Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Luận án nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 158 trang )

5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TƯ DUY VÀ TƯ DUY
CHIẾN LƯỢC

Tư duy và tư duy lý luận là những vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu
khá sớm trong lịch sử triết học từ thời cổ đại đến triết học cổ điển Đức, nhất là
triết học Mác - Lênin. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng bố, ở đó tập
trung làm rõ khái niệm tư duy, tư duy lý luận, vai trị của tư duy lý luận trong
q trình lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta được đề cập trên những
bình diện khác nhau.
Trong tác phẩm Đổi mới phong cách tư duy [16], thông qua việc phân tích
những đặc điểm tư duy truyền thống với những ưu điểm và cả những hạn chế
của nó, tác giả Phạm Như Cương khẳng định cần kiên trì quan điểm cho rằng
trong đổi mới phong cách tư duy phải phát huy và phát triển phong cách tư duy
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong tác phẩm Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh [81], tác giả
Trần Văn Phịng với nhiều bài viết khác nhau xoay quanh bàn về phong cách tư
duy Hồ Chí Minh, từ nguồn gốc tới những đặc trưng và giá trị của chúng đã làm
nổi bật phong cách tư duy đặc biệt ở Người. Chính những nét đặc sắc trong
phong cách tư duy Hồ Chí Minh đã giúp Người vận dụng sáng tạo và thành công
chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta; làm rõ những đặc trưng
phong cách tư duy Hồ Chí Minh góp phần khắc phục những căn bệnh kinh
nghiệm, giáo điều, duy ý chí - những căn bệnh cản trở tầm nhìn xa trơng rộng
đối với người cán bộ lãnh đạo. Qua đó góp phần từng bước xây dựng phong
cách tư duy khoa học, nâng cao trình độ tư duy lý luận, là những tiền đề không
thể thiếu để hình thành tư duy chiến lược.
Nguyễn Trọng Chuẩn với Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy triết học ở
Việt Nam [11], đã tổng quan các hướng nghiên cứu về tư duy, bao gồm nghiên
cứu cơ bản về các mặt nhận thức luận, phương pháp luận, lơgíc học và nghiên




6
cứu ứng dụng, tập trung vào chủ đề thực trạng, nguyên nhân, giải pháp khắc
phục tình trạng lạc hậu của tư duy lý luận ở nước ta, tình trạng chính trị hóa tư
duy lý luận. Theo tác giả, lơgíc học là khoa học về tư duy, do vậy, nó cần phải
được giảng dạy trong tất cả các trường đại học. Có như vậy mới mới góp phần
nâng cao trình độ tư duy khoa học của đội ngũ cán bộ trong tương lai.
Trong cuốn “Những vấn đề lý luận đặt ra từ các văn kiện Đại hội IX của
Đảng” [12], hai tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Đặng Hữu Toàn bàn đến đặc
điểm tư duy của con người Việt Nam. Đặc biệt, đối với “những người có chức,
có quyền phải trau dồi đạo đức của người cộng sản”, nỗ lực phấn đấu nâng cao
năng lực trí tuệ để hồn thành xuất sắc nhiệm vụ đối với Tổ quốc.
Tác giả Vũ Khoan với tác phẩm “Tư duy chiến lược và khoa học lãnh
đạo, quản lý - những thành tựu nghiên cứu trên thế giới và sự tham khảo, vận
dụng cho Việt Nam” [46], đề cập đến sự ra đời của khoa học lãnh đạo, quản lý
đã hình thành từ lâu đời. Trên thế giới có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về
khoa học lãnh đạo, quản lý. Tư duy chiến lược là một trong những nội dung
quan trọng không thể thiếu trong tư duy người làm lãnh đạo, quản lý. Việt Nam
hiện nay, cùng với sự vận động, phát triển của thế giới, đứng trước những cơ hội
và thách thức cần nghiên cứu và học hỏi một cách đầy đủ và nghiêm túc về tư
duy chiến lược, về khoa học lãnh đạo, quản lý nhằm vạch ra những đường
hướng phát triển đúng đắn và hiệu quả cho đất nước.
Tác giả Nguyễn Ngọc Long với “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình
đổi mới tư duy” [57], phân tích về năng lực tư duy lý luận và vai trị của nó trong
đổi mới tư duy, thông qua việc nâng cao năng lực tư duy là sự ảnh hưởng đến
hiệu quả công việc thực tế. Đất nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới, tiến
lên xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc nâng
cao năng lực tư duy lý luận có ý nghĩa rất quan trọng đối với các chủ thể kinh tế
trong việc đưa ra những định hướng, chiến lược phát triển của mình.

Bài viết “Bàn về năng lực tư duy” [101], tác giả Hồ Bá Thâm đề cập một
số nội dung quan trọng về tư duy. Bài viết cũng phân tích một cách chi tiết và
khoa học như khái niệm tư duy, các quan điểm khác nhau khi bàn về tư duy, sự


7
ảnh hưởng của tư duy đối với hoạt động thực tiễn. Tác phẩm là tài liệu quan
trọng cho việc nghiên cứu và nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Với bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của năng lực trí tuệ và lý
luận” [44], tác giả Trần Đình Huỳnh, đề cập đến tư tưởng của Hồ Chí Minh về
vai trị của trí tuệ, về lý luận đối với thực tiễn; nhấn mạnh công tác lý luận luôn
phải gắn liền với thực tiễn. Bài viết cho thấy Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng
đến vai trị của trí tuệ. Sau cách mạng Tháng Tám thành cơng, Người chủ
trương xóa nạn mù chữ để tiêu diệt giặc dốt; bồi dưỡng tri thức lý luận khoa
học để con người hiểu và nắm bắt được các quy luật khách quan; bồi dưỡng tri
thức khoa học - kỹ thuật để con người nâng cao sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội,
chuyên môn nghiệp vụ; tạo điều kiện để con người tiếp thu, làm chủ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Về vai trò của lý luận đối với thực tiễn, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh: trong hoạt động thực tiễn, bất cứ làm
việc gì muốn thành cơng phải có lý luận dẫn đường. Tuy nhiên, Người có một
nguyên tắc nhất quán trong học tập, nghiên cứu, vận dụng lý luận, đó là lý luận
phải gắn liền với thực tiễn, lý luận bắt nguồn từ sự khái quát thực tiễn. Người
căn dặn, lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành, lý luận
phải được vận dụng vào thực tiễn một cách sáng tạo; phải chú trọng tổng kết
thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực cho quá trình
nhận thức và cho lý luận.
Tác giả Nguyễn Đức Quyền trong bài “Nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay” [90], thông qua
nghiên cứu của mình đã chỉ ra năng lực tư duy lý luận là một vấn đề được nhiều
nhà nghiên cứu lý luận quan tâm trong quá trình đổi mới tư duy ở nước ta thời
gian qua. Mỗi cơng trình nghiên cứu làm rõ hơn về tư duy lý luận, khai thác và

bổ sung thêm vai trò, sự cần thiết của tư duy lý luận; trên cơ sở đó đề ra những
giải pháp khác nhau nhằm nâng cao năng lực và trình độ của tư duy lý luận. Tác
giả Nguyễn Đức Quyền cho rằng: năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về
những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể
của sự tồn tại, vận động và phát triển. Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy


8
khoa học, sáng tạo trong sử dụng các khái niệm, phạm trù nhằm đem lại những
tri thức mới mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lơgíc và có hệ thống, phù
hợp với quy luật khách quan của hiện thực, qua các khâu phân tích, so sánh, tổng
hợp, trừu tượng hố, khái qt hố. Với đặc tính khoa học của mình, năng lực tư
duy lý luận tốt có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, làm sáng tỏ hơn những
vấn đề lý luận trừu tượng, cụ thể hoá lý luận thành mục tiêu, phương hướng, giải
pháp khả thi để giải quyết các vấn đề của cuộc sống một cách có hiệu quả. Qua
cơng trình nghiên cứu này, tác giả đi tới khẳng định vai trị quan trọng khơng thể
thiếu của tư duy lý luận đối với người cán bộ chủ chốt cấp huyện, có giá trị định
hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của họ.
Tác giả Thái Ninh, thông qua “Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận” [78],
đã đề cập đến thực trạng đất nước, những địi hỏi trong tình hình mới và những
yêu cầu đặt ra đòi hỏi phải đổi mới tư duy lý luận; đề xuất một số yêu cầu cần
đạt để đổi mới tư duy lý luận. Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới
đất nước nói chung và trong công tác xây dựng Đảng làm cho tồn Đảng trở
thành một Đảng trí tuệ, có trình độ và năng lực lãnh đạo cơng cuộc đổi mới tồn
diện đất nước, đồng thời khắc phục độ trễ của lý luận để lý luận thực sự giữ vai
trò chỉ đạo thực tiễn một cách hiện quả.
Tư duy chiến lược cũng được nghiên cứu, trao đổi trong các diễn đàn,
trong các cuộc hội thảo khoa học với những quy mô của những tổ chức khác
nhau. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 6/2008 đã
tổ chức cuộc hội thảo với nội dung “Phát triển tư duy chiến lược cho các nhà

lãnh đạo khu vực công”. Tại hội thảo này đã thảo luận và làm rõ tầm quan trọng
của tư duy chiến lược trong lãnh đạo chính trị và khu vực công; nêu ra những
vấn đề lý thuyết cơ bản về tư duy chiến lược; những ứng dụng của tư duy chiến
lược trong lãnh đạo; các phương pháp và biện pháp tăng cường tư duy chiến
lược cho các nhà lãnh đạo. Với những mục tiêu như vậy, tại hội thảo, bản chất và
các đặc điểm cơ bản dưới góc độ tiếp cận trong cung cấp dịch vụ công của tư
duy chiến lược đã được tiếp cận và phân tích, vai trị của tư duy được khẳng định
và làm rõ.


9
Ngồi ra cịn nhiều cơng trình nghiên cứu khác nhau liên quan đến việc
đổi mới trong tổ chức, quản lý, xây dựng kế hoạch, những mơ hình phát triển
trong tương lai ở những lĩnh vực khác nhau tuy không trực tiếp nghiên cứu về tư
duy, tư duy lý luận, tư duy chiến lược nhưng cũng có đề cập đến ở góc độ vai
trị, tầm quan trọng của nó.
1.2. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TRÌNH ĐỘ TƯ DUY, TƯ DUY
CHIẾN LƯỢC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO

Thông qua những cơng trình nghiên cứu về tư duy, tư duy lý luận, tư duy
chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, ngồi việc làm rõ vấn đề tư duy nói
chung, cịn đề cập đến năng lực, trình độ tư duy, thực trạng của tư duy của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo từ đó đưa ra giải pháp nâng cao trình độ tư duy, tư duy lý
luận, tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ, lãnh đạo.
Với bài viết “Thực trạng tư duy lý luận của lãnh đạo quản lý nước ta
hiện nay trong quá trình học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh” trong
cuốn Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh [81], tác giả Nguyễn Thế
Kiệt chỉ ra thực tế những năm qua cho thấy, cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
nước ta đã năng động triển khai nghị quyết của Trung ương cũng như tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn, góp phần khuyến nghị với Trung ương kịp thời

bổ sung, phát triển lý luận và chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều cán bộ lãnh đạo
quản lý vẫn cịn trơng chờ sự chỉ đạo của Trung ương, chưa mạnh dạn đề
xuất những biện pháp sáng tạo, phù hợp với tình hình cụ thể ở địa phương.
Vì thế, nhiều vấn đề nảy sinh từ thực tế chưa được giải quyết kịp thời khiến
họ lúng túng, bị động. Trong khi đó, sự nghiệp đổi mới của đất nước đòi
hỏi phải kịp thời tổng kết thực tiễn, đề xuất được những giải pháp góp phần
chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Cuốn sách “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta từ năm 1986
đến nay” [92] của nhóm tác giả Tơ Huy Rứa và các cộng sự là tài liệu tham khảo
một cách có hệ thống về quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ Đại hội VI
đến nay, góp phần vào việc tổng kết lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và


10
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước thềm Đại hội Đảng lần thứ
IX năm 2001. Từ việc tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta thấy rõ khơng
ít vấn đề thực tiễn đặt ra mà lý luận chưa giải quyết một cách thoả đáng, còn xa
với nhu cầu thực tiễn đổi mới. Bên cạnh những thành tựu nổi bật đã đạt được
vẫn còn sự bất cập trong tư duy và hành động, vẫn cịn sự suy thối về phẩm
chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham
nhũng vẫn còn là quốc nạn.
Cuốn sách “5 đương đại” [96], là cơng trình tập hợp các bài viết của các
học giả Trung Quốc, tập trung vào năm vấn đề lớn, trong đó có hai vấn đề liên
quan trực tiếp đến tư duy chiến lược, đó là:
- Bồi dưỡng tư duy chiến lược;
- Mở rộng tầm nhìn thế giới là yêu cầu cán bộ lãnh đạo, quản lý nỗ lực
quan sát, nắm bắt sâu sắc thực trạng và xu hướng cơ bản của sự phát triển thế
giới đương đại.
Cuốn sách Tư duy chiến lược và khoa học mới: Lập kế hoạch giữa tình

thế hỗn độn, phức tạp và thay đổi của tác giả T. Irene Sanders do Chu Tiến Ánh
dịch [94] viết về những câu chuyện của chính tác giả trên con đường tìm kiếm
nhận thức của mình đối với một lĩnh vực hoạt động hết sức quan trọng là tư duy
chiến lược và lập kế hoạch cho dự án phát triển trong các lĩnh vực kinh doanh,
kinh tế và xã hội.
Tác giả Bruce và Andy với tác phẩm Tư duy chiến lược [8], được Lê
Ngọc Phương Anh tổng hợp và biên dịch bàn về chiến lược kinh tế trên cơ sở
lập kế hoạch chiến lược và triển khai chiến lược. Có tư duy chiến lược ở đây là
có khả năng hoạt động dài hạn trong khi vẫn phát huy tối đa năng lực hoạt
động trong ngắn hạn là điều bắt buộc đối với các nhà quản lý. Tư duy chiến
lược sẽ giúp vạch ra con đường dẫn đến thành cơng, và xây dựng cho khả năng
phân tích và hoạch định tổng thể. Tất cả các khía cạnh quan trọng trong quá
trình phát triển và triển khai chiến lược - từ việc nghiên cứu và thu nhập những
thông tin cơ sở để hình thành một chiến lược mới cho đến việc đánh giá và điều
chỉnh thích nghi đều sẽ được giải thích thật rõ ràng. Ở tác phẩm tổng hợp


