Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

ĐỀ tài VAI TRÒ của lực LƯỢNG sản XUẤT TRONG TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.1 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI
VAI TRỊ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG TIẾN TRÌNH CƠNG NGHIỆP
HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Thầy Võ Anh Tuấn
Lớp CC06 - Nhóm 07 – HK221
Họ và tên
Trần Nguyễn Bảo Ngọc
Trần Tâm Nhã
Mai Thành Nhân
Phạm Thành Nhân
Lê Uyển Nhi
Nguyễn Hồng Bích Nhật

Thành phố Hồ Chí Minh, 2022

Mã số sinh viên
2153626
2152820
2153647
2152207
2152837
-


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 07


ST

Họ và tên

MSSV

Nhiệm vụ

Kết quả

T
1.

Trần Nguyễn Bảo Ngọc

215362

1.2.3; 1.3; 1.4

100%

Trần Tâm Nhã

6
215282

2.1; 2.2.1

100%


Mai Thành Nhân

0
215364

2.2.2; 2.3.1

100%

Phạm Thành Nhân

7
215220

1.1; 1.2.1; 1.2.2

100%

5.

Lê Uyển Nhi

7
215283

2.3.2; 2.3.3; 2.4

100%

6.


Nguyễn Hồng Bích

7
-

Khơng liên lạc

0%

2.
3.
4.

Chữ ký

Nhật

NHĨM TRƯỞNG

PHẠM THÀNH NHÂN


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Sự phát triển của xã hội là điều tất yếu trong mỗi thời đại kinh tế, đó là quy luật của vịng
xoay vận động và phát triển, những điều lạc hậu sẽ dần bị thay thế bởi những tư tưởng tiến bộ
hơn. Cụ thể hơn, chính sự kết hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mới có được sự

cải tiến như ngày hôm nay, lực lượng sản xuất là một trong những nội dung cơ bản của học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội được triết học Mác xem là yếu tố năng động nhất trong các yếu
tố cấu thành phương thức sản xuất, quyết định xu hướng, tốc độ, nhịp độ vận động của quan hệ
sản xuất, thơng qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự ra đời và phát triển của lực lượng
sản xuất là tiền đề cho sự phát triển của thời đại mới như hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, do
vậy việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật là vấn đề tất yếu và cần thiết. Việc xây dựng đó phải
gắn liền với q trình phát triển lực lượng sản xuất trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất, đó
là “Quan hệ sản xuất phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Ngoài ra, Đảng ta đã
xác định phải gắn liền quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với quá trình phát triển
lực lượng sản xuất; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại
lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững.


Nhận thức được tầm quan trọng của lực lượng sản xuất trong lao động—sản xuất, nhóm 07
đã lựa chọn đề tài: “ Vai trò của lực lượng sản xuất trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay” làm bài tập lớn để kết thúc môn học Triết học Mác - Leenin.
Nhiệm vụ của đề tài:
Một là, Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về khái niệm lực lượng sản xuất,
kết cấu và tương quan của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất .
Hai là, Phân tích tính chất và vai trò của lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong tiến trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, từ đó rút ra những nhận định về phương pháp luận.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1. Sự ra đời của lực lượng sản xuất: Không gạch chân
Lực lượng sản xuất là quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Trong

quá trình này, sản xuất của con người kết hợp sức lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước
hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết
cho cuộc sống của mình. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của lực lượng sản xuất gắn liền với lịch
sử phát triển của xã hội loài người. Theo C. Mác: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới
có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống,
nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra
những tư liệu để thỏa mãn nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”1. Con
người muốn tồn tại thì phải có khả năng sản xuất ra những tư liệu nhằm đáp ứng những nhu cầu
cần thiết cho cuộc sống, đó là những yêu cầu tối thiểu cho đời sống thường nhật, bởi khi và chỉ
khi tồn tại được, con người mới có khả năng phát triển sản xuất những nhu cầu vật chất khác
mang tính chất cách mạng, vĩ đại. Sự ra đời của lực lượng sản xuất gắn liền sự phát triển của xã
hội, là yếu tố để đánh giá sự phát triển của đời sống trong mỗi giai đoạn nhất định.

1 C. Mác và Ph. Ăng-ghen Tồn tập (1995), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.3, tr.40


Tuy nhiên, muốn sản xuất được vật chất, con người cần phải chế tạo ra các loại công cụ lao
động, nhằm biến đổi các trạng thái, cấu tạo của các đối tượng lao động trong tự nhiên thành
những vật chất theo nhu cầu chung của cộng đồng. Hơn nữa, sau một thời gian khai thác thì
những vật chất trong tự nhiên dần bị hao mịn vì vậy con người cần ứng dụng tư duy để tìm tịi
ra những dạng vật chất tiên tiến, đa dạng hơn mà không cần phụ thuộc vào tự nhiên.. Lực lượng
sản xuất là sự kết hợp giữa con người với tư liệu sản xuất và những cơng cụ hỗ trợ trong q
trình sản xuất vật chất, sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ đem lại những lợi ích to lớn cho
xã hội.

