Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Luận văn hoạt động giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc việt nam và các tổ chức chính trị xã hội tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 111 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị- xã hội đã có vai trị rất quan trọng trong việc động viên, tập hợp
các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm, đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong sự hình thành, xây dựng và củng cố
Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã
hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát,
phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân
dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [59].
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đề ra nhiệm vụ: Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phát huy vai trị nịng cốt tập
hợp, đồn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực
hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước
trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các
tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại [14, tr.246].
Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân, do một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo, thì việc
1


phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong hoạt động giám sát và phản


biện xã hội. Phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân
cử và cán bộ, công chức nhà nước, tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để
phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước. Có thể nói vấn đề giám sát và phản
biện xã hội là trách nhiệm vô cùng to lớn đối với dân, với Đảng, thông qua hoạt
động giám sát, sẽ góp phần nâng cao vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội trong việc xây dựng, tập hợp khối đại đoàn kết dân
tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của
Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân…
Với trọng trách to lớn ấy, trong thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh đã ln chủ động thực hiện vai trị giám sát
thơng qua việc tham gia với Đồn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng
nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát các lĩnh vực của đời
sống xã hội như: việc tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán, Kiểm sát viên; giám sát
công tác xét đặc xá. Động viên nhân dân thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở;
củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động Ban Thanh tra nhân dân, Ban
giám sát đầu tư của cộng đồng ở xã, phường, thị trấn; tổng hợp kiến nghị của
nhân dân để phản ánh cho các cơ quan có thẩm quyền xem xét xử lý. Giám sát
công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp; tổ chức các đoàn
giám sát việc chấp hành thực hiện pháp luật ở một số cơ quan, đơn vị; việc giải
quyết khiếu nại tố cáo của cơng dân… Qua đó, đã góp ý, kiến nghị cho các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khắc phục các hạn chế thiếu sót trong cơng tác điều hành,
quản lý nhà nước và việc chấp hành pháp luật ở địa phương. Trong hoạt động
phản biện xã hội, MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội tỉnh đã tham gia góp ý,
2


kiến nghị đối với dự thảo một số dự án luật; chủ trương chính sách, chương
trình, dự án của HĐND, UBND; dự thảo văn kiện của Đảng, đề án nhân sự trước

các kỳ đại hội của tổ chức đảng các cấp. Kiến nghị với các cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền điều chỉnh một số chính sách liên quan trực tiếp tới quyền lợi của
người dân và cán bộ ở cơ sở, khối xóm...
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế, hoạt động giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh vẫn còn
nhiều hạn chế. Việc xác định nội dung, hình thức cịn lúng túng, chất lượng
giám sát và phản biện chưa đáp ứng được yêu cầu và sự mong đợi của nhân
dân. Hoạt động giám sát và phản biện xã hội trong thực tế cịn hình thức, hiệu
quả pháp lý chưa cao, chủ yếu mới thể hiện qua các phát hiện, nêu ý kiến nhẹ
nhàng tại các kỳ họp, phiên họp của các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng
giám sát, chưa có phương thức giám sát đúng nghĩa, phản biện chưa được
quan tâm thực hiện thường xuyên, liên tục. Để nâng cao chất lượng giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
tỉnh Phú Yên đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn hiện nay, tôi xin chọn đề
tài: “Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Phú Yên” để làm đề tài luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Quản lý cơng nhằm nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng tổ
chức hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Phú Yên trong thời gian qua, đồng thời
tìm ra các giải pháp để tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơng tác này trong thời
gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quán triệt quan điểm của Đảng về hoạt động giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, cho đến nay
Nhà nước đã ban hành một số văn bản làm cơ sở pháp lý để Mặt trận Tổ quốc
3


Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện hoạt động này. Tuy nhiên,
đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, chuyên sâu và có

hệ thống về hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội ở tỉnh Phú Yên. Có thể kể đến một số cơng trình
khoa học, chun đề nghiên cứu về vấn đề này như:
- Nguyễn Thọ Ánh, Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2012. Tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đề xuất quan điểm và các giải pháp tổ
chức thực hiện chức năng này [1].
- Tác giả Nguyễn Trọng Cảnh Thực hiện chức năng giám sát xã hội của
Mặt trận Tổ quốc tỉnh Phú Yên hiện nay, Luận văn thạc sĩ chính trị học, năm
2012.
- Trương Quốc Chính, Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam theo
quan điểm macxit, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013.
- Tác giả Huỳnh Đảm với bài viết Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết XI
của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 829, năm 2011. Bài viết này đã góp phần đưa ra
định hướng cho tác giả luận văn trong quá trình đưa ra các giải pháp để thực hiện
tốt hơn hoạt động giám sát của Mặt trận.
- Vũ Thị Như Hoa, Nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ chính trị học, năm 2013.
Đây là cơng trình nghiên cứu từ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề phản biện
xã hội và tiêu chí đánh giá chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Khảo sát, phân tích thực trạng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ

4


yếu nhằm nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
giai đoạn hiện nay [18].