11
những lời khuyên thiết thực nhất, cùng với những câu hỏi để tự đánh giá hiệu
quả công việc.
Tác phẩm Tư duy chiến lược - Cơng cụ sắc bén trong chính trị, kinh
doanh và đời thường của hai tác giả Avinat Đixit và Beri NênBăp [1] đã đưa ra
một số phương pháp, kỹ thuật tính tốn lựa chọn các giải pháp tối ưu cho những
tình huống điển hình ở những khâu khác nhau trong lĩnh vực hoạt động kinh tế
thông qua rất nhiều những câu chuyện, phát triển các phương pháp suy nghĩ, đưa
ra những chỉ dẫn chiến lược hữu hiệu. Nói cách khác, thơng qua những câu
chuyện để chỉ ra những bài học về phương pháp tư duy, phát triển cách tư duy
chiến lược.
Tác giả Lê Hữu Nghĩa với bài viết “Một số căn bệnh trong phương pháp
tư duy của cán bộ ta” [71] đề cập đến bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm trong

tư duy của cán bộ nước ta. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng, hành động
tuyệt đối hố vai trị lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn,
thiếu quan điểm lịch sử cụ thể. Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng
tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học. Bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều tuy có liên quan tới chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo
điều nhưng dưới góc độ nhận thức lý luận, nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu là
do sự yếu kém về lý luận không nắm được tinh thần khoa học của đường lối, chủ
trương, chính sách. Sự yếu kém về nhận thức như vậy dĩ nhiên sẽ không tránh
được bệnh kinh nghiệm. Tuy nhiên, sự yếu kém về nhận thức khơng chỉ dẫn đến
bệnh kinh nghiệm mà cịn dẫn đến bệnh giáo điều. Chính vì vậy, để khắc phục
bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, phương hướng quan trọng hàng đầu là phải
nâng cao trình độ lý luận, trình độ hiểu biết về đường lối, chủ trương, chính
sách… của cán bộ nói chung.
Trong bài viết “Bồi dưỡng tư duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở nước ta hiện nay” [83], tác giả Trần Văn Phòng đề cập rõ nhất về tư duy
chiến lược, những đặc điểm cũng như yêu cầu để có được tư duy chiến lược đối
với đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay. Ở bài viết này, tác giả cũng đưa
ra khái niệm và một số đặc trưng về tư duy chiến lược; sự cần thiết phải có tư
duy chiến lược ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo đất nước ta hiện nay.


12
Tác giả Trần Văn Phòng trong bài viết “Năng lực tư duy lý luận với hoạt
động của đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo cấp huyện người dân tộc thiểu số”
[82], đề cập đến vai trò của tư duy lý luận, thực trạng năng lực tư duy lý luận
của cán bộ quản lý, lãnh đạo cấp huyện người dân tộc thiểu số - những mặt
mạnh và hạn chế, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy
lý luận cho đội ngũ này. Bên cạnh đặc trưng chung của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện, người cán bộ lãnh đạo dân tộc thiểu số cũng có những đặc thù riêng.
Tuy nhiên, họ là những người đứng đầu, trực tiếp lãnh đạo, quản lý triển khai

thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
đồng thời, chịu trách nhiệm đề ra và tổ chức thực hiện các chủ trương, chương
trình kế hoạch phát triển của đơn vị và địa phương mình phụ trách. Với trọng
trách như thế, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện phải có năng lực tư duy thích
ứng mới có thể hồn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tuy vậy, năng lực tư duy
của một bộ phận trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện người dân tộc thiểu
số vẫn còn những hạn chế như: trình độ tư duy cịn thấp; trong cơng tác lãnh
đạo cịn nhiều biểu hiện của bệnh giáo điều; cơng tác dự đốn, dự báo tình hình
chưa theo kịp thực tế; việc nắm bắt, xử lý thông tin thiếu kịp thời; trong chỉ
đạo, còn biểu hiện của bệnh chủ quan, duy ý chí, cịn dựa vào kinh nghiệm trực
quan, sự tùy tiện trong công tác tổ chức thực tiễn. Trên cơ sở đó đề ra một số
giải pháp chủ yếu để khắc phục những hạn chế và nâng cao trình độ tư duy lý
luận của đội ngũ cán bộ này, góp phần phát triển đất nước.
Bài viết “Hội nhập quốc tế và yêu cầu về tư duy chiến lược của người
lãnh đạo hiện nay” [84] của tác giả Trần Văn Phịng khẳng định, tư duy chiến
lược đóng vai trị hết sức quan trọng mang tính quyết định trong hoạt động của
người lãnh đạo, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Bài viết
đưa ra những yếu tố hình thành tư duy chiến lược của người lãnh đạo, gồm: tố
chất bẩm sinh của người lãnh đạo; tri thức qua học tập, rèn luyện; môi trường
kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội; hoạt động của người lãnh đạo. Tác giả còn chỉ
ra một số nội dung chủ yếu của tư duy chiến lược: tư duy chiến lược toàn cầu
cho hành động quốc gia; tư duy chiến lược về quản trị xã hội; tư duy chiến lược


13
về giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; tư duy chiến lược về mơ
hình phát triển của quốc gia, dân tộc. Từ đó bài viết đi tới khẳng định, muốn bồi
dưỡng tư duy chiến lược của người lãnh đạo Việt Nam hiện nay cần tính tới các
nhân tố tác động và người lãnh đạo cần chủ động: học tập, trau dồi phương pháp
biện chứng duy vật; rèn luyện năng lực tư duy chiến lược thông qua thực tiễn

hoạt động lãnh đạo; nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, trình độ khoa học
và cơng nghệ hiện đại; tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng; dân chủ trong
hoạt động lãnh đạo.
Tại “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi
mới” [27], Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo
tổng kết, đã trình bày một cách đầy đủ và hệ thống bối cảnh quốc tế và trong
nước trong chặng đường đổi mới 30 năm qua; chỉ ra những thành tựu, hạn chế
cũng như nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó; nhấn mạnh những
nội dung cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tầm nhìn tới 2030.
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy đã có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu về tư duy, tư duy lý luận và cũng đã có cơng trình đề cập đến vấn đề
bồi dưỡng tư duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay. Tư
duy chiến lược ngày càng được quan tâm nghiên cứu trong bối cảnh hiện nay
trên phạm vi tồn cầu do địi hỏi sự phát triển của nhân loại. Việc bồi dưỡng,
nâng cao trình độ tư duy chiến lược là quan trọng, thiết thực, đặc biệt với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo các cấp. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào tập trung đi sâu
nghiên cứu về vấn đề: Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo ở nước ta hiện nay. Đây là vấn đề cần được triển khai nghiên cứu và
đưa ra những đề xuất hữu ích.
1.3. NHỮNG CƠNG TRÌNH VỀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ DUY
CHIẾN LƯỢC CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO

Với việc tư duy chiến lược ngày càng được chú trọng quan tâm, đi sâu
nghiên cứu thì những giải pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ tư
duy chiến lược đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cũng được các tác giả của những
cơng trình nghiên cứu đề cập đến.