1.2. Kết cấu của lực lượng sản xuất
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, lực lượng sản xuất gồm ba bộ phận: Người lao động;
Tư liệu sản xuất; Khoa học – công nghệ.
1.2.1. Người lao động
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng

tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội2. Người lao động đóng vai trị quan trọng bên
cạnh công cụ sản xuất trong việc tạo ra tư liệu sản xuất, người lao động là nhân tố điểu khiển
công cụ lao động, chất lượng sản phẩm thường dựa trên tay nghề cũng như là năng lực của
người lao động, khơng một vật thể nào trở nên có giá trị nếu không chịu sự tác động bởi con
người. Người lao động thường sử dụng hai loại sức mạnh chính: cơ bắp và tư duy, sức mạnh
của cơ bắp sẽ dựa trên nền tảng của một tư duy tốt bởi sự phát triển của xã hội ngày càng cao
dẫn đến nhu cầu và yêu cầu ngày càng khắt khe. Dù cho có được cung cấp hàng loạt các cơng
cụ tiên tiến cùng với số lượng lớn lao động tay chân nhưng thiếu đi lao động trí óc sẽ cho ra đời
rất nhiều sản phẩm chưa đạt chất lượng hoặc có chất lượng thấp hơn yêu cầu chung của xã hội.
Con người là yếu tố cơ bản, là lực lượng chủ đạo quyết định sự phát triển của lực lượng sản
xuất nên có thể nhận định rằng: con người là chủ thể quyết định mọi quá trình vận động và phát
triển lịch sử.

23 Phạm Văn Đức (chủ biên) (2019), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, tr.144


1.2.2. Tư liệu sản xuất
Tư liệu sản xuất là khái niệm đặc trưng cho toàn bộ yếu tố “vật” của lực lượng sản xuất.
Được cấu thành từ hai bộ phận: Đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động là
những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao động tác động lên,
nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người. Tư liệu lao động là
những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao
động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con
người3. Sự phát triển của tư liệu lao động kéo theo công cụ lao động ngày càng được cải tiến.
Công cụ lao động nắm vai trò thiết yếu trong quá trình lao động, là điều kiện quyết định đến
năng suất lao động và độ hồn thiện của sản phẩm. Nó dường như trở thành một thước đo
chuẩn mực trong công việc nhằm thay thế ảnh hưởng của sức lao động từ mỗi cá nhân trong
hoạt động sản xuất. Trong giai đoạn hiện nay, các công cụ lao động ngày càng được cải tiến
nhằm mục đích đáp ứng được những quy mơ sản xuất ngày càng được mở rộng, nó được hiện
đại hóa một cách triệt để theo sự phát triển về tư duy của người lao động. Vì thế, C. Mác đã

nhận định rằng: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì
mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào.”4
1.2.3. Khoa học - công nghệ
Thứ nhất, khoa học được định nghĩa là một hệ thống tri thức được con người áp dụng vào
các hoạt động sản xuất vật chất, thể hiện trong hoạt động lao động và có chức năng nhất định.
Từ đó, khoa học – một lực lượng sản xuất tiềm tàng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất.
Chú ý! Sắp xếp các ý trong phần này lại để làm rõ khoa học – một lực lượng sản xuất tiềm
tàng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Thứ hai, tất cả các phát minh kỹ thuật và công nghệ đều phát sinh từ các nghiên cứu khoa
học cũng có thể nói rằng khoa học có quan hệ mật thiết với kỹ thuật và công nghệ, là cơ sở lý
luận của kỹ thuật và phương tiện kỹ thuật. Mối quan hệ chặt chẽ giữa khoa học và công nghệ là
xu thế tất yếu của sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Khoa học muốn phát triển như
3
4 C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (1993) , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 23, tr. 269


vũ bão thì chúng ta phải cần đến sự trợ giúp của công nghệ hiện đại. Khoa học gắn liền với
công nghệ, và khoa học mở đường cho kỹ thuật trước tiên. Sau đó, kỹ thuật xuất hiện mở
đường cho sản xuất. Quá trình này gọi là khoa học – kỹ thuật, công nghệ - sản xuất.
Thứ ba, điều này hồn tồn khác với cuộc Cách mạng Cơng nghiệp của thế kỷ 18. Trong
những thế kỷ trước, thời gian từ phịng thí nghiệm đến khi sản xuất thực tế thường rất lâu. Tuy
nhiên, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, quá trình trên đã được rút ngắn rất nhiều nhờ sự phát triển
không ngừng nghỉ của khoa học hiện đại. Minh chứng đó là sự ra đời của những phát minh:
máy ảnh (1727-1839), điện thoại (1820-1876), nguyên tử (1939-1945), lazer (1960-1962), ...
Khoa học tham gia trực tiếp vào sản xuất và là nguồn gốc chủ yếu của tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ, đồng thời giúp tăng lợi nhuận của việc nghiên cứu khoa học.
Thứ tư, khoa học trở thành các yếu tố của lực lượng sản xuất. Nhờ có khoa học, các công
cụ làm việc không ngừng được cải tiến, giải phóng sức lao động của con người. Con người
ngày càng tạo ra nhiều đối tượng lao động nhân tạo để khắc phục những hạn chế về thời gian