- Tác giả Thanh Khiết Tìm hiểu về cơng tác giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội, cổng thông tin điện tử
tỉnh An Giang, năm 2015.
- Nguyễn Thị Hiền Oanh, Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận
Chính trị, Hà Nội, năm 2006. Tác giả nghiên cứu vấn đề lí luận và thực tiễn về
mặt trận và cơng tác Mặt trận ở nước ta hiện nay như: vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; Phương hướng, giải pháp
để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy được quyền làm chủ ấy [54].
- Các tác giả Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên),
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội,
năm 2007.
- Tác giả Nguyễn Văn Pha với bài Để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực
hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, tạp chí xây dựng Đảng số 1,2 năm
2016.
- Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (chủ biên), Nguyễn Thị Hồng
Diễm, Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, năm 2009. Nhóm tác giả đã trình bày khái niệm, bản chất, đặc điểm,
chủ thể, khách thể, đối tượng, nguyên tắc và phương thức của phản biện xã hội.
Vấn đề phản biện xã hội trong nền dân chủ pháp quyền ở Việt Nam nói chung và
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng [71].

5


- Tác giả Nguyễn Văn Thanh, Thực hiện chức năng giám sát của Mặt trận
Tổ quốc đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay, Luận
văn Thạc sĩ chính trị học, năm 2003.

- Tác giả Nguyễn Đức Thành với bài Hoạt động giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể - nhìn từ thực tiễn tỉnh Nghệ An, tạp
chí Mặt trận, số 108, tháng 10/2012.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ việc phân tích thực trạng hoạt động giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Phú
Yên, đề xuất một số giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng của hoạt động này ở
địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và phản biện XH tại
tỉnh Phú Yên trong thời gian qua, làm rõ những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân
hạn chế
- Đề xuất một số giải pháp để thực hiện tốt hơn hoạt động giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội tỉnh Phú Yên.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

6


- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về hoạt động giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh
Phú Yên từ khía cạnh quản lý công (các hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và tổ

chức Chính trị - xã hội là những thành tố quan trọng của quản lý công .
- Về thời gian: Đề tài đánh giá hoạt động giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Phú Yên giai
đoạn 2013 – 2017, định hướng 2025. Rút ra những kinh nghiệm trong công tác
tổ chức thực hiện và đề ra các giải pháp hoàn thiện hơn cho giai đoạn tiếp theo.
- Về không gian: Đề tài đánh giá hoạt động giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 05 tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh
Phú Yên
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về vai trị của quần chúng
nhân dân trong lịch sử, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; Phương pháp luận chủ yếu được sử
dụng là những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp logic - lịch sử.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp khảo sát và tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

7


- Luận văn góp phần hệ thống lại một số nội dung lý luận và thực tiễn làm
cơ sở cho việc nâng cao nhận thức về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
- Có thể làm tài liệu tham khảo cho một số cơ quan hữu quan triển khai

thực hiện có hiệu quả hơn hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Phú Yên.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập cho
giảng viên, học viên Học viện HCQG và những cơ sở đào tạo có chuyên ngành
gần với nội dung của luận văn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội tỉnh Phú Yên

