hàng hiện có hoặc là chính tài sản hình thành từ vốn vay.
+ Khơng có tài sản đảm bảo: Cho vay tiêu dùng cá nhân khơng có bảo đảm
bằng tài sản là hình thức cho vay trong đó ngân hàng không yêu cầu bất kỳ một
khoản đảm bảo bằng tài sản cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ từ phía người đi vay.


17


Thơng thường thì các ngân hàng chỉ cấp những khoản cho vay tiêu dùng cá
nhânkhơng có đảm bảo bằng tài sản cho các cán bộ cơng nhân viên có thu nhập ổn
định, hay các khách hàng truyền thống có giao dịch tại ngân hàng. Cho vay khơng có
bảo đảm bằng tài sản đối với cán bộ công nhân viên và thu nợ từ tiền lương, trợ cấp
và các khoản thu nhập khác là một hình thức phổ biến của loại hình tín dụng này.
- Căn cứ vào mục đích của khoản vay
Căn cứ vào mục đích của khoản vay, cho vay tiêu dùng cá nhân được chia
thành các khoản vay với mục đích như sau:
+ Cho vay phục vụ nhu cầu về nhà ở;
+ Cho vay mua phương tiện đi lại;
+ Cho vay hỗ trợ du học;
+ Cho vay lao động xuất khẩu;
+ Thấu chi tài khoản tiền gửi;
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân khác
1.1.2.4. Vai trò của cho vay tiêu dùng cá nhân
Cho vay tiêu dùng cá nhân trực tiếp mang lại nguồn thu cho ngân hàng
thương mại, tăng cường mức sống cho người dân thơng qua đó gián tiếp kích thích
sản xuất phát triển. Vì vậy, cho vay tiêu dùng cá nhânđóngvai trị vơ cùng to lớn
đối với ngân hàng thương mại, người tiêu dùng, với nhà sản xuất và đối với nền
kinh tế xã hội.
- Đối với ngân hàng thương mại
Vai trò của các ngân hàng thương mại đối với xã hội đang dần khẳng định
hơn qua sự phát triển ngày càng hoàn thiện của hệ thống tài chính nói chung và của
các ngân hàng thương mại nói riêng. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại ngày
càng chịu sự cạnh tranh gay gắt không chỉ giữa các tổ chức tín dụng với nhau mà
cịn cạnh tranh với các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ khác như các tổ

chức bán lẻ, công ty bảo hiểm, viễn thông đã đang và sẽ cung cấp các dịch vụ và
sản phẩm mà các ngân hàng đã và đang cung cấp. Chính vì vậy, muốn tồn tại và
phát triển thì các ngân hàng phải khơng ngừng đổi mới, tìm tịi và đưa ra những sản
phẩm, dịch vụ mới ngày càng có nhiều giá trị gia tăng cho khách hàng.
18


Song song với nỗ lực huy động vốn, ngân hàng thương mại phải khai thác
thị trường tín dụng một cách triệt để, nghĩa là tìm cách để đảm bảo khả năng đáp
ứng và trên cơ sở đó thoả mãn một cách tốt nhất, nhiều nhất các nhu cầu về tín
dụng của nền kinh tế. Các thị trường tín dụng truyền thống đã có sự cạnh tranh
khốc liệt và mỗi ngân hàng thường có chỗ đứng của mình, trong khi đó các khoản
tín dụng tiêu dùng tuy có quy mơ nhỏ nhưng nhu cầu về chúng lại rất lớn. Hơn nữa,
số lượng dân cư cùng với sự tăng trưởng liên tục thì thu nhập của họ sẽ là thị
trường tiềm năng cho bất cứ ngân hàng thương mại nào. Do vậy, các ngân hàng đã
phải hướng mục tiêu của mình vào lĩnh vực này, cho vay tiêu dùng cá nhân trở
thành một loại hình sản phẩm phổ biến trong các ngân hàng thương mại và mang
lại thu nhập tương đối cao trong tổng doanh thu các ngân hàng.
Không chỉ mang về lợi nhuận lớn cho các ngân hàng thương mại mà các
khoản vay tiêu dùng góp phần cơ cấu lại các khoản tín dụng của chính ngân hàng;
giúp ngân hàng có nhiều thuận lợi trong hoạt động huy động vốn, đặc biệt là huy
động vốn từ dân cư. Thông qua sản phẩm cho vay tiêu dùng cá nhân ngân hàng có
thể quảng bá hình ảnh của mình với khách hàng, từ đó thu hút các khách hàng đến
sử dụng các sản phẩm và dịch vụ khác của ngân hàng.
Trong khi cấp các khoản tín dụng tiêu dùng thì các ngân hàng cũng góp phần
đẩy mạnh tiêu dùng, từ đó tạo điều kiện cho sản xuất phát triển và ngân hàng có
thêm những khoản cho vay mới phục vụ cho các nhà sản xuất. Sản xuất phát triển
lại cung cấp ra thị trường những sản phẩm mới làm nảy nở nhu cầu tiêu dùng... Q
trình này được lặp đi, lặp lại khơng ngừng tạo thành vịng xốy kích thích thị
trường tín dụng ngày càng phát triển.