sử dụng và các tính chất khác của đối tượng lao động tự nhiên. Cũng chính nhờ khoa học mà
trình độ, tay nghề, khả năng và tay nghề của người lao động được nâng cao. Ở nhiều nhà máy,
xí nghiệp, số lượng cán bộ khoa học tham gia vào quá trình sản xuất đã tăng lên, vượt xa số lao
động cơ bình thường. Đội ngũ lao động tri thức đang xuất hiện và có xu hướng gia tăng cả về
số lượng và chất lượng. Nhờ có khoa học mà hoạt động của cán bộ, quản lý, điều hành sản xuất
ngày càng hiệu quả hơn, giúp nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Như vậy, đầu tư vào khoa học mang lại lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với đầu tư vào các
ngành khác. Trong lĩnh vực khoa học cơ bản, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo
nên những bước tiến nhảy vọt chưa từng có trong các lĩnh vực tốn học, vật lý, hóa học và sinh
học, có thể kể đến sự kiện chấn động nền khoa học chú cừu Dolly được sinh ra bằng phương
pháp nhân bản vơ tính vào tháng 7 năm 1996. Vào tháng 6 năm 2000, các nhà khoa học đã
phát hành bản đồ bộ gen người. Tháng 4 năm 2003 "Giải mã hoàn chỉnh bộ gen người",….
Trong lĩnh vực cơng nghệ đã có những phát minh quan trọng: Cơng cụ sản xuất mới: máy
tính điện tử, dây chuyền sản xuất tự động, hệ thống tự động hóa, robot, ... Nguồn năng lượng
mới: năng lượng mặt trời, năng lượng hạt nhân, năng lượng gió ... Vật liệu mới: polyme, vật


liệu siêu tinh khiết, vật liệu siêu bền, siêu cứng ... Công nghệ sinh học với những đột phá phi
thường trong công nghệ gen, công nghệ tế bào, v.v ... các giống lúa mới cho năng suất cao,
kháng bệnh dẫn đến “cuộc cách mạng xanh” trong nông nghiệp. Những bước chuyển biến tuyệt
vời trong giao thông vận tải: cáp quang, máy bay siêu thanh khổng lồ, tàu điện siêu tốc ...;
chinh phục không gian: vệ tinh, tàu vũ trụ, v.v. Trong những thập kỷ gần đây, công nghệ thông
tin phát triển bùng nổ tồn cầu, hình thành nên các mạng thơng tin máy tính của thế giới
(Internet). Nền văn minh của nhân loại đã bước sang một chương mới: nền văn minh thông tin.
Thực tế cho thấy sự phát triển kinh tế của Hoa Kỳ, Nhật Bản và nhiều nước khác trên thế
giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng minh vị trí sống cịn của khoa học và cơng
nghệ. Để thành cơng, vai trị của khoa học và cơng nghệ trong q trình hiện đại hóa của Việt
Nam ngày nay là vô cùng to lớn và quan trọng.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ được đánh giá là có vai trị quan trọng trong q
trình chuyển một nước nông nghiệp kém phát triển thành một nước nông nghiệp, công nghiệp

hiện đại. Tất cả những nỗ lực liên quan đến giáo dục, đào tạo, phát triển vật liệu xây dựng và cơ
sở công nghệ, huy động vốn và lao động, phát triển kinh tế đối ngoại, ... cũng nhằm đẩy nhanh
cuộc cách mạng này.
1.3. Lực lượng sản xuất trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất
Theo quan điểm truyền thống, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn bó chặt chẽ và
thống nhất trong mọi phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất là cơ sở vật chất, điều kiện vật
chất có vai trị quan trọng trong quan hệ sản xuất – hình thức xã hội của sản xuất. Khi quan hệ
sản xuất không cịn phù hợp với lực lượng sản xuất thì chính là phương thức sản xuất mới và
tối ưu hơn xuất hiện. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
được biểu hiện như một quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã hội loài người quy luật về sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự thích nghi của quan hệ sản xuất trong
phương thức sản xuất. Quy tắc này được C.Mác phát hiện ra, đây là quy luật khách quan, cơ
bản, phổ biến, vận hành xuyên suốt lịch sử loài người và cùng với các quy luật khác, dẫn lịch
sử loài người đi từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này sang một cái khác cao hơn, sự
phát triển của các hình thái kinh tế và xã hội được coi là một q trình phát triển tự nhiên trong
lịch sử. Tính quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể hiện ở hai


phương diện thống nhất: lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất đó và cũng chính vì thế
mà khi lực lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng địi hỏi phải có sự thay đổi tương
đương. Trong mọi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trị then chốt. Quan hệ
sản xuất luôn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng xấu đối với việc bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát
triển lực lượng sản xuất. Quá trình tác động trở lại của các quan hệ sản xuất đối với lực lượng
sản xuất có thể diễn ra theo hai khả năng: tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực. Khi quan hệ
sản xuất phù hợp với nhu cầu khách quan bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển của lực
lượng sản xuất thì điều này có tác động tích cực trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, ngược lại, nếu trái với nhu cầu khách quan đó thì nhất định sẽ diễn ra quá trình tác động
tiêu cực. Lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, nhưng quan hệ sản xuất tương đối ổn
định vì nó gắn liền với các thiết chế xã hội và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Quan hệ sản xuất
mang tính chất xã hội tương đối ổn định. Chính vì thế mà C.Mác đã lập luận là “Tổng hợp lại
thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ sản xuất, là xã hội,

và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội
có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là tổng thể
quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển
đặc thù trong lịch sử nhân loại”5. Sự tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất thúc đẩy xã hội loài người phát triển khơng ngừng của xã hội lồi người với tư
cách là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
quan hệ mâu thuẫn biện chứng, tức là mối quan hệ thống nhất giữa hai mặt đối lập. Sự vận
động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải chuyển từ
thống nhất sang mâu thuẫn và ngay sau khi mâu thuẫn được giải quyết thì sự thống nhất mới lại
được hình thành. Quá trình này lặp đi lặp lại trong suốt lịch sử, làm phát sinh sự vận động và
phát triển của các phương thức sản xuất.
Phần này viết rõ từng ý để làm rõ nội dung, chứ ko phải viết liền mạch như 1 đoạn văn thế
này