8


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN
XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC TỔ CHỨC
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
1.1. Tổ chức chính trị - xã hội
1.1.1. Tính chất, vị trí, vai trị
1.1.1.1. Tính chất của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội trong hệ thống chính trị nước ta
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là các tổ chức quần
chúng của Đảng, là công cụ để tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng
trong các tầng lớp nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội

cịn là người đại diện cho ý chí, tiếng nói của quần chúng nhân dân, bảo vệ lợi
ích hợp pháp và quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Do vậy tổ chức
và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải dựa trên
ý chí, nguyện vọng của quần chúng, đáp ứng các yêu cầu, lợi ích của các tầng
lớp nhân dân. Để phục vụ tốt các mục tiêu chính trị, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội trước hết phải phục vụ tốt lợi ích của các thành viên của
mình, phải thật sự trở thành một tổ chức tự nguyện của nhân dân, hoạt động phù
hợp với các yêu cầu của đời sống xã hội, phát triển đất nước nhanh bền.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
ở nước ta là những thiết chế tổ chức vừa mang tính chính trị, vừa mang tính xã
hội và tính nhân dân.
Tính chính trị của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
+ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng sản
Việt Nam sáng lập và lãnh đạo. Các tổ chức này là hình thức chính trị để Đảng

9


tập hợp quần chúng, vận động, giáo dục và thu hút các lực lượng xã hội vào các
phong trào cách mạng, để giải quyết các nhiệm vụ chính trị của Đảng.
+ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là các tổ chức thực
hiện đường lối chính trị của Đảng trong các tầng lớp nhân dân. Các tổ chức này
có nhiệm vụ, chức năng là đưa đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn
hoạt động thơng qua các hình thức tập hợp quần chúng đặc thù.
+ Trong mối quan hệ với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội tuy không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước, nhưng lại có
vai trị chi phối, tác động rất lớn đến quá trình thực hiện quyền lực nhà nước.
Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện vai trò
kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, công chức nhà nước.
+ Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tính chính trị được xác định rõ nét

trong quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị.
Tính chất xã hội và tính nhân dân của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội
+ Mặt trận Tổ quốc là tổ chức tập hợp các tổ chức quần chúng, là diễn đàn
để đoàn kết và hiệp thương ý chí của các tổ chức quần chúng nhân dân.
+ Cơng đồn, Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ
nữ, Hội Nơng dân, Hội Cựu chiến binh là các tổ chức tự nguyện, tập hợp, đồn
kết và đại diện cho tiếng nói, ý chí, lợi ích của các đồn viên, hội viên trước
Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác. Đồng thời, các tổ chức chính trị - xã hội
này là tổ chức bảo vệ lợi ích hợp pháp, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
của các đoàn viên, hội viên, vì sự phát triển của cộng đồng và xã hội.
1.1.1.2. Vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội trong hệ thống chính trị nước ta
Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức quần chúng do Đảng ta thành lập và lãnh
10


đạo, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ln giữ một
vị trí, vai trị quan trọng. Ở mỗi một giai đoạn cách mạng, kể cả lúc thăng trầm
hay cao trào, lúc chưa có chính quyền và trong điều kiện giành được chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đều là các thành viên
chiến lược quan trọng trong hệ thống chính trị. Vị trí này xuất phát từ yếu tố sau:
Thứ nhất, Mặt trận ngày nay là sự kế tục truyền thống, kinh nghiệm quý
báu của Mặt trận dân tộc thống nhất trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc cũng như truyền thống của nền chính trị dựa vào sức mạnh của nhân dân. Vị
trí của Mặt trận trong giai đoạn hiện nay thực sự là đòi hỏi khách quan của sự
nghiệp đổi mới, đặc biệt là yêu cầu phát huy bản chất, nâng cao sức mạnh của hệ
thống chính trị để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy, công
cuộc đổi mới đất nước từ 1986 đến nay đã tạo ra những tiền đề thực tiễn rất mới

mẻ. Cùng với quá trình tranh thủ nội lực, phát huy sức mạnh toàn dân, tư duy
mới về chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vấn đề phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân
dân để thực hiện mục tiêu chính trị mà Đảng ta đề ra, trở thành yêu cầu, đòi hỏi
bức xúc trong việc xác lập vị trí, vai trị của Măt trận. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền
thống đồn kết, tăng cường nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân,
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm
chủ, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên
chức Nhà nước.
Thứ hai, xét về lý luận và thực tiễn, nếu trong hệ thống chính trị khơng có
Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thì khơng cịn là tổng thể các lực lượng
chính trị được vận hành trong cơ cấu ổn định và cũng có nghĩa là khơng cịn tổng
thể các quan hệ chính trị để đảm bảo cơ chế vận hành của cả hệ thống chính trị
nhằm phát huy quyền lực nhân dân. Điều này một mặt làm suy yếu vai trò lãnh
11


đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước; khơng có cơ chế để kiểm sốt xu
hướng quan liêu hoá, lạm quyền và những tiêu cực khác trong bộ máy Nhà nước;
hạn chế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân và gây ra nhiều khó khăn
khác cho hoạt động của hệ thống chính trị. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay,
trước những quan hệ chính trị - xã hội phức tạp, nhạy cảm của các tổ chức, giai
cấp, dân tộc, tôn giáo, nếu chỉ đơn thuần giải quyết bằng thể chế, pháp luật của
Nhà nước mà thiếu những biện pháp vận động, thuyết phục, hoà giải, tuyên
truyền, hiệp thương của Mặt trận và các đồn thể thì hiệu quả tập hợp lượng
nhân dân khơng cao. Do đó, vị trí của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị xét dưới góc độ khoa học và quan hệ cơ cấu xã hội là
một tất yếu khách quan.
Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống

chính trị cịn là trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc trưng cơ bản
của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính
nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Mọi mục tiêu, cương lĩnh, nguyên tắc hoạt
động của Mặt trận đều thể hiện đậm nét những đặc trưng này. Do đó, nếu thiếu
vắng Mặt trận thì đặc trưng của hệ thống chính trị sẽ chỉ tồn tại trên danh nghĩa,
hoặc sẽ bị méo mó.
1.1.1.3. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị nước ta
Với tư cách là một yếu tố cấu thành quan trọng trong hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tất
yếu sẽ có vai trị to lớn trong hệ thống chính trị.
Thứ nhất, vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Trong thực tế lãnh đạo, có lúc, có nơi do nhiều nguyên nhân khác nhau
“Đảng chưa đáp ứng được nhu cầu trong việc giải quyết nhiều vấn đề kinh tế-xã
12


hội, trong phong cách lãnh đạo và cả trong rèn luyện phẩm chất cán bộ đảng
viên” [13, tr.123]. Tăng cường sức mạnh của Đảng trên cơ sở khắc phục những
hạn chế, khiếm khuyết trong tổ chức và hoạt động của Đảng là yêu cầu cấp bách,
khách quan trong tình hình hiện nay. Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội
thơng qua hoạt động của mình đã góp phần phát huy sức mạnh bộ máy tổ chức
Đảng. Vận động tồn thể nhân dân phát huy tích cực chính trị của mình trong
việc xây dựng và bảo vệ Đảng; giám sát hoạt động của cấp uỷ Đảng tại địa
phương để kịp thời phát hiện những sai sót, khiếm khuyết của cấp uỷ Đảng trong
công tác lãnh đạo của địa phương; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện
các cuộc vận động lớn của Đảng nhằm xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao uy
tín của Đảng trong đời sống chính trị xã hội; phát hiện và bồi dưỡng những quần
chúng ưu tú, tích cực, có năng lực giới thiệu cho Đảng tiến hành kết nạp để tăng

số lượng và chất lượng công tác phát triển đảng viên mới của Đảng.
- Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trị quan trọng trong việc
góp phần xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng: Mặt trận và các tổ
chức chính trị - xã hội phản ánh ý kiến của nhân dân về các vấn đề bức xúc trong
đời sống xã hội cho Đảng để Đảng kịp thời đề ra những chủ trương, chính sách
hợp lý trong q trình lãnh đạo nhằm giải quyết có hiệu quả.
- Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội góp phần đưa đường lối, chính
sách, các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống: Thơng qua các hình thức như in
ấn phổ biến các tài liệu, thông qua hệ thống cơ quan truyền thông của Mặt trận,
các tổ chức chính trị - xã hội, thơng qua các cuộc thi tìm hiểu, các diễn đàn nhân
dân... Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội tích cực phổ biến chủ trương,
chính sách, các nghị quyết của Đảng vào đời sống nhân dân, phối hợp với chính
quyền vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, nghị quyết
của Đảng.

13


- Mặt trận là cơ sở quần chúng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với nhân
dân để làm cho Đảng ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhân dân.
Thứ hai, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vận động, tổ
chức nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ, tham gia xây dựng bộ máy Nhà
nước trong sạch, vững mạnh.
- Tham gia tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân góp phần nâng
cao sức mạnh của cơ quan quyền lực Nhà nước.
- Tham gia vào hoạt động tư pháp của Nhà nước phát huy sức mạnh của
cơ quan tư pháp.
- Tham gia vào hoạt động hành pháp của Nhà nước, phát huy sức mạnh
của hệ thống các cơ quan quản lý hành chính.
Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vận động, tổ