- Đối với người tiêu dùng
Trên thực tế ta thấy có nhiều nhu cầu mang tính tự nhiên, thiết yếu, có ý
nghĩa quan trọng trong cuộc sống đối với các cá nhân và hộ gia đình. Với thu
nhập đều đặn của mình, những nhu cầu này sẽ được thoả mãn trong tương lai.
Như những nhu cầu về mua sắm, sửa chữa nhà cửa, mua các đồ dùng tiện nghi
sinh hoạt, mua sắm các phương tiện đi lại như xe máy, ô tô, chuẩn bị hôn lễ, ma
chay, học hành, du lịch...Vay tiêu dùng sẽ giải quyết được mâu thuẫn giữa nhu
19


cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán hiện tại của khách hàng cho phép người tiêu
dùng có thể hưởng thụ trước số tiền họ sẽ có trong tương lai, mặc dù họ phải bỏ ra
một khoản chi phí nhất định. Nếu phân tích theo khía cạnh tài chính việc mượn
tiền trước của ngân hàng để tiêu dùng khiến chúng ta phải trả lãi thực chất cũng
chỉ là cách quy đổi dịng tiền mà ta sẽ có tại một thời điểm nào đó trong tương lai
về thời điểm hiện tại.
Có thể nói người tiêu dùng là người được hưởng trực tiếp và nhiều lợi ích
mà hình thức cho vay này mang lại đặc biệt là đối với những người có thu nhập
thấp và trung bình, những người trẻ tuổi khi thu nhập hiện tại chưa đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng. Mặt khác, việc thỏa mãn nhu cầu hiện tại sẽ là động lực thúc đẩy
người tiêu dùng phấn đấu làm việc để trả nợ càng sớm càng tốt. Điều này thúc đẩy
việc tăng thu nhập của chính người tiêu dùng trong tương lai. Chính vì thế, ngày
càng nhiều cá nhân và hộ gia đình sử dụng sản phẩm vay tiêu dùng qua đó thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng và nâng cao đời sống.Vay tiêu dùng là xu hướng tất yếu của
xã hội hiện đại.
- Đối với nhà sản xuất
Mục tiêu của tất cả các nhà sản xuất là tối đa hóa lợi nhuận, do đó, dù bằng
cách này hay cách khác thì họ đều mong muốn tiêu thụ được càng nhiều hàng hoá
càng tốt. Tuy nhiên, trong thực tế là khơng phải lúc nào khách hàng cũng có tiền để
thanh tốn ngay mà có thể trong vài tuần, vài tháng sau thu nhập của họ mới tích

luỹ đủ. Đứng trước mục tiêu tăng lợi nhuận, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng khả
năng cạnh tranh với các đối thủ sản xuất cùng loại hàng hoá trên thị trường, các nhà
sản xuất sẳn sàng bán hàng hố trả góp, thậm chí bán chịu trong một thời gian. Để
có tiền quay vòng, nhà sản xuất cần sự tài trợ của ngân hàng thơng qua việc mua lại
các khoản nợ đó.
Như vậy, các khoản cho vay tiêu dùng cá nhân không tác động trực tiếp tới
các nhà sản xuất, mà chủ yếu tác động đến họ thông qua sự tiêu dùng hàng hóa của
cá nhân, hộ gia đình. Việc gia tăng tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ làm tăng nhu
cầu về sản phẩm dịch vụ đó giúp các nhà sản xuất tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm,
từ đó, đem lại lợi nhuận cao hơn cho họ.

20



×