5 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 6, trang 553.


1.4. Vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển xã hội
Trước hết, chúng tôi bỏ chúng tôi đi nhắ! Có thể viết: Trước hết, có thể khẳng định rằng
lực lượng sản xuất có vai trị quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và xã hội. Vai trò
của sản xuất vật chất căn bản là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội lồi người có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng. Để xã hội được thực hiện và cải thiện, nó phải là kết quả
của cuộc sống sản xuất, sản xuất vật chất xã hội. Rốt cuộc, nhận thức không thể được sử dụng
để mô tả đời sống tinh thần. Muốn phát triển xã hội phải bắt đầu từ việc phát triển đời sống
kinh tế vật chất. Xã hội tiên tiến là xã hội mà lực lượng sản xuất ngày càng phát triển và hồn
thiện, nền sản xuất ln phát triển so với cái cũ, cái tụt hậu đang kìm hãm nó và tất yếu phải
thay thế quan hệ sản xuất lạc hậu với quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn tạo ra hình thái kinh tế
mới thay thế hình thái cũ. Tất nhiên, cái mới phải đầy đủ và hiệu quả hơn cái cũ, đó chính là
quy luật tất yếu của cuộc sống. Xã hội phát triển cũng là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Mức sống ngày càng nâng cao, nhu cầu của con người trở nên khắt khe hơn, đưa ra

yêu cầu cao hơn và phức tạp với sản phẩm, sản phẩm mới phải tương thích và hiệu quả hơn so
với các sản phẩm cũ. Nói cách khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đi lên của xã
hội và sự phát triển của đời sống có mối quan hệ biện chứng, và lực lượng sản xuất trực tiếp
góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Lực lượng sản xuất quyết định hai mặt của đời sống xã hội: chất và lượng. Theo quy luật
phát triển của xã hội, nền sản xuất luôn phát triển mâu thuẫn với cái cũ, cái lạc hậu, kìm hãm
chúng và tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lạc hậu bằng quan hệ sản xuất mới tiên tiến
hơn .... Từ một hình thái lực lượng sản xuất phát triển, các quan hệ này trở thành dây chuyền
của lực lượng sản xuất và thế là bắt đầu kỷ nguyên cách mạng xã hội. Quy luật quan hệ sản
xuất theo các giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung áp dụng trong suốt
lịch sử loài người. Sự tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
làm cho lịch sử xã hội loài người từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy đến phương
thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa, đang trên đà tiến gần đến
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đầu tiên, trong các xã hội ngun thủy, bản năng của
chúng ta đó chính là ăn lơng ở lỗ, đây cũng là một hình thức sản phẩm của quá trình lao động
tự phát. Sau đó, con người tiến hóa, học cách để săn bắt và hái lượm, và làm thế nào để săn bắn
và trồng trọt. Bắt đầu kể từ thời kỳ đồ đá, con người đã học được cách sử dụng công cụ để hỗ


trợ săn bắn, lao động. Tiếp theo đồ đá, đồ đồng, đồ sắt dần được phát hiện và sử dụng… Cho
đến nay, thế kỷ 21, con người đã tạo ra những cỗ máy to lớn, thơng minh, có năng suất gấp
nhiều lần con người. Rõ ràng chúng ta đã chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc và phát triển
thần kỳ trong suốt chiều dài lịch sử. Đây là sự đóng góp về chất của lực lượng sản xuất cho đời
sống và xã hội. Lực lượng sản xuất cho ra những thành phẩm, sản phẩm để hỗ trợ, đáp ứng
nhu cầu cần thiết của con người, đây là định nghĩa về lượng. Trong quá trình lao động, con
người tạo ra và sản xuất ra nhiều loại sản phẩm khác nhau. Từ tư liệu sản xuất đến tư liệu lao
động, phương tiện lao động, công cụ lao động ...; từ đơn giản như đá, gậy gộc đến tinh vi, hiện
đại như thiết bị máy móc tối tân, những dây chuyền sản xuất với năng suất khổng lồ,…
Tiểu kết??????