chức nhân dân thực hiện quyền làm chủ, tham gia xây dựng chính sách, pháp
luật.
Mặt trận Tổ quốc phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội động viên các
tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, thông qua các Hội nghị nhân dân,
tiếp xúc cá nhân, tổ chức nhân dân đóng góp ý kiến tham gia sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp, các văn bản luật và các văn bản dưới luật các dự thảo… góp phần
xây dựng pháp luật. Thông qua các kỳ họp của Hội đồng nhân dân, phiên họp
của Uỷ ban nhân dân để kiến nghị, thảo luận đóng góp ý kiến và các chính sách,
kế hoạch của Nhà nước cũng như chính sách kế hoạch của chính quyền địa
phương phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Thứ tư, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vận động, tổ
chức nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ, tham gia giám sát Nhà nước.
Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội phát hiện những việc làm sai trái
của các cơ quan Nhà nước như vi phạm các quyết định về quản lý, về tự do, dân
chủ của công dân để báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
14


Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện cho Mặt trận Tổ quốc,
Thanh tra nhân dân giám sát việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân.
Thứ năm, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vận động các
tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào quần chúng cùng Nhà nước thực
hiện các chương trình phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững.
Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội tuyên truyền, phổ biến nhân dân
hiểu biết các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước để nhân dân thực
hiện tốt quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành các chủ trương, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Phối hợp cùng các cơ quan Nhà nước tổ chức thực hiện các
chính sách dân tộc, tơn giáo, chính sách vay vốn xố đói giảm nghèo, phối hợp
cùng Hội đồng nhân dân địa phương triển khai, thực hiện có hiệu quả Quy chế
dân chủ ở cơ sở. Tổ chức các cuộc vận động lớn trên quy mô cả nước thu hút sự

đồng tình của quần chúng nhân dân nhằm xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, xây dựng
đất nước giàu đẹp, văn minh như cuộc vận động Toàn dân đồn kết xây dựng
nơng thơn mới, đơ thị văn minh...
1.1.2. Quyền và trách nhiệm
1.1.2.1. Quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Điều 3, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định về quyền và trách
nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau:
- Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ,
tăng cường đồng thuận xã hội.
- Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
- Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
- Thực hiện giám sát và phản biện xã hội.

15


- Tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân để phản ánh,
kiến nghị với Đảng, Nhà nước.
- Thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân.
1.1.2.2. Quyền và trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội
Các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập nhằm đại diện, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Tham gia quản lý Nhà
nước, quản lý kinh tế- xã hội. Tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động
của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng,
phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuyên truyền, vận động, giáo dục đoàn
viên, hội viên, người lao động tuân thủ các quy định, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước

1.1.3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
1.1.3.1. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Điều 4, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định về nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau:
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp, pháp luật và Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện
theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành
động giữa các thành viên.
- Khi phối hợp và thống nhất hành động, các tổ chức thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời
vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình.
- Đảng cộng Sản Việt Nam vừa là tổ chức thành viên, vừa lãnh đạo Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
1.1.3.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội
16


Cơng đồn Việt Nam, Hội nơng dân Việt Nam, Đồn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là
các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức
mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất
hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.
1.2. Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội
1.2.1. Khái niệm giám sát và phản biện xã hội
1.2.1.1. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
Theo cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng:

Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức,
cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong
các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện Hiến pháp,
pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, các
quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức chính trị - xã hội và
kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với cá nhân, tổ chức có
những hành vi sai trái [13, tr.184].
Cần phân biệt một số hình thức giám sát
- Giám sát của Đảng: Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “…Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [59, tr.2]. Giám
sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Chủ thể giám sát là Ủy ban
kiểm tra các cấp. Đối tượng giám sát và cấp ủy cấp dưới và đảng viên. Nội dung
giám sát: ngoài việc giám sát đảng viên thực hiện Điều lệ Đảng và các quy định
của Đảng thì cịn giám sát cả đảng viên trong việc chấp hành chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
17


- Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân: là giám sát của các cơ
quan quyền lực nhà nước, hoạt động giám sát mang tính quyền lực nhà nước.
- Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khơng mang tính quyền lực
nhà nước, là giám sát mang tính nhân dân với cơ chế “theo dõi, phát hiện, kiến
nghị”.
Như vậy có thể nói giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội là việc quan sát, phát hiện, xem xét, kiến nghị với cơ quan
có thẩm quyền về hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước và cán bộ, công
chức, đảng viên trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật, các
chương trình, dự án, đề án và quy chế, quy định có hiệu lực của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền; việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, phẩm chất, đạo đức, lối
sống của cán bộ, công chức, đảng viên.