14
Các tác giả Trung Quốc Thái Kiến Ba, Chu Minh và Vĩ Học Cơ “Một số

vấn đề cán bộ lãnh đạo cần chú ý nắm bắt khi bồi dưỡng tố chất tư duy chiến
lược” [3], Tạp chí Diễn đàn Cơng đoàn, kỳ thứ 3, quyển thứ 9 (Phan Huy Quang
dịch) đưa ra quan điểm của mình về tư duy chiến lược và những đặc trưng cần
có để có được tố chất tư duy chiến lược. Người cán bộ lãnh đạo cần phải có được
tư duy chiến lược, phải tự giác bồi dưỡng tố chất tư duy chiến lược. Những nội
dung cần chú trọng để bồi dưỡng tố chất tư duy chiến lược được các tác giả nêu
ra ở đây là: vấn đề thế giới quan, chú ý vấn đề hiện thực, chú trọng vấn đề
phương pháp. Bài viết cũng đưa ra một số phương pháp để bồi dưỡng tư duy
chiến lược: tầm nhìn cần rộng mở, nhãn quan phải thấu tỏ, nhãn quan cần nhìn
xa trơng rộng, nhãn quan cần vượt trước.
Hồng Chí Bảo, trong bài viết “Năng lực lãnh đạo chiến lược - quan
niệm, vấn đề và giải pháp” [4], đã chỉ ra đối tượng lãnh đạo chiến lược, những
yêu cầu đối với đội ngũ này và từ đó đề ra một số giải pháp để xây dựng đội ngũ
lãnh đạo chiến lược trong tình hình hiện nay. Theo đó, lãnh đạo chiến lược được
chỉ ra là lãnh đạo ở tầm vĩ mô, quốc gia, tổng thể và chỉnh thể. Lãnh đạo chiến
lược là lãnh đạo việc soạn thảo đường lối, hoạch định chiến lược và chính sách
có quan hệ tới phát triển chung hay phát triển từng lĩnh vực trong phát triển quốc
gia, trong đối nội và đối ngoại. Lãnh đạo chiến lược là thể hiện tầm vóc, sức ảnh
hưởng, quy mơ, chiều kích tác động của nhà lãnh đạo và cơ quan lãnh đạo đối
với sự phát triển của cộng đồng xã hội. Lãnh đạo chiến lược cũng được tác giả
xác định là đội ngũ lãnh đạo ở tất cả các cấp, các ngành. Theo tác giả, cấp tỉnh,
cấp vùng, miền cũng phải được coi là cấp chiến lược, các lãnh đạo ở khu vực
này hỗ trợ, bổ sung, điều chỉnh các vấn đề liên quan tới phát triển của địa
phương, vùng miền với tư cách là hình ảnh thu nhỏ của quốc gia; cấp cơ sở - vi
mơ có tầm quan trọng đặc biệt vì nó là những tế bào khởi phát làm nên xã hội,
cộng đồng và nhà nước cùng với chính thể của mình. Trên cơ sở những yêu cầu
về nhiệm vụ, bài viết cũng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo chiến lược đối với đội ngũ lãnh đạo chiến lược ở nước ta.



15
Tác giả Trung Quốc Vương Như Cần với bài viết “Tư duy chiến lược của
cán bộ lãnh đạo cần đủ bốn quan điểm”, Tạp chí Tiền tuyến (Phan Huy Quang
dịch) [9] khẳng định, tư duy chiến lược của cán bộ lãnh đạo vừa là một vấn đề lý
luận, cũng là một vấn đề thực tiễn. Biểu hiện cụ thể của tư duy chiến lược của cán
bộ lãnh đạo là: vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa
Mác để quan sát vấn đề, từ phương hướng toàn cục và sự lâu dài để suy xét vấn
đề, vừa có thể tiến hành sắp xếp và phân loại các yếu tố phức tạp trong nội bộ vấn
đề. Tác giả cũng cho rằng, phương thức tư duy chiến lược là hình thái cao của
phương thức tư duy, tư duy chiến lược của cán bộ lãnh đạo cần hội đủ bốn yếu tố:
triết học quan trong tư duy chiến lược; thời đại quan của tư duy chiến lược; toàn
cục quan trong tư duy thời đại; thực tiễn quan của tư duy chiến lược. Và sau cùng,
tính đúng đắn của tư duy chiến lược phải được kiểm nghiệm bằng thực tiễn.
Cuốn sách “Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tham mưu chiến lược”
[15] của tác giả Đỗ Minh Cương và Nguyễn Viết Lộc nêu lên tầm quan trọng
của chiến lược, vai trò của tham mưu chiến lược, của nguồn nhân lực tham mưu
chiến lược đối với sự phát triển của đất nước trong thời đại ngày nay. Thông qua
khảo sát thực trạng, các tác giả cũng đề xuất những giải pháp trong công tác bồi
dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm tạo ra một đội ngũ tham mưu chiến
lược đối với nước ta hiện nay. Thơng qua cuốn sách này, nhóm tác giả cùng làm
rõ các khái niệm như: khái niệm tham mưu chiến lược, cán bộ chiến lược và vai
trò của đội ngũ này. Nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán
bộ chiến lược, người giữ vai trò đứng đầu của các nước cũng được đưa vào
nghiên cứu, đánh giá, qua đó có những sự vận dụng nhất định trong việc xây
dựng các giải pháp cho việc phát triển đội ngũ cán bộ chiến lược ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Luận án tiến sỹ của Dương Minh Đức: “Nâng cao năng lực tư duy lý
luận của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện
nay” [31] nhấn mạnh, sức mạnh trí tuệ của con người có cơ sở nền tảng của
nó là tư duy lý luận. Tư duy lý luận là khả năng tổng hợp các phẩm chất trí

tuệ của chủ thể, đáp ứng yêu cầu phát hiện ra những yếu tố mới, nhận thức


16
nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện thực ở trình độ lý luận. Bằng tư duy lý
luận, chủ thể có những đề xuất thiết thực, cụ thể, sắc bén, sáng tạo, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Ở vùng đồng bằng sông Hồng, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh đang đứng
trước mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao với trình độ và khả
năng đáp ứng của cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở đây nhiều mặt chưa ngang tầm,
nhất là về năng lực tư duy lý luận. Muốn nâng cao năng lực tư duy lý luận,
luận án đã đưa ra một số phương hướng và giải pháp cụ thể.
Bài viết của Ngô Huy Đức, “Nâng cao năng lực tư duy của cán bộ lãnh
đạo cấp chiến lược” [32] đề cập đến những tố chất cần có đối với người lãnh
đạo để thực hiện cơng việc lãnh đạo. Bên cạnh các yếu tố về đạo đức, sức khỏe,
tính cách..., tư duy của người lãnh đạo là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định
hiệu quả lãnh đạo. Nâng cao năng lực tư duy của cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược
phụ thuộc vào chính việc xác định đúng các thách thức lãnh đạo trong môi
trường, bối cảnh cụ thể của người lãnh đạo đó; đồng thời, cùng với tư duy khoa
học, đội ngũ lãnh đạo cấp chiến lược cần phải nâng cao năng lực tư duy khác,
như tư duy hệ thống và tính sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình
hình hiện nay.
Bài viết “Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ở nước ta hiện nay quan niệm, đặc điểm và những mâu thuẫn cần giải quyết” [43] của tác giả Đoàn
Minh Huấn đề cập đến tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược đối với tồn bộ cơng tác cán bộ của Đảng. Vì vậy, chăm lo xây dựng
cán bộ cấp chiến lược phải được xem là trọng tâm trong công tác cán bộ. Muốn
vậy, cần phải nhận diện được các đặc điểm, phát hiện các mâu thuẫn và đề xuất
phương thức giải quyết mâu thuẫn, tìm động lực cho cán bộ cấp chiến lược phát
triển, xứng đáng với vị thế, trách nhiệm trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới.
Tác giả Trung Quốc Tăng Quảng Lạc, “Bàn về nguyên tắc cơ bản của tư duy

chiến lược của cán bộ lãnh đạo thời kỳ mới” [49], Tạp chí Trường Đảng tỉnh ủy Tứ
Xuyên (Phan Huy Quang dịch) đưa ra những tìm tịi bước đầu những ngun tắc cơ
bản của tư duy chiến lược mà đội ngũ cán bộ lãnh đạo cần tuân thủ. Các nguyên tắc