Chương 2
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG
TIẾN TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

Viết lại! nhớ là quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam nhá! Với nhớ đã
đến đại Hội 13 của Đảng rồi
Đầu tiên, cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động
kinh tế và quản lý kinh tế - xã hội theo khuynh hướng từ sử dụng sức lao động thủ công sang sử dụng
sức lao động với công nghệ và phương pháp tiên tiến nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao, thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cơng nghiệp hóa ln gắn
liền với phát triển kinh tế tri thức và luôn xuất hiện trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của


Nhà nước. Trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế, cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đã giúp cho đất nước
tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Lý luận thực tiễn cho thấy cơng nghiệp hóa là quy luật phổ
biến của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua. Ngồi ra, nó đã tạo ra
động lực mạnh mẽ cho nền kinh tế, là đòn bẩy quan trọng tạo sự phát triển đột biến trong các lĩnh vực
hoạt động của con người. Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, quy luật kinh tế phổ
biến và được thực hiện thông qua cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tiếp đến, trong q trình hội nhập kinh tế thì đất nước ta ln chú trọng đổi mới trong nước,
coi cải cách, hoàn thiện thể chế trong nước là cơ sở để hội nhập kinh tế thành công, đồng thời
khai thác, tận dụng các thỏa thuận đã ký và có các biện pháp phịng vệ hợp lý trước những tác
động tiêu cực từ hội nhập kinh tế. Độc lập, tự chủ của quốc gia địi hỏi Việt Nam phải có một
nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và bảo đảm độ
an toàn cần thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao. Cho nên việc
xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta được thể hiện ở độc lập, tự chủ về đường lối phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực

kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có
hiệu quả và sức cạnh tranh cao; tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực và sản phẩm kinh tế
chủ yếu có vai trị quan trọng hàng đầu, hiệu quả… Cùng với đó, phải bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia; an tồn năng lượng, tài chính - tiền tệ, môi trường; đất nước phát triển nhanh,
hiệu quả, bền vững. Từ việc xác định đúng mục tiêu, nội dung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ thơng qua cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa, chúng ta đã tập trung phát triển các ngành, các
lĩnh vực trọng yếu tạo nền tảng cho phát triển bền vững, vừa đáp ứng nhu cầu trong nước trên
mọi tình huống, vừa bảo đảm cho xuất khẩu. Nguồn lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ được thu hút cả trong nước và ngồi nước, kết hợp hài hịa
giữa ngoại lực và nội lực, trong đó phát huy mạnh mẽ nội lực.
Sau đây là một số nội dung cơ bản về quan điểm tồn dân trong việc thực hiện nhiệm vụ
cơng nghiệp hố của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Đảng ta
hiện nay. Thứ nhất đó là tin dân, dựa vào dân để tiến hành cơng nghiệp hố là một ngun tắc
cơ bản trong đường lối chính trị của Hồ Chí Minh. Với Hồ Chí Minh, tin dân, dựa vào dân
khơng phải là một sách lược chính trị trong đấu tranh giải phóng dân tộc mà là vấn đề chiến


lược trong suốt quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, mà nhiệm vụ trung tâm là thực hiện cơng nghiệp hố được Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: "Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành cơng nghiệp làm ra mấy, ra gang,
thép, than, dầu... Đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp hoá nước nhà",
và "chúng ta phải phấn đấu cho nền cơng nghiệp mau lớn mạnh, cho cơng nghiệp hố xã hội
chủ nghĩa thành công như đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng". Thứ hai,
nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cơng nghiệp hố. Từ sự phân tích trên,
Hồ Chí Minh nêu quan điểm "cơng tư đều lợi", "chủ thợ đều lợi" trong thời kỳ quá độ và khi
Người nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh vẫn đồng thời khẳng định thành phần
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể "là lực lượng cần thiết cho xây dựng kinh tế nước nhà".
Thứ ba, qn triệt quan điểm Hồ Chí Minh và cơng nghiệp hố là sự nghiệp của tồn dân sự
nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vận dụng tư tưởng chiến lược đại đồn kết dân tộc Chủ
tịch Hồ Chí Minh vào nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là tiến hành cơng nghiệp hố,

hiện đại hố đất nước, Đảng ta khẳng định: "Trong những nǎm tới, cần động viên mọi tiềm
nǎng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hoá, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của kế hoạch 5 nǎm phát triển kinh tế- xã hội
1996-2000".
Như đã nhắc đến trước đó, cơng nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của quá trình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội của
đất nước lên trình độ mới. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, cơng
nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp. Trên cơ sở tổng kết công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm
vụ mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”6. chỉ cần lấy ý từ đh
13 ra thôi.
Đến nay, lịch sử nhân loại đã chứng kiến bốn cuộc cách mạng công nghiệp, cũng là các
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật nói chung. Cuộc thứ nhất, vào cuối thế kỷ XVIII, khai sinh
ra nền cơng nghiệp cơ khí, tạo ra dây chuyền sản xuất hàng loạt, sản xuất hàng hóa, kinh tế thị
6 Toàn văn Nghị Quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng - trích Điều 1 của Các đột phá chiến lược