1.2.1.2. Phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
Phản biện là nhận xét, đánh giá, bình luận, thẩm định cơng trình khoa học,
dự án, đề án trong các lĩnh vực khác nhau. Phản biện xã hội là sự phản biện nói
chung, nhưng có quy mơ và lực lượng rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân và
các nhà khoa học về nội dung, phương hướng, chủ trương, chính sách, giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục, y tế, môi trường, trật
tự an ninh chung toàn xã hội… của Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan.
Phản biện xã hội là một hình thức phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền
làm chủ của nhân dân, ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia quản
lý nhà nước, góp ý kiến với cán bộ, cơng chức và các cơ quan nhà nước.
Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội là việc tham gia góp ý kiến đối với các dự thảo chủ trương, đường lối,
chính sách, quyết định lớn của Đảng; dự thảo các văn bản pháp luật của nhà
nước, một số cơng trình, dự án sẽ được thực thi ở địa phương. Phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được thực hiện
18


một cách khoa học, mang tính thuyết phục cao và được sự đồng thuận của xã hội
do ý kiến phản biện được tập hợp từ các tầng lớp nhân dân, ý kiến của các
chuyên gia, nhà khoa học, của người có chun mơn về lĩnh vực được đưa ra
phản biện.
1.2.2. Mục đích, tính chất, nguyên tắc
1.2.2.1. Mục đích, tính chất của giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Giám sát nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chương trình
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện
những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính
sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong

sạch, vững mạnh.
Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội là động thái cơ bản để Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan chú ý
lắng nghe tiếng nói của người dân (và các thiết chế của nhân dân) khi ban hành
các quyết định, nhất là các vấn đề trọng đại của quốc kế dân sinh, hoặc liên quan
trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Nhằm phát hiện những nội dung còn
thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ
quan Đảng, Nhà nước; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm
tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc
hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường
đồng thuận xã hội. Phản biện xã hội là phương thức quan trọng để đạt được đồng
thuận xã hội giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

19


Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội là phương thuốc hữu hiệu để chữa trị các căn bệnh của người cầm quyền,
như quan liêu, tham nhũng, tệ bè phái, dối trá, lối sống cơ hội… Tính chất phản
biện sẽ như những liều vắc xin có tác dụng phịng ngừa, hạn chế sự tha hóa
quyền lực, hoặc sự độc đốn, chun quyền. Mặc khác là “kênh” trao đổi thơng
tin hữu hiệu giữa các thiết chế quyền lực với nhân dân, tạo ra sức mạnh dân tộc
trong điều kiện mới.
1.2.2.2. Nguyên tắc của giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
Theo Điều 3, Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội quy định các nguyên tắc sau:
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, Điều
lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Điều lệ các đồn thể chính trị - xã hội.
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn
thể chính trị - xã hội với các cơ quan, tổ chức có liên quan; khơng làm trở ngại

các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát và phản biện xã hội.
- Bảo đảm dân chủ, cơng khai, khách quan và mang tính xây dựng.
- Tôn trọng các ý kiến khác nhau, nhưng không trái với quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của thành viên, đồn viên, hội viên, lợi ích quốc gia, dân
tộc.
1.2.3. Nội dung, đối tượng, phạm vi giám sát và phản biện xã hội
1.2.3.1. Đối tượng, nội dung của giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
- Đối tượng giám sát là các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở; cán
bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước.
- Nội dung giám sát bao gồm: giám sát việc xây dựng, ban hành, thi hành
pháp luật và bảo vệ pháp luật của cơ quan Nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư
20


pháp), chủ yếu tập chung vào những pháp luật có liên quan đến quyền và nghĩa
vụ cơ bản công dân, của các giai cấp, tầng lớp xã hội, các đối tượng chuyên biệt
do Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trực tiếp vận động, các
pháp luật liên quan đến tổ chức hoạt động của Ủy ban Mặt trận và các tổ chức
thành viên.
+ Đối cơ quan lập pháp: Giám sát quá trình lập pháp (từ giai đoạn sáng
kiến pháp luật, giai đoạn soạn thảo, giai đoạn thẩm định và giai đoạn thông qua
các văn bản nghị quyết, pháp lệnh… ; Giám sát tính hợp hiến của văn bản luật;
Giám sát việc thực hiện quyền giám sát của Quốc hội; hoạt động của đại biểu
Quốc hội…
+ Đối với cơ quan hành pháp: Giám sát quy trình lập quy; Giám sát q
trình quản lý của chính phủ và các cơ quan thuộc chính phủ; Giám sát việc tổ
chức thực hiện chính sách pháp luật của chính phủ và các cơ quan thuộc chính
phủ.
+ Đối với cơ quan tư pháp: Giám sát quá trình tố tụng, quá trình xét xử,