17
được tác giả chỉ ra trong bài viết bao gồm: nguyên tắc giá trị với mục đích được đặt
ra là vì ai, vì cái gì; ngun tắc tính khoa học mà xét về căn bản chính là u cầu
q trình tư duy chiến lược tuân thủ quy luật khách quan sự tồn tại, phát triển của
giới tự nhiên và xã hội loài người, nội dung của tư duy chiến lược phù hợp với quy
luật khách quan; nguyên tắc tính dân chủ là hình thức tổ chức, hình thức tự quyết và
tự trị của nhân dân, bảo vệ quyền uy của đa số và đồng thời tôn trọng thiểu số bảo
lưu ý kiến với quyết sách dân chủ, lợi ích và ý chí của quần chúng nhân dân được
đảm bảo và tơn trọng, được tơn trọng; ngun tắc tính sáng tạo, đây là yêu cầu rất
cần thiết đối với tư duy chiến lược để đảm bảo tính tồn cục, tính dài hạn, lược bỏ
đi những tư duy chết cứng, lạc hậu, đối diện với điều kiện xã hội mới, đưa ra những
quan niệm mới, góc nhìn mới, đưa ra những hoạch định mới phát triển.
Bài viết “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và yêu cầu đối với lãnh đạo
chiến lược” [86] của tác giả Đỗ Văn Quân, Nguyễn Ngọc Lam nêu lên những
đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư với những thuận lợi và bất cập
đối với nước ta hiện nay. Trước những biến động và đòi hỏi mới của thực tại,
bao gồm cả những thuận lợi và những rào cản đối với đội ngũ lãnh đạo chiến
lược, bài viết chỉ ra yêu cầu đối với đội ngũ lãnh đạo chiến lược để có thể nắm
bắt kịp thời những diễn biến của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang
ảnh hưởng mạnh mẽ trên quy mơ tồn cầu này.
Tác giả Trung Quốc Đoạn Bồi Qn với bài viết “Nội hàm thời đại và kết
cấu của tư duy chiến lược của cán bộ lãnh đạo” [87], Tạp chí Trường Bạch
(Phan Huy Quang dịch) khai thác yêu cầu “thạo sử dụng tư duy chiến lược” mà
Đại hội Đảng lần thứ 16 của Trung Quốc đặt ra đối với đội ngũ lãnh đạo trong
tình hình mới. Tác giả phân tích những đặc điểm của tình hình thế giới, từ đó đi

tới khẳng định: “thạo sử dụng tư duy chiến lược” là yêu cầu tất yếu của sứ mệnh
lịch sử xây dựng toàn diện xã hội khá giả. Theo tác giả, đặc trưng cơ bản của
chiến lược là sự kết hợp thống nhất của ba góc độ: chiến lược từ góc độ thực
tiễn, từ góc độ khơng gian và thời gian. Triển khai năng lực tư duy chiến lược
theo ba góc độ trên có thể khái quát thành: năng lực hoạch định chiến lược theo
góc độ mục tiêu và phương thức, năng lực tồn cục chiến lược theo góc độ toàn


18
cục và cục bộ, năng lực dự báo và phát triển chiến lược theo góc độ hiện tại và
tương lai.
Tác giả Nguyễn Đức Quyền với“Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay” [90] đề cập đến năng
lực tư duy lý luận có vai trị quan trọng trong cuộc sống, đặc biệt là đối với
người cán bộ lãnh đạo. Với vị trí đặc thù là khâu trung gian, là cầu nối trong
quy trình lãnh đạo, quản lý từ trung ương và tỉnh đến cơ sở, đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện cần phải rèn luyện để có trình độ và năng lực tư duy lý luận
nhất định để hoàn thành tốt các chức năng và nhiệm vụ cầu nối đó; đảm bảo
thơng tin thơng suốt, đúng tinh thần của chủ trương, chính sách từ cấp trên,
nhưng cũng phải phù hợp với đặc thù địa phương, đảm bảo cán bộ cơ sở và
nhân dân có thể lĩnh hội tốt nhất những chủ trương chính sách ấy. Từ đó, bài
viết đưa ra những nguyên tắc và giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực tư duy
lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp huyện trên cơ sở xác định rõ các căn bệnh để
khắc phục. Bài viết cho thấy việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa
lâu dài và mang ý nghĩa chiến lược trong công tác cán bộ. Từ thực trạng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện và năng lực tư duy lý luận của họ, tác giả nêu
một số nguyên tắc cơ bản để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ này: Nâng cao năng lực tư duy lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, phải gắn
với quá trình tổng kết thực tiễn trên địa bàn người cán bộ chủ chốt phụ trách;

nâng cao năng lực tư duy lý luận phải gắn với công tác đào đạo, bồi dưỡng và
sử dụng cán bộ; nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện phải gắn với nâng cao trình độ học vấn, trình độ chun mơn,
nghiệp vụ của họ và nâng cao trình độ dân trí cộng đồng; phải gắn việc nâng
cao năng lực tư duy lý luận với việc giải quyết nhiệm vụ chính trị là phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện mà người cán bộ chủ chốt trực tiếp phụ
trách; nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
phải gắn liền với việc trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng. Trên cơ sở những
nguyên tắc này, tác giả nêu một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện.


19
Tác phẩm “Tư duy lý luận với hoạt động của người lãnh đạo, chỉ đạo
thực tiễn” [99] của tác giả Trần Thành nhấn mạnh tư duy lý luận đối với người
cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn như là “chìa khố” mở ra cho hoạt động nhận
thức và thực tiễn của họ; giúp họ nắm được thực chất đường lối, chủ trương,
chính cách của Đảng và Nhà nước; nâng cao khả năng phân tích luận giải được
tính đa dạng và phong phú và những diễn biến phức tạp của cuộc sống, thực tiễn
ở trình độ lý luận, từ đó biết tổ chức thực tiễn một cách có hiệu quả, biết tổng kết
thực tiễn để bổ sung, sửa đổi để phát triển nhận thức, phát triển lý luận đường
lối, chủ trương, chính sách cho phù hợp với thực tiễn mới.
Tác giả Hồ Bá Thâm, “Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã hiện nay” [102] thông qua tác phẩm bàn về một số nội dung về tư
duy lý luận và năng lực tư duy lý luận, vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với
hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã; những nhân tố ảnh
hưởng đến năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã.
Tác gỉả cũng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã.
Bài viết “Kinh nghiệm đào tạo lãnh đạo chiến lược của Xin-ga-po” [110],

tác giả Trần Thị Thanh Thủy đưa đến một số tìm hiểu về chương trình đào tạo
người lãnh đạo ở Xin-ga-po. Ở Xin-ga-po, đào tạo lãnh đạo các cấp, trong đó có
lãnh đạo cấp chiến lược được thực hiện bởi trước nhất là Trường Công vụ Xinga-po (Civil Service College Singapore) với chức năng tổ chức các chương trình
đào tạo các nhà lãnh đạo cấp cao và cấp trung. Các chương trình, khóa và
chun đề đào tạo rất đa dạng về thời gian, đối tượng và phương thức đào tạo.
Các chương trình có một số điểm chung là chú trọng đào tạo tư duy. Các chương
trình, nội dung đào tạo được thiết kế nhằm tạo ra một số phẩm chất quan trọng
trong tư duy lãnh đạo chiến lược; tư duy đại cục, tổng thể dựa trên tri thức về bối
cảnh. Việc này khơng những địi hỏi phải hiểu thấu đáo khía cạnh kỹ thuật, mà
cịn phải biết vận dụng linh hoạt các khái niệm có liên quan, bao gồm việc lập ra
một trình tự và mơi trường kinh tế chính trị tổng thể; Chú trọng tính lâu dài, nhấn
mạnh tư duy chiến lược, tầm nhìn, chú trọng nhìn xa, trơng rộng, nhưng sát với
thực tiễn, có tính thực tế.