trường… Cuộc thứ hai diễn ra vào cuối thế kỷ XIX, đưa đến sự ra đời của nền công nghiệp và
xã hội điện khí hóa; tạo tiền đề để chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh lên độc quyền
đế quốc. Cuộc thứ ba, vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, mở ra thời đại điện tử hóa, tin học
hóa. Cuộc thứ tư, từ đầu thế kỷ XXI, đánh dấu bước ngoặt chuyển đổi số của toàn bộ đời sống
vật chất và tinh thần của con người. Mỗi cuộc cách mạng tạo ra một trình độ cơng nghệ ngày
càng hiện đại cho q trình cơng nghiệp hóa lâu dài của nhân loại. Để tiến lên trình độ cơng
nghiệp hóa ngày càng cao, mỗi quốc gia nhất thiết phải có một số ngành xản xuất cơng nghiệp
nền tảng, mà thiếu chúng thì khơng thể triển khai các ngành công nghiệp khác.
Trong mối quan hệ tác động qua lại với q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa, nguồn
lực con người ln giữ vị trí, vai trị quyết định. Mặt khác, nguồn lực con người cũng không
ngừng biến đổi, phát triển dưới tác động của quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển nguồn lực con người Việt Nam là một yêu cầu khách quan trong q trình cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, những giải pháp do
con người đề ra cho phép điều chỉnh và giải quyết các mâu thuẫn phát sinh, cũng như dự báo
những nguy cơ, hậu quả có thể xảy ra và khuynh hướng phát triển trong tương lai để từ đó thúc
đẩy q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên. Ngoài ra, con người vừa là chủ thể vừa
sản phẩm của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giữa cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển nguồn lực con người có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ nhau, trong đó nguồn lực con
người ln giữ vị trí, vai trị quyết định trình độ, tốc độ phát triển của tiến trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Từ thực tế cho thấy, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ khơng bao
giờ thành cơng nếu thiếu nguồn lực con người với số lượng và chất lượng ngày càng cao. Bởi
chính con người là lực lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung, hình
thức, bước đi và những giải pháp thích hợp để tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cuối
cùng, phát triển nguồn lực con người là vấn đề chiến lược hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta
nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhận thức rõ vai
trị có ý nghĩa quyết định của nguồn lực con người và tiềm năng to lớn của con người Việt
Nam, tại các kỳ Đại hội VIII, IX và các Hội nghị Trung ương, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhiều lần khẳng định: “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của tồn dân”, “Nâng cao
dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định


thắng lợi của cơngcuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Chính vì vậy, phát triển mạnh nguồn
lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao là vấn đề có tính chiến lược trong cơng
cuộc đổi mới và là yêu cầu cấp bách cho sự phát triển nhanh và bền vững sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
2.2. Quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
Trong nội dung này cần làm rõ quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam qua các
giai đoạn cụ thể sau:
2.2.1 Lực lượng sản xuất ở Việt Nam trước năm 1986
Sau cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài, kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay lại càng
gặp nhiều khó khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp kém và chưa có điều kiện

phát triển, đặc biệt là vào giai đoạn trước năm 1986. Nhìn chung, với nhiều yếu tố khách quan
và chủ quan đã làm cho đất nước ta lâm vào khủng hoảng vào năm 1979, và một trong những
ngun nhân đó chính là sự nóng vội trong chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa và quan hệ sản
xuất đã dẫn đến nhiều hạn chế và khuyết điểm, nhất là về cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý. Từ
đó, quan hệ sản xuất đã làm cho nền kinh tế trì trệ, kém phát triển và không thể mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển. Trước những chuyển biến trên, tình hình lực lượng sản xuất ở
Việt Nam nước ta lúc bấy giờ có sự tuột dốc rất lớn. Trước hết, trình độ người lao động rất
thấp, hầu hết khơng có chun mơn tay nghề, phần lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động
Việt nam chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm mà cha
ông để lại. Trường dạy nghề rất hiếm, chủ yếu chỉ xuất hiện ở Hà Nội, Sài Gịn,….Tại những
đơ thị lớn, trình độ của người lao động cao hơn các vùng khác trong cả nước. Thứ hai, tư liệu
sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này cịn thơ sơ, lạc hậu. Là một nước
nơng nghiệp thế nhưng công cụ lao động chủ yếu là cày, cuốc, sử dụng sức người là chủ yếu,
trong công nghiệp máy móc thiết bị cịn ít và rất lạc hậu. Bên cạnh đó, phát triển cơng cụ lao
động giữa các vùng, miền cũng có sự khác nhau. Nhìn chung trước trước Đổi Mới lực lượng
sản xuất ở Việt nam thấp kém, lạc hậu và phát triển không đồng đều.
Trong hồn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã hôi
chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành phần kinh tế: thành
phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu


tập thể của nhân dân lao động. Nhà nước không thừa nhận yếu tố kinh tế tư bản như là các
thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, đã phân định tách
bạch thuần khiết chế độ sở hữu và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, phi xã hội chủ nghĩa,
tuyệt đối hóa vai trị của chế độ cơng hữu, dẫn đến chủ trương cải tạo, sớm xóa bỏ các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã nhấn mạnh thái q vai trị “tích cực” của quan hệ sản xuất,
dẫn đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự phát triển
lực lượng sản xuất. Có những nơi nơng dân bị bắt ép đi vào các hợp tác xã, mở rộng nơng
trường quốc doanh mà khơng tính đến lực lượng sản xuất cịn rất lạc hậu. Người lao động

khơng được chú trọng về cả trình độ và thái độn lao động, đáng ra là chủ thể của sản xuất
nhưng lại trở nên thụ động trong cơ chế quan liêu bao cấp. Nước ta quá nhấn mạnh sở hữu tư
liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa, cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, từ
đó người lao động bị biệt lập với đối tượng lao động. Quan hệ sản xuất lên quá cao, tách rời với
lực lượng sản xuất. Hậu quả là sản xuất bị kìm hãm, đời sơng nhân dân đi xuống nhanh chóng.
Đến cuối năm 1985, năng suất lao động quá thấp, kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
2.2.2. Lực lượng sản xuất ở Việt Nam từ 1986 đến nay
Nhờ chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước tại Đại hội Đảng lần thứ VI,
đất nước ta đã thành công rực rỡ, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Đại hội lần thứ VI có
thể nói là một dấu mốc quan trọng cho sự nghiệp đổi mới hoàn toàn đất nước. Tại Đại hội
Đảng, Đảng ta đã nhận ra những sai lầm, khuyết điểm trong quá khứ, chủ trương đổi mới
phương thức điều hành nền kinh tế, đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, thực hiện sứ mệnh phát
triển kinh tế. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều quy luật, đặc thù và đặc điểm, được nhìn nhận và xử lý
trong thực tiễn, dựa trên những nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Mối quan hệ giữa luật
pháp với lực lượng sản xuất và điều kiện sản xuất vẫn là một câu hỏi cơ bản và quan trọng của
chính sách kinh tế.
Đảng và nhà nước đã tập trung phát triển mạnh mẽ về sản xuất theo chủ trương cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá theo Nghị quyết Trung ương 7 khoá XII (1994) đề ra, đất nước chuyển


sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(1996) lấy Chiến lược phát triển Khoa học và Công nghệ, Chiến lược Giáo dục và Đào tạo là
quốc sách lớn. Năng lực sản xuất đang phát triển mạnh mẽ và Chính phủ Việt Nam đặt mục
tiêu trở thành nước công nghiệp cơ bản theo hướng hiện đại vào năm 2030. Sự phát triển của
công nghệ thông tin, đặc biệt là ứng dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo điều
kiện cho hội nhập quốc tế và phát triển lực lượng sản xuất quy mô lớn, chất lượng cao và hiệu
quả.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung Ương khóa XII đã thông qua Nghị quyết về phát

triển khu vực kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Khu vực tư nhân gắn liền với quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Làm
thế nào để nhà nước quản lý khu vực kinh tế tư nhân và đảm bảo sự liên kết phù hợp với các
chủ nghĩa xã hội, về lý luận và thực tiễn, điều quan trọng là phải làm rõ tiến trình sản xuất theo
các giai đoạn phát triển của năng suất là. Liên quan đến sản xuất, hệ thống quản lý của mỗi
cơng ty và vai trị quản lý, điều hành của nhà nước là những vấn đề lớn cả về mặt lý luận và
thực tiễn. Mối quan hệ giữa quốc gia và thị trường cũng cần được làm rõ trong mối quan hệ với
sản xuất.
Đảng và nhà nước nhanh chóng xác định khâu đột phá chiến lược nhằm hoàn thiện hệ
thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và cải cách hành chính. Phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện
đại. Những đột phá chiến lược này giống như những đỉnh cao trong việc phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng và hoàn thiện các mối quan hệ sản xuất. Chỉ những nhân tài có tay nghề
cao mới có thể làm chủ khoa học công nghệ một cách tin cậy trong thời đại cách mạng 4.0 và
nâng cao năng suất lao động. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất vừa là quy luật, vừa là chủ đề cơ bản trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì thế, Nhà nước đã mở rộng hệ thống dạy họ trên toàn nước.
Đại hội 13 ??


Tên tiêu đề 2.3 đâu?
2.3.1. Vai trò của người lao động
Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện,
nhưng chủ yếu và quan trọng nhất là con người. Nhận định trên càng đúng với hoàn cảnh nước
ta trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay. Kể từ khi lên nắm chính
quyền, giai cấp công nhân nước ta đã trải qua một sự chuyển biến to lớn, từ làm thuê cho tư
bản, đế quốc sang làm chủ nhà nước. Giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ về số lượng, cơ
cấu, trình độ, kỹ năng, bản lĩnh chính trị, ... thể hiện và khẳng định địa vị giai cấp địa chủ, góp
phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng xã hội Việt
Nam bảo vệ vững chắc Tổ quốc dân chủ cộng hòa. Trong thời kỳ mới, cơng nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, tham gia tồn cầu hóa, cách mạng cơng nghiệp 4.0, vai trị
của giai cấp cơng nhân Việt Nam tiếp tục được thể hiện ở:
Một là giai cấp công nhân nước ta được duy trì và phát triển hoạt động sản xuất, sản xuất ra
khối lượng lớn sản phẩm cơng nghiệp, đóng góp đáng kể vào ngân sách quốc gia, góp phần
quan trọng vào thành cơng kinh tế, có vai trò quan trọng trong lịch sử trong 35 năm đổi mới
thành công. Khi bắt đầu công cuộc Đổi mới, khu vực kinh tế nước ta, đặc biệt là khu vực cơng
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Giai cấp cơng nhân khơng ngừng khắc phục khó khăn, duy trì
và phát triển hoạt động sản xuất, từng bước thích ứng với cơ chế quản lý mới, nâng cao năng
suất lao động, sản xuất ra lượng lớn sản phẩm, góp phần chống lại sự yếu kém của ngân sách
nhà nước. Công nhân là công nhân trực tiếp sản xuất. Giá trị ngành cơng nghiệp tăng lên hàng
năm, chủ yếu đóng góp vào giá trị Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và bao gồm cơng sức, trí tuệ
của giai cấp cơng nhân đã góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử hơn 35
năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Hai là giai cấp công nhân nước ta đã và đang phát huy hiệu quả vai trò là giai cấp lãnh đạo
cách mạng. Thực hiện đường lối đổi mới tồn diện đất nước, giai cấp cơng nhân nước ta phải
đối mặt với mn vàn khó khăn, thách thức chưa từng có trong cơng cuộc chuyển đổi mạnh
mẽ, toàn diện từ xây dựng, phát triển kinh tế sang phát triển kinh tế quốc gia nói chung và phát
triển kinh tế thương mại theo mơ hình hành chính nói riêng, tập trung bao cấp nhằm xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một nhiệm vụ khó và


mới, nhưng tác phong và lề lối làm việc của cơng nhân cịn chịu ảnh hưởng của cơ chế quản lý
và bao cấp tập trung. Nhưng giai cấp công nhân, giữ vững truyền thống cách mạng, kiên
cường, bất khuất và tiên phong, đã ln khẳng định mình và chứng tỏ mình là giai cấp đi đầu
của cách mạng nước ta trong tình hình mới. Điều này được Đảng ta khẳng định tại Hội nghị
Trung ương 6 khóa X: giai cấp công nhân nước ta “Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam” 7.
Ba là giai cấp công nhân nước ta đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp công
nhân ngày càng lớn mạnh là nhân tố then chốt làm sâu sắc hơn công cuộc Đổi mới và đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong suốt chiều dài lịch sử, giai cấp công nhân luôn

là mũi nhọn của cách mạng Việt Nam và góp phần tơ dậm thêm những truyền thống vẻ vang
của đất nước. Hơn hết, giai cấp công nhân Việt Nam đã lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng
sau 35 năm phục hưng, có mặt trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế và là lực lượng quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp.
Bốn là giai cấp công nhân nước ta luôn là đội tiên phong xây dựng chủ nghĩa xã hội, là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Năm là giai cấp công nhân nước ta “là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng” . Trên thực tế, quan
hệ giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức đã hình thành khối liên minh giữa giai cấp cơng nhân,
nơng dân và trí thức. Phát triển kinh tế gắn với kinh tế tri thức theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đã thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác, liên minh, liên minh giữa
cơng nhân, trí thức và nơng dân. Kết quả là, các nhóm ranh giới xã hội đan xen hình thành và
phát triển giữa cơng nhân và trí thức, giữa cơng nhân và nông dân. Các khu công nghiệp, khu
xuất khẩu, khu công nghệ cao thúc đẩy sự hợp tác, liên minh, kết nối giữa các tầng lớp xã hội.
Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu, số lượng, chất lượng đội ngũ
lao động và tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

7 Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X (2008), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.43-44


Sáu là giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội rộng lớn, trực tiếp của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tham gia hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng. Trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội theo mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, giai cấp công
nhân nước ta là đội tiên phong do Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo. Vì vậy,
rất thuận lợi cho giai cấp công nhân tham gia vào công tác xây dựng đảng. Đồng thời, với xu
thế ngày càng cao về số lượng và chất lượng, giai cấp công nhân là nguồn lực dồi dào để đảng
cung cấp ngày càng nhiều đảng viên lao động, đồng thời cũng là công cụ quan trọng để khẳng
định bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Tăng cường số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ
giai cấp công nhân, Đảng sẽ được bổ sung sức mạnh của đội ngũ đảng viên có trình độ, bản

lĩnh chính trị vững vàng, có kỷ luật, tác phong cơng nhân hiện đại ... từ đó, điều quan trọng
Thông qua hoạt động trực tiếp của các đảng viên là công nhân trong các doanh nghiệp, các
ngành, các lĩnh vực góp phần đảm bảo sự lãnh đạo chung của Đảng trong tình trạng hiện nay,
góp phần nâng cao bản lĩnh giai cấp cơng nhân.
Viết lại
2.3.2. Vai trị của tư liệu sản xuất:
Theo Các – Mác tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối
tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất được con người sử dụng những tư liệu
khác tác động lên nhằm biến đổi để phù hợp hơn với nhu cầu cũng như mục đích sử dụng của
con người. Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người sử dụng để tạo
ra những sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất bằng cách biến đổi đối tượng lao động.
Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động và phương tiện lao động. Phương tiện lao động
là yếu tố vật chất của sản xuất, phương tiện lao động cùng với đối tượng lao động được sử dụng
nhằm mục đích tác động lên đối tượng lao động trong việc sản xuất vật chất. Công cụ lao động
là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để có thể tác động vào đối tượng
lao động nhằm biến đổi chúng và dựa vào đó tạo ra của cải, vật chất phục vụ nhu cầu thiết yếu
của con người và xã hội. Hiện nay, công cụ lao động cũng chính là yếu tố vật chất trung gian
truyền dẫn giữa người lao động và đối tượng lao động trong q trình sản xuất. Tư liệu lao
động có vai trị phục vụ q trình sản xuất. Mặc dù có nhiều ý nghĩa và vai trò khác nhau



×