việc thi hành án. Tham gia và giám sát việc tuyển chọn thẩm phán, giới thiệu hội
thẩm nhân dân, công tác đặc xá.
- Đối tượng phản biện xã hội là các văn bản dự thảo về chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự
án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí
mật quốc gia) phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Nội dung phản biện xã hội: Theo văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng
thì nội dung phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có ba loại sau:
Những chủ trương, đường lối chính sách, quyết định lớn của Đảng, kể cả đối với
công tác tổ chức và cán bộ trước khi ban hành (Theo đề xuất của Mặt trận, thì đó
là những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản, lợi ích chính đáng của
các tầng lớp nhân dân; quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các thành
21


viên; tổ chức bộ máy và cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị; những chính
sách cụ thể đối với các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, người Việt Nam
ở nước ngoài) Dự án văn bản pháp luật, chủ yếu là luật, pháp lệnh, nghị quyết,
nghị định có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quyền và
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; tổ chức bộ máy nhà nước, cán bộ
chủ chốt của cơ quan nhà nước. Kế hoạch nhà nước chương trình quốc gia, chính
sách cụ thể về kinh tế, xã hội của Nhà nước trước khi ban hành. Căn cứ vào chủ
trương của Đảng, chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tình hình thực
tiễn, có thể xác định nội dung phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc là dự thảo
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật do cơ quan tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trước khi ban hành cụ thể như sau:
+ Đối với cấp ủy đảng gồm: Các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng; các
nghị quyết chuyên đề; đề án nhân sự Đại hội; dự kiến nhân sự thuộc thẩm quyền
quản lý của cấp ủy đảng ra ứng cử đại biểu Quốc hội; đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp; dự kiến cán bộ chủ chốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính

trị - xã hội cùng cấp.
+ Đối với Quốc hội, Hội đồng nhân dân; Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp; dự thảo quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước (trừ lĩnh vực bí mật
quốc gia); dự án luật, pháp lệnh; dự thảo nghị quyết trước khi ban hành; dự kiến
cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức đơn vị ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; dự kiến người ứng cử đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân.
+ Đối với Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp: Dự án luật, pháp lệnh do
Chính phủ chủ trì, soạn thảo; dự thảo quyết định, các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội, dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của
Ủy ban nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân.[66, tr 32 – 35]

22


1.2.3.2. Phạm vi của giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội
- Về phạm vi của giám sát:
+ Đối với cơ quan, tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì giám sát
việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của mình. Các đồn thể chính trị - xã hội: Chủ trì giám sát việc thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
(trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của đồn viên, hội viên, chức năng, nhiệm vụ của đồn
thể mình; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện nhiệm vụ giám sát
đối với những nội dung có liên quan.
+ Đối với cá nhân: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị xã hội giám sát cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức,viên chức nhà
nước ở nơi công tác và nơi cư trú.
- Phạm vi của phản biện: Hiện nay đa số các ý kiến cho rằng không phải

mọi dự thảo của tổ chức đảng, nhà nước trước khi ban hành đều thuộc phạm vi
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội, mà phạm vi phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội là các dự thảo chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan tới
quốc kế, dân sinh. Tuy nhiên, điều này chưa chính xác bởi suy cho cùng thì chủ
chương, chinh sách nào cũng liên quan đến quốc kế, dân sinh. Văn kiện Đại hội
lần thứ X của Đảng khẳng định: “Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân
dân” [9, tr 35]. Trong điều kiện thực tế hiện nay (do có q nhiều chủ trương,
chính sách, pháp luật liên quan đến mọi mặt của đới sống xã hội trong khi lực
lượng, điều kiện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ln bị
23