20
Có thể nói vấn đề về tư duy, tư duy lý luận gắn với người cán bộ lãnh
đạo đã được khá nhiều các cơng trình nghiên cứu đề cập tới. Thơng qua
những cơng trình nghiên cứu đó khái niệm tư duy, tư duy lý luận cùng vai trị
của nó được phân tích và làm rõ. Thực trạng về trình độ, năng lực tư duy, tư
duy lý luận trong độ ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta tùy từng phạm vi nghiên
cứu được các tác giả tìm hiểu và đánh giá nghiêm túc, từ đó xây dựng các giải
pháp thiết thực nâng cao trình độ, năng lực tư duy, tư duy lý luận. Hiểu rõ về
tư duy, tư duy lý luận là nền tảng quan trọng có thể kế thừa để hình thành và
xây dựng tư duy chiến lược. Tư duy chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
nước ta hiện nay ngày càng được nghiên cứu, tìm hiểu một cách phổ biến hơn
do yêu cầu phát triển đất nước trong thời đại.
1.4. GIÁ TRỊ CỦA CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ TỔNG QUAN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU


1.4.1. Giá trị của những cơng trình nghiên cứu đã tổng quan
Qua tổng quan có thể nhận thấy, những cơng trình nghiên cứu về tư duy
và tư duy lý luận được nghiên cứu sâu sắc ở nhiều góc độ khác nhau. Tư duy và
tư duy lý luận là vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu khá sớm trong lịch sử triết
học từ thời cổ đại đến triết học cổ điển Đức, nhất là triết học Mác - Lênin. Đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng bố, ở đó tập trung làm rõ khái niệm tư
duy, tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận trong quá trình lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta được đề cập những bình diện khác nhau.
Nghiên cứu về tư duy, có những cơng trình chỉ rõ nguồn gốc, quá trình
hình thành tư duy của con người; các cấp độ, các loại hình tư duy và vai trị của
nó với nhiều góc độ được nghiên cứu sâu sắc. Mặc dù tiếp cận ở nhiều góc độ
khác nhau nhưng vai trị của tư duy, tư duy lý luận, tư duy chiến lược đều được
khẳng định với tính chất cần thiết khơng thể thiếu trong cả hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người. Những người đứng đầu, người cán bộ lãnh
đạo ở mọi thời kỳ lịch sử đều được đánh giá là những người có vai trị quan
trọng đối với sự phát triển của tổ chức, quốc gia, dân tộc, theo đó ở đội ngũ này
ln được đặt ra và địi hỏi khả năng tư duy ở trình độ cao hơn, đặc biệt hơn, nổi
trội hơn so với những người khác.


21
Trước u cầu đó, nhiều cơng trình nghiên cứu về tư duy, tư duy lý luận
cũng được đặt ra và nghiên cứu ở đối tượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Người cán
bộ lãnh đạo nói chung, trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể nói riêng được
khảo sát, đánh giá một cách khá sâu sắc về đặc điểm, thực trạng tư duy, tư duy lý
luận. Qua những cơng trình nghiên cứu này có thể thấy, người cán bộ lãnh đạo
nước ta luôn được quan tâm xây dựng, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực, trình
độ tư duy của mình. Mặc dù có những hạn chế trong tư duy do chịu ảnh hưởng
của yếu tố lịch sử, vị trí địa lý, nhưng tư duy nói chung của người cán bộ lãnh
đạo nước ta đang không ngừng được nâng tầm. Trên cơ sở khảo sát thực tế, phân

tích thực trạng đặc điểm tư duy của người cán bộ lãnh đạo của nước ta, có nhiều
giải pháp cũng được xây dựng để góp phần nâng tầm tư duy cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo. Mỗi cơng trình nghiên cứu về tư duy, tư duy lý luận, tư duy chiến lược
đối với người cán bộ lãnh đạo nói chung ở Việt Nam đều đóng góp những giá trị
quan trọng, là cơ sở để người cán bộ lãnh đạo học tập, bồi dưỡng hoàn thiện tư
duy của mình trong cơng cuộc lãnh đạo, chỉ đạo đưa đất nước phát triển toàn
diện theo định hướng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, mà ngàn
đời người dân Việt Nam đã dày công vun đắp và gìn giữ.
Những nội dung liên quan đến sự phát triển toàn diện đội ngũ cán bộ lãnh
đạo nước ta hiện nay ngày càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng.
Điều này được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng. Mặc dù sau Nghị
quyết Trung ương VII, khóa XII với việc chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược đã có nhiều bài viết liên quan đến tư duy chiến lược của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp chiến lược được bàn tới, tuy vậy, hiện nay trong nước cịn rất ít
cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về tư duy chiến lược, thường chỉ đề cập đến tư
duy, tư duy lý luận nói chung. Tư duy chiến lược được một số cơng trình nghiên
cứu đề cập đến thơng qua bài tạp chí, hội thảo khoa học; một số sách đề cập đến
tư duy chiến lược thì gắn với tư duy chiến lược cho lĩnh vực cụ thể. Hầu hết các
ngành, các lĩnh vực đều xác định cho mình những chiến lược phát triển, từ đó có
kế hoạch cụ thể để đảm bảo và hướng tới sự phát triển cho tương lai. Chúng ta
khơng khó để tìm thấy chiến lược cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục,


22
quân sự trong khoảng thời gian 10 năm, 20 năm, 50 năm ở những phạm vi, quy
mô khác nhau. Việc nghiên cứu tư duy chiến lược với tính cách là một quá trình
của tư duy, một trình độ tư duy, năng lực tư duy khái qt thì chưa có cơng trình
nghiên cứu nào đề cập tới. Đây là một khoảng trống lớn có thể tiếp cận khai
thác, tìm tịi để là sáng rõ đặc trưng của tư duy chiến lược - yếu tố tư duy không
thể thiếu đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo trước tình hình mới ở nước ta hiện nay.

Quan niệm thế nào là tư duy chiến lược, trình độ tư duy chiến lược cùng
những đặc trưng của nó cịn nhiều ý kiến khác nhau giữa các tác giả. Có sự khác
nhau ấy là bởi các tác giả nghiên cứu về tư duy chiến lược gắn với tư duy theo
ngành, theo lĩnh vực mà không phải là tư duy chiến lược chung, tổng thể, cách
thức và khả năng tư duy ra những điều mới mang tầm nhìn dài hạn. Do vậy, các
tác giả thường mới chỉ ra cách làm thế nào để có được một chiến lược, ít đề cập
đến để chỉ ra con đường hình thành tư duy chiến lược, để từ đó bồi dưỡng, nâng
cao trình độ tư duy chiến lược cho cán bộ lãnh đạo. Để có cái nhìn khái qt hơn
về tư duy chiến lược, nâng cao trình độ tư duy chiến lược thì đây là nội dung cần
tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan những cơng trình nghiên cứu liên quan đến nội dung
của luận án, tác giả nhận thấy việc đề cập trực tiếp, cụ thể về trình độ tư duy
chiến lược cịn ít được khai thác. Với khoảng trống đó, tại luận án này, nghiên
cứu sinh tiếp tục nghiên cứu, làm rõ một số nội dung sau:
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về tư duy chiến lược; tầm quan
trọng của nâng cao trình độ tư duy chiến lược đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở
nước ta hiện nay; những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao trình độ tư duy chiến
lược cho cán bộ lãnh đạo; thực chất của việc nâng cao trình độ tư duy chiến lược
- Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phân tích rõ những ưu điểm, hạn
chế và những vấn đề đặt ra về trình độ tư duy chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao có hiệu quả trình độ tư
duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.


23
Như vậy, có thể nói, luận án có sự kế thừa nhất định từ kết quả nghiên cứu
trước về tư duy, tư duy lý luận, tư duy chiến lược, về đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói
chung, đồng thời cũng đưa ra một số nội dung mới xoay quanh vấn đề về nâng

cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
Bàn về trình độ tư duy chiến lược là nội dung khó, ít cơng trình ở nước ta đề cập
đến, đặc biệt dưới góc độ triết học, tài liệu tham khảo còn hạn chế. Tuy vậy đây
lại là vấn đề lớn, thực sự cần thiết cho sự phát triển của đất nước, do đó nghiên
cứu sinh lựa chọn đề tài “Nâng cao trình độ tư duy chiến lược cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” với mong muốn đóng góp một cái nhìn hệ
thống, tổng qt hơn về tư duy chiến lược trong sự phát triển của tư duy nói
chung của con người.
Tiểu kết chương 1
Tư duy là vấn đề được nghiên cứu từ rất sớm trong lịch sử phát triển của
loài người, được khai thác ở nhiều cấp độ, nhiều khía cạnh, qua nhiều cơng trình
nghiên cứu lớn nhỏ khác nhau. Tư duy chiến lược là một loại hình của tư duy,
ngày càng trở nên cần thiết trong đời sống thực tiễn. Bởi thế, việc rèn luyện nâng
cao trình độ tư duy chiến lược là không thể thiếu đối với mỗi người, đặc biệt là ở
những người cán bộ lãnh đạo. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu có đề cập đến
tư duy chiến lược, nhưng nội dung trình bày về những chiến lược cụ thể đối với
từng lĩnh vực cụ thể, mà chủ yếu là đưa ra những chiến lược nhằm phát triển các
mặt khác nhau của kinh tế. Tuy nhiên, tư duy chiến lược là gì, thực chất tư duy
cần những yếu tố nào sẽ có được tư duy chiến lược, làm gì để rèn luyện và nâng
cao trình độ tư duy chiến lược thì chưa được đề cập. Như vậy, những vấn đề lý
luận về tư duy chiến lược, những nhân tố hình thành, vai trị của tư duy chiến
lược cần được bàn đến một cách hệ thống hơn. Chương tiếp theo của luận án
phần nào đi vào giải quyết những vấn đề đặt ra đó.


24
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC VÀ VAI TRỊ
CỦA NĨ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
2.1. TƯ DUY VÀ TƯ DUY CHIẾN LƯỢC


2.1.1. Khái niệm tư duy
Triết học Mác - Lênin chỉ ra rằng nhận thức là quá trình phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc người, ý thức của chúng ta chỉ là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan và dĩ nhiên nếu khơng có cái được phản ánh thì khơng
thể có cái phản ánh, nhưng cái được phản ánh tồn tại độc lập với cái phản ánh.
Bản chất của nhận thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới vật chất vào bộ
óc con người. Đây là một quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải quyết
mâu thuẫn chứ không phải quá trình phản ánh máy móc, giản đơn, thụ động và
nhất thời:
Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách thể.
Phản ánh của thế giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được
hiểu không phải một cách chết cứng, trừu tượng, không phải khơng
vận động, khơng mâu thuẫn, mà là trong q trình vĩnh viễn của vận
động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết những mâu thuẫn đó
[54, tr.207-208].
Nhận thức là một q trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá
trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít tới biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy đủ đến
đầy đủ hơn. Đây là một quá trình, khơng phải nhận thức một lần là xong, mà có
phát triển, có bổ sung và hồn thiện. Nhận thức là quá trình tác động biện chứng
giữa chủ thể và khách thể thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Hoạt
động thực tiễn của con người là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã
khẳng định vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới tính chân lý
khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề
thực tiễn.


25
Từ sự phân tích trên đây chúng ta có thể thấy, nhận thức là quá trình

phản ánh hiện thực khách quan một cách tích cực, chủ động, sáng tạo bởi con
người trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể. Nhận thức là quá trình
phản ánh và tái tạo hiện thực ở trong tư duy của con người, bị chi phối và
được quyết định bởi những quy luật phát triển xã hội và không thể tách rời
với hoạt động thực tiễn. Q trình phản ánh đó là một q trình phức tạp của
hàng loạt hoạt động trí tuệ với tính tích cực, sáng tạo, chủ động tiếp cận cái
mới và sẵn sàng tạo dựng nên cái mới. Bởi lẽ con người không chỉ phản ánh
thế giới khách quan, mà còn sáng tạo ra thế giới khách quan, tạo ra thiên
nhiên thứ hai cho mình thơng qua và bằng hoạt động thực tiễn. Con người,
với hoạt động thực tiễn của mình chủ động tác động vào sự vật, hiện tượng
làm cho chúng bộc lộ thuộc tính, trên cơ sở đó, con người hiểu biết và nắm
bắt được quy luật vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng. Nhận thức là một
quá trình biện chứng gồm hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính thống nhất hữu cơ đem lại cho con người sự hiểu biết ngày càng đầy đủ
hơn, toàn diện hơn về các sự vật, hiện tượng và các quá trình trong thế giới.
Mục đích của nhận thức là đạt tới chân lý khách quan. Trong quá trình nhận
thức, con người thu nhận được những kiến thức, những khái niệm về những
hiện tượng thực tế nhằm hiểu rõ thế giới xung quanh, nắm bắt được những
quy luật khách quan. Những kiến thức đó được sử dụng trong hoạt động thực
tiễn nhằm mục đích cải tạo thế giới, phục vụ những nhu cầu của con người.
Những tri thức có được qua q trình nhận thức là những dữ liệu cung cấp
cho quá trình tư duy và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy là đối
tượng phức tạp, được đề cập đến với nhiều lát cắt khác nhau.
“Tư duy - sản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức một cách đặc
biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái
niệm, phán đoán, lý luận…” [42, tr.634].
“Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc
biệt - Bộ não, q trình phản ánh tích cực hiện thực khách quan dưới dạng các
khái niệm, phán đoán, lý luận, v.v…” [116, tr.701].



26
“Tư duy là nhận thức bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng
những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý” [117, tr.1756].
Qua những khái niệm về tư duy được đưa ra cho thấy, tư duy là thuộc tính
chỉ có ở con người, là sự phản ánh ở cấp độ cao nhất trong thế giới vật chất. Tư
duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như triết học,
tâm lý học, loogic học, điều khiển học, v.v... Triết học xem xét tư duy dưới lát
cắt lý luận phản ánh. Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức; đó là q
trình khái qt hóa, trừu tượng hóa, mang tính tích cực, sáng tạo. Nó có tính gián
tiếp và gắn liền với ngôn ngữ; tư duy hướng sâu vào nhận thức bản chất, tìm và
chỉ ra quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Tư duy xuất hiện trong quá trình lao động sản xuất xã hội của con người.
Trong q trình đó, con người so sánh các thông tin, dữ liệu thu được từ nhận
thức cảm tính hoặc các ý nghĩ với nhau. Trải qua các q trình khái qt hóa,
trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp để rút ra các khái niệm, phán đốn, giả
thuyết, lý thuyết. Kết quả của q trình tư duy bao giờ cũng là sự phản ánh thực
tại một cách gián tiếp, sự phản ánh khái quát các thuộc tính, các mối liên hệ cơ
bản, phổ biến, các quy luật không chỉ ở một sự vật riêng lẻ, mà cịn ở một nhóm
sự vật nhất định, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại. Vì vậy,
tư duy bao giờ cũng là sự giải quyết vấn đề thông qua những tri thức đã nắm
được từ trước.
Như vậy, qua những phân tích về tư duy, ý thức và nhận thức có thể thấy
chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, đều phản ánh hiện thực khách quan
thơng qua bộ óc trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Tất cả những yếu tố này đều bị
chi phối bởi những quy luật sinh học và xã hội, trong đó các quy luật xã hội giữ
vai trị quyết định. Tuy vậy, chúng là những khái niệm chứa đựng nội hàm khác
biệt. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, ý thức có
nhiều cấp độ khác nhau. Nhận thức là quá trình phản ánh đó. Tư duy là kết quả
của nhận thức đồng thời là sự phát triển ở cấp độ cao của nhận thức. Như vậy, tư

duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực
tiễn của con người. Theo Ph.Ănghen, tư duy của con người, vừa tối cao, vừa


27
khơng tối cao, tuy vào những góc độ nhìn nhận khác nhau. Tư duy ở phương
diện không tối cao và có hạn là xét theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể
của tư duy thì nó khơng tối cao và có hạn. Xét theo bản tính và khả năng thì
tư duy của con người là tối cao và vô hạn. Xuất phát điểm của nhận thức là
những cảm giác, tri giác và biểu tượng được phản ánh từ thực tiễn khách quan
với những thơng tin về hình dạng, hiện tượng bên ngoài được phản ánh một
cách riêng lẻ. Ở giai đoạn sau, với sự hỗ trợ của ngôn ngữ, hoạt động tư duy
tiến hành các thao tác so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, khu biệt, quy
nạp những thông tin đơn lẻ, gắn chúng vào mối quan hệ phổ biến, lọc bỏ
những cái ngẫu nhiên, không căn bản của sự việc để tìm ra nội dung và bản
chất của sự vật, hiện tượng, khái quát thành những khái niệm, phạm trù, quy
luật. Đây chính là quá trình tư duy trừu tượng. Như vậy, cả nhận thức và tư
duy đều là những quá trình hoạt động để mang lại những tri thức mới về sự
vật, hiện tượng, đối tượng nghiên cứu.
Bản chất của tư duy luôn là tìm tới chân lý khách quan, phát hiện ra bản
chất của sự vật, hiện tượng. Bởi thế, mặc dù tư duy, ý thức là phạm trù của triết
học nhưng ngày nay nó cịn là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học cụ thể
khác với mục đích là bồi dưỡng, phát triển nhằm kích hoạt, tăng cường khả năng
sáng tạo tư duy của con người hay một tập thể cộng đồng người, giúp cá nhân
hay tập thể đó tìm ra các phương án, lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các
vấn đề nan giải trong xã hội.
Tư duy hồn tồn khơng tồn tại ngồi hoạt động sống của con người. Nếu
con người chỉ tạo ra hết hoạt động logic này đến hoạt động logic khác mà trên
thực tế lại không nhận thấy, không cảm thấy, không thể nghiệm sự đối chiếu
thường xuyên ý nghĩa của các khái niệm của mình với những hoạt động tích cực

và những cảm biết về hiện thực thì sẽ khơng hiểu được và không nhận thức được
hiện thực và không hiểu được ngay bản thân mình, tức là sẽ khơng có ý thức.
Tư duy của con người ln mang tính sáng tạo. Tư duy, trên cơ sở hoạt
động thực tiễn ln có xu hướng vươn tới những nhận thức mới và thực tiễn
chính là cơ sở, động lực, là mục đích của tư duy. Trên cơ sở phép biện chứng


28
duy vật, xét những duy luật xã hội đã được khái quát thì khi những điều kiện
và hoạt động thực tiễn cịn ở trình độ thấp thì tương ứng với nó là cấp độ tư
duy ở trình độ thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến trình độ cao hơn, cùng
với những điều kiện của thực tiễn phát triển thì trình độ tư duy cũng theo đó
được nâng lên. Tùy thuộc vào việc xem xét, nhìn nhận mà có thể chia ra
những kiểu tư duy khác nhau. Nếu xét theo trình độ, có thể chia thành tư duy
kinh nghiệm và tư duy lý luận; xét theo tầm nhìn, có thể chia thành tư duy
sách lược và tư duy chiến lược…
Tư duy kinh nghiệm là một trình độ tư duy của con người, đã thể hiện
năng lực trừu tượng hóa nhưng ở trình độ thấp. Với tư duy kinh nghiệm, người
ta cũng có thể rút ra những kết luận tương đối chính xác về sự vật, hiện tượng,
nhưng đó chỉ là sự vật, hiện tượng riêng lẻ mà chưa khái quát lên được mối liên
hệ bản chất, tất yếu của các sự vật, hiện tượng. Ở tư duy kinh nghiệm, các
phương pháp và thao tác lơgíc được hình thành một cách tự phát, dựa trên những
nếp nghĩ quen thuộc, dựa trên những tri thức kinh nghiệm. Do tính khoa học của
tư duy kinh nghiệm cịn ở mức độ thấp nên nó phản ánh bản chất sự vật, hiện
tượng ở cấp độ chưa thực sự sâu sắc, việc chỉ ra những quy luật cũng chỉ mang
tính kinh nghiệm, yếu tố dự báo với độ tin cậy chưa cao.
Tư duy lý luận là một trình độ tư duy của con người, xét về trình độ phản
ánh thì nó phản ánh sâu sắc bản chất của sự vật, hiện tượng. Nó đi sâu phản ánh
các thuộc tính, mối liên hệ có tính bản chất, tất yếu, tính quy luật của đối tượng.
Bởi thế, tư duy lý luận có khả năng nhìn nhận, đánh giá, phê phán sâu sắc và triệt

để vấn đề mà nó phản ánh; có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. Ở tư duy lý luận, các phương pháp được hình
thành dựa trên những tri thức lý luận, được chủ thể nhận thức, sử dụng một cách
chủ động, tự giác.
Tư duy lý luận là tư duy được hình thành trên cơ sở khái quát tri thức kinh
nghiệm nhờ sức mạnh của sự trừu tượng hoá và khái quát hoá của tư duy. Tư
duy lý luận, xét về bản chất đối lập với tư duy kinh nghiệm. Tư duy lý luận là tư
duy mang tính gián tiếp và khái qt hố cao do nó đã qua rất nhiều bước trung


29
gian hố, trừu tượng hố. Tri thức lý luận có khả năng phản ánh được hiện thực
ở mặt bản chất, trong những mối liên hệ bên trong mang tính qui luật. Tư duy lý
luận là tri thức được hệ thống hố nên nó đem lại cái nhìn mang tính chỉnh thể
bao quát, đầy đủ và toàn vẹn về đối tượng phản ánh. Bằng tư duy lý luận, chủ thể
có thể chỉ ra được bản chất bên trong của chính sự vật, hiện tượng. Tư duy lý
luận đã giúp cho nhận thức của con người trở thành nhận thức lý luận đích thực
khi nhận thức ấy thơng qua biểu hiện vận động bề ngoài mà suy luận được sự
vận động bên trong, những đặc điểm bản chất của những hiện tượng đó. Với
những đặc điểm đó tư duy lý luận khơng những chỉ ra những phương hướng mới
cho hoạt động thực tiễn của con người, mà còn làm cho hoạt động đó mang tính
chủ động, tự giác và sáng tạo.
Tư duy lý luận không chỉ là tư duy bằng tri thức lý luận, mà còn là tư
duy bằng phương pháp khoa học. Lý luận chứa đựng trong nó khả năng trở
thành phương pháp, nhưng bản thân lý luận tự nó chưa phải là phương pháp.
Lý luận là tri thức, nguyên lý, qui luật, nhưng phương pháp lại là hệ thống
những nguyên tắc, được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan, tri thức
lý luận để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tieenc của con
người nhằm đạt mục tiêu đề ra. Bằng lối tư duy kinh nghiệm, các phương
pháp và các thao tác lơgíc được hình thành một cách tự phát, dựa trên những

nếp nghĩ quen thuộc hoặc dựa trên những tri thức kinh nghiệm. Ngược lại,
đối với tư duy lý luận, các phương pháp được hình thành dựa trên những tri
thức lý luận và được nhận thức, sử dụng một cách chủ động, tự giác, kết quả
của q trình tư duy đó là những thành quả trong thực tiễn đã được hình
dung trước.
Từ những đặc trưng trên có thể hiểu, tư duy lý luận khoa học là tư duy ở
cấp độ nhận thức cao của con người, có vai trị quan trọng trong nhận thức và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn của con người; được thực hiện dựa trên nguyên tắc
phương pháp luận biện chứng duy vật và các thao tác tư duy lôgic để nắm bắt
các mối liên hệ mang tính bản chất, tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn
trong khách thể nhận thức, từ đó có thể tạo ra những mơ hình lý luận phù hợp


×