giới hạn, không thể thực hiện phản biện đầy đủ và toàn diện được), Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nên hướng vào phạm vi phản biện là dự
thảo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước liên
quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân; đến tổ chức và cán bộ; đến
quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt
trận. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nên lựa chọn, nhận hoặc
đề xuất phản biện những đề án, dự án phù hợp với chức năng đại diện cho lợi ích
hợp pháp của các lực lượng xã hội. Điều quan trọng là sự phản biện phải đáp ứng
được yêu cầu tính khách quan, trung thực đúng luật pháp. Để đạt được điều đó,
các đối tượng phản biện phải tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội tham dự quy trình phản biện ngay từ khi khởi thảo dự án, đề án
và cung cấp thông tin, dữ liệu để có đầy đủ cở sở làm luận chứng cho phản biện.
1.2.4. Vai trò của giám sát và phản biện xã hội
Thực thi quyền lực của nhân dân phụ thuộc vào việc tổ chức quyền lực
của đảng cầm quyền, vào hiệu quả của sự vận hành hệ thống chính trị, vào sự
trưởng thành của xã hội và văn hóa dân chủ. Phản biện xã hội của lực lượng

nòng cốt của xã hội dân chủ ở nước ta, là sự phản biện của nhân dân và tổ chức,
vì vậy, nó trở thành yêu cầu của quá trình thực thi quyền lực của nhân dân. Vai
trò tất yếu của giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội thể hiện ở những phương diện sau:
- Làm cho Chính đảng trong sạch, vững mạnh đủ sức lãnh đạo nhà nước
và xã hội: Lịch sử và nhân dân đã lựa chọn và trao cho Đảng ta một sứ mệnh
vinh quang, cao cả, độc quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội. Để hồn thành sứ
mạng đó, địi hỏi Đảng phải có đường lối đúng, phải hình thành và có cơ chế vận
hành hệ thống chính trị một cách khoa học, phải có đội ngũ đảng viên xứng tầm
với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và phải được ủng hộ tín nhiệm của nhân dân, Đối
với một đảng cầm quyền, trách nhiệm của đảng là phải đưa ra định hướng chính
24


trị, tổ chức bộ máy nhà nước và giữ quan hệ với cử tri, công chúng. Hoạt động
của đảng cầm quyền thể hiện chủ yếu bằng sự lãnh đạo nhà nước và chịu sự
giám sát chặt chẽ của xã hội mà nhất là của các đảng đối lập. Đối với đảng ta,
vừa lãnh đạo vừa cầm quyền, tuy mặt thuận lợi là cơ bản nhưng cũng nảy sinh
trở ngại: dễ chủ quan, duy ý trí và quan liêu trong việc xác định đường lối, …; là
lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội nên Đảng dễ áp đặt ý
chí của mình cho Nhà nước và xã hội, dễ tự đặt mình trên Nhà nước và pháp
luật…; những đảng viên có chức quyền dễ sa vào đặc quyền đặc lợi, tham nhũng
cửa quyền, bao che cho nhau [52].
- Phản biện xã hội sẽ giúp cho Đảng tránh được cái nhìn chủ quan, phiến
diện, xa rời thực tế đời sống xã hội của nhân dân. Hoạt động của nhà nước là quá
trình ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách và pháp luật. Cơ chế dân chủ
này đòi hỏi một mặt, việc xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật khơng thể
coi là cơng việc riêng của Nhà nước hay một lực lượng chính trị nào. Công việc
này phải được tổ chức sao cho đông đảo nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội
có được các cơ hội tham gia một cách thực tế vào việc xây dựng chính sách và

thực hiện chính sách. Mặt khác, Nhà nước bằng sức mạnh toàn diện của mình,
đảm bảo cho các đường lối, chính sách được xây dựng đúng với các định hướng
chung đã được xác định, đảm bảo kỷ cương, kỷ luật nhà nước, sự tơn trọng và
chấp hành nghiêm minh trong q trình thực hiện. Có như vậy mới tạo lập được
một đời sống chính trị dân chủ, năng động có kỷ luật và trật tự.
- Một khía cạnh khác, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam như một phương thức góp phần đảm bảo quyền lực Nhà nước do dân
ủy quyền được sử dụng đúng mục đích. Theo đó, giám sát và phản biện xã hội là
một hoạt động để nhân dân (thông qua cơ quan đại diện là Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội) kiểm sốt q trình thực thi quyền lực
Nhà nước. Nếu thực hiện tốt giám sát và phản biện xã hội, sẽ tránh được các
